1-11-1963, Một ngày, ngày đã qua

1-11-63, Một ngày, ngày đã qua.

Nay thì cái ngày ấy cũng không còn được nhắc nhở đến trong năm ở Việt Nam nữa. Hơn thế, nó cũng không còn chút lưu luyến nào trong lòng người Việt đã bỏ nước ra đi. Phần những người tạo ra cái ngày ấy cũng đã rủ nhau về bên kia cả rồi. Không biết có ai trong họ đã gặp lại “Người Xưa” chưa, và khi gặp lại đã nói chuyện gì nhỉ? Xin tạ tội hay vênh váo? Riêng nơi gọi là tỵ nạn còn lại một vài kẻ đứng đầu trong cuộc bội phản giết người năm ấy thì vẫn ngậm thóc, không một lời xám hối, tạ lỗi với dân. Tại sao lại im thế? Vì hết vinh quang trên máu “Ngươì Hiền” hay vì biết đó chỉ là những ngày phản thầy, bán nước lừa dân mà bản thân họ đóng vai nhớn?

Dĩ nhiên, những câu hỏi này không ai có thể giải đáp, ngoại trừ chính bản thân của họ. Tuy thế, sau ngày Việt Nam rơi vào tay cộng sản, ở phương trời hải ngoại cũng xuất hiện năm ba cuốn sách viết về Việt Nam, viết về ngày ấy, mà tác gỉa đều là những kẻ dính vào máu “Người Hiền” như Trần văn Đôn, Đỗ Mậu, Nguyễn chánh Thi… thì toàn là chuyện hươu nai, cho mình xứng vai lãnh tụ hơn là bầy nhím. Theo đó, mười chữ không được một vài chữ thật. Cùng với luận điệu này, cũng có một số sách báo khác cùng loại với “tam điểm” thì không khác gì một đống rác thối mục.

Ở một chiều ngược lại. Cùng với những hé lộ trong cuốn “ The lost Mandate of Heaven” này, tác giả Geoffrey Shaw dựa vào các tài liệu được giải mật từ các cơ quan chính quyền Hoa Kỳ như cơ quan tình báo CIA, Bộ Ngoại Giao, Bộ Quốc Phòng, Tòa Bạch Ốc… để trình bày một cách khoa học diễn tiến các sự kiện đưa đến cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Đồng thời, Geoffrey Shaw đã lên án chính quyền John F. Kennedy can dự, đã tiếp tay trong việc lật đổ chính quyền của TT Ngô Đình Diệm bằng cách xúi dục một cuộc đảo chánh bạo loạn vào ngày 1-11- 963.

Bên cạnh đó là một số tác phẩm của những tác gỉa Nguyễn văn Lục với “Một thời để nhớ” (2011). Hoặc “Ngô đình Diệm, Hồ chí Minh và cuộc chiến quốc cộng” của Minh Võ. Rồi “ kẻ sỹ cuối cùng” của Phạm phong Dinh hay Nguyễn hữu Duệ, một người sỹ quan của phủ TT đã ghi lại vết tích và câu chuyện xưa như là một chứng minh của lịch sử còn sống trong “ Nhớ lại những ngày ở bên cạnh TT Ngô đình Diệm”(2003)… là những chỉ dẫn, chi tiết đáng khích lệ, tôn trọng. Xem ra, những sự kiện này đã giúp cho những người đi sau tìm hiểu được sự thật của giai đoạn này một cách chuẩn xác hơn.

Từ đó, bài viết này, viết về những ngày đầu tháng 11-1963 mà tác gỉa khi đó chỉ vừa bước chân lên trung học, nó như là một hoài niệm, tiếc nuối hơn là một nhận định, chỉ dẫn.

Lớp học của chúng tôi hôm nay lạ lùng lắm. Trong lúc lũ học trò miền quê vẫn chăm chú vào bài vở thì thầy giáo, cô giáo cứ đi ra đi vào to nhỏ. Bất ngờ thầy giáo trở lại bảo:

  • Các trò về nghỉ đi, hôm nay ở Sài Gòn có biến, nên thầy cô cho các em về sớm…
  • Thưa thầy ngày mai có đi học không ạ?

Thầy chưa trả lời, một vài học sinh lớp lớn hơn chạy ùa vào lớp tôi, gọi tên nhau rối rít:

  • Về đi, về mau đi… Sài Gòn đảo chánh rồi…

Chỉ bấy nhiêu thôi, lũ học trò bé nhỏ chúng tôi ùa ra sân reo hò mừng rỡ. Thầy cô đứng lặng lẽ nhìn nhau. Họ nhìn nhau và có lẽ chính họ thấu hiểu cái ý nghĩa của cái ngày 01-11-1963 hôm nào kia như thế nào.

Trong khi đó, chẳng ai bảo ai, một lũ trẻ nối tay rời trường. Chúng ôm sách vở chạy thục mạng trên những con đường quen để về nhà với những tiếng reo hò còn lớn hơn những ngày hội chợ mổ trâu, mổ bò:

  • Đảo chánh rồi, đảo chánh rồi, đồng bào ơi, đảo chánh rồi. Bọn giết người ở Sài Gòn bị lật đổ rồi.

Dĩ nhiên, tôi cũng là một đứa trẻ to mồm vào buổi trưa hôm ấy. Chạy về đến nhà, chưa kịp khoe cái tin lớn với bố mẹ, tôi đã thấy ba tôi ngồi bên cái Radio với vẻ mặt căng thẳng. Thấy vậy, tôi chạy đến bên, hỏi nhỏ:

  • Bố ơi, đảo chánh rồi, những tên phản loạn giết người hôm nào đã bị giết chưa?

Người không trả lời chỉ đưa mắt nhìn anh em tôi và lên tiếng bảo chúng tôi như khi đi học về: Đi tắm rửa, nghỉ ngơi rồi ăn cơm. Nghe thế, sau khi cất sách vở, tôi chạy vụt sang nhà người bạn. Ở đó, tôi cũng bắt gặp những ý nghĩ khác với những ngày trong mấy tháng vừa qua…

 Câu chuyện ấy qúa xưa rồi phải không? Đúng thế. Nhưng còn đau hơn thế, dân tộc tôi đã bị tan bay xác pháo vào ngày 30-4-1975. Từ đây, hầu như không một nhà nào ở miền nam tránh khỏi cảnh người bên đông, kẻ sang tây hoặc với những vành khăn tang tập thể. Cảnh nhà tôi, cũng không mấy sáng.  Một nhà mà những năm cái cùm của cộng sản đeo vào chân. Nay ba người trong số đó có cha tôi đã ra đi, còn một người khác đang trong cơn sống cũng dở mà chết cũng chưa xong! Chuyện Việt Nam quê ta là thế. Mà lạ chưa, cái tên xuất hiện vào trưa ngày 30-4-1975 trên đài phát thanh Sài Gòn xin đầu hàng CS lại củng chính là cái tên lên giọng vào trưa ngày 01-11-1963!

Nay nhân ngày 01-11 lại về, tôi xin mở lại trang sách cũ xem người ta nói gì, nghĩ gì và bản thân nó ra sao? Nó phải được quên đi, hay mãi hằn như vết thương, cơn đen của lịch sử Việt Nam?

  1. Một định định nghĩa:

Ngày Quốc Khánh là ngày gỉ? Ai cũng biết đây là ngày lễ của Quốc Gia. Nhưng khi cần ghi chi tiết đầy đủ hơn, với tôi, Quốc Khánh là một ngày lễ quan trọng đáng ghi nhớ của một Dân Tộc. Đó là ngày ghi dấu sự kiện làm khai sinh, làm thay đổi lịch sử và đời sống chính trị của quốc gia. Nó có ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống cũng như tinh thần của người dân trong khi nó còn hiện diện. Td như:

  1. Ngày lập quốc của Hoa Kỳ, ngày 4-7. Đây là ngày chấm dứt cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ và khai sinh ra hệ thống chính trị liên bang theo hệ Dân Chủ, một chủ đích mà mọi quốc gia đều mong đạt đến.
  • Cách mạng Pháp. Đây là ngày Pháp lật đổ nền Quân Chủ để trở thành một quốc gia theo thể chế Cộng Hòa với chính niệm Dân làm Chủ (1789).
  • Cuộc gọi là cách mạng tháng 10 tại Liên Sô thế nào?  

Người ta còn nhớ, Quốc Khánh Lìên Bang Sô Viết là ngày 7-11-1917, ngày diễn ra và hoàn tất cuộc cách mạng tháng mười lật đổ Nga Hoàng. Ngày đánh dấu việc ra đời của nhà nước cộng sản Liên Bang Sô Viết. Là ngày nó rống lên tiếng qủy đỏ làm kinh khiêp cả thế giới. Tuy nhiên, cái chế độ bạo tàn cộng sản này đã bị người dân Nga vùi dập, phần tập đoàn cộng sản tạo nên nó thì đi vào vào đống bùn của lịch sử rồi. Ngày nay, người ta còn nhắc đến nó là để nhắc lại những tội ác do chúng tạo ra cho người dân Liên Bang Sô Viết cũng như Đông Âu để cho nhân loại ghi nhớ mà thôi.

Bởi lẽ, tiếng nói Tự Do và ngọn cờ của tổ quốc Liên Bang Nga đã trổi lên bầu trời vào ngày12.6.1990. Đến năm 1992 ngày này được tổ chức lần đầu tiên như là “Ngày ký bản Tuyên Ngôn chủ quyền của nước Nga” những năm sau đó vẫn được tổ chức như một ngày lễ hội lớn cho đất nước. Đến năm,  1998 Tổng Thống Nga lúc bấy giờ cũng là người lãnh đạo cuộc lật đổ cộng sản Liên Bang Sô Viết là Boris Yeltsin đã chính thức ban hành một đạo luật và công nhận ngày này là “Ngày Quốc Khánh” của Liên Bang Nga.

  1. Ở Việt Nam ta thế nào?
  1. Ngày  11-3-1945.

Sau khi Nhật đầu hàng đồng minh, vua Bảo Đại đã nắm lấy cơ hội và tuyên bố Việt Nam là một quốc gia Độc Lập vào ngày 11-3-1945. Đồng thời tuyên bố xé bỏ mọi hoà, hiệp ước với Pháp mà tiền triều nhà Nguyễn đã ký với Pháp trước đó. Việc làm này tạo ra một mốc điểm căn bản trong cơ chế Pháp lý của Việt Nam. Trước hết, minh định tính Độc Lập với trọn bộ chủ quyền của đất nước thuộc về dân tộc Việt Nam từ ngày 11-3-1945.

Dĩ nhiên, điều công bố của vua Bảo Đại là thành sự và có đủ lý lẽ pháp lý và lịch sử. Không một văn bản nào có thể chối bỏ được gía trị thành sự của bản công bố này. Từ đó, việc vua Bảo Đại chỉ định ông Trần trọng Kim làm Thủ Tướng để thành lập chính phủ vào ngày 17-4-1945 chỉ là công việc tiếp nối. Kế đến, việc người dân kéo nhau xuống đường biểu tình để mừng ngày quốc gia thoát ách đô hộ. Chuyển mình thành một quốc gia Độc Lập và có chủ quyền là một việc rât đáng làm.  

Tuy nhiên, điều không ngờ là từ cuộc diễn hành này lại xảy ra một ung nhọt khác làm cho Việt Nam tang thương trong gần một thế kỷ qua. Đến nay vết thương vẫn chưa thể hàn gắn.

Sự việc là: Giữa lúc người dân thành phố Hà Nội xuống đường để ủng hộ và chào mừng chính quyền mới sau ngày Độc Lập của Tổ Quốc, tập đoàn Việt Minh đã nhân cơ hội cho người trà trộn vào đoàn biểu tình và trương cờ Phúc Kiến lên để biến cuộc biểu tình tuần hành mừng chính phủ Trần trọng Kim, thành cuộc nổi loạn, cướp đoạt lấy chính quyền. Đã thế, sau ngày 19/8/1945 lại dẫn đến ngày 2/9/1945, Hồ chí Minh, một kẻ vô danh, có một lý lịch bất minh, trong hàng ngũ cán cộng này thò đầu ra tuyên bố đó là ngày Độc Lập của Việt Nam. Nhưng chỉ vài hôm sau, chúng lại kéo nhau chui vào rừng ẩn trốn và nhờ Tàu cộng đem quân sang giúp đỡ giống như trường hợp của Lê chiêu Thống năm xưa. Tuy nhiên có điều khác xưa là, lần này Lê chiêu Thống thành công và mười năm sau chúng lại kéo nhau vào phố xây dựng công quyền, lập nên chế độ CS tại bắc Việt Nam.

  • Ngày công bố nền Cộng Hòa tại Việt Nam, 26-10-1955

Trong khi đó về diện chính sử, chúng ta ghi nhận rằng: Chính thể Quốc Gia Việt Nam tuy được hình thành từ nhiều phe phái theo chủ nghĩa quốc gia chống Cộng từ giữa năm 1949, nhưng vẫn mang nguyên thể quân chủ chuyên chế, không có Hiến pháp và Quốc Hội, duy chỉ có Bảo Đại trong vai Quốc Trưởng. Trong khi đó, Pháp vẫn giữ quyền kiểm soát tài chính, thương mại và chính sách đối ngoại và quân sự của Quốc gia Việt Nam.

Vì những điểm bất cập này, sau khi Hiệp định Genève 1954 được ký kết, lực lượng quân sự Pháp rút về phía nam vĩ tuyến 17 với tổng số lên đến 36.000 quân và người Pháp vẫn không chịu trao trả quyền ngoại giao và quốc phòng lại cho Việt Nam. Nên chính phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm phải ra lệnh thu hồi và chấm dứt nhiệm vụ của các cơ sở công cộng từ tay Cao ủy Pháp Paul Ely. Cũng thế, tháng 1- 1955 tướng Agostini phải trao trả quyền chỉ huy quân đội Quốc gia Việt Nam lại cho VNCH. Ngày 28-4-1956 quân Pháp hoàn toàn triệt thoái khỏi Việt Nam.

  1. Nhìn về tương lai.

Khi nhìn về tương lai, vào ngày 6-7-1955, TT Ngô đình Diệm tuyên bố trên đài phát thanh là không chấp nhận Tổng Tuyển cử vì Quốc Gia Việt Nam đã không ký vào Hiệp định Genève nên không bị ràng buộc bởi điều lệ trong Hiệp định này.

Hơn thế, o

sau ngày trưng cầu dân Ý 23-10-1955, Ông Ngô Đình Diệm đã thay thế Bảo Đại làm Quốc trưởng. Rồi vào ngày 26-10-1955, sau khi nhậm chức, Ông công bố “Quốc gia Việt Nam là một nước Cộng hòa“. Danh hiệu Việt Nam Công Hòa đã có từ đây. Trước hết, ngày này chấm dứt mọi chủ trương của thời quân chủ trên đất nước này. Thứ hai, mở ra con đường Tự Do, Dân Chủ, Dân Quyền cho dân tộc dưới ánh sáng của nền Cộng Hòa. Từ đó, ngày 26-10 trở thành Ngày Quốc Khánh của Việt Nam Cộng Hòa.

Ở đây có một điểm liên kết cần ghi nhớ là: Ngày 11-3-1945 là ngày được quốc trưởng Bảo Đại công bố là ngày Độc Lập của Việt Nam, nhưng vẫn còn nằm trong hệ quân chủ lập hiến. Mãi đến ngày 26-10-1955 mới được QT Việt Nam lúc bấy giờ là Ngô đình Diệm công khai tuyên bố Việt Nam bãi bỏ chế độ quân chủ trên toàn cõi Việt Nam. Thay vào đó là thành lập nền Cộng Hòa cho Việt Nam. Từ đây diện địa Việt Nam, bao gồm cả các đảo ngoài khơi đều mang một danh xưng chung là Việt Nam Cộng Hòa.

  • Những cải tổ,

Ngày 1-1-1955 ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, chính thức phát hành tiền tệ riêng. Trong thời kỳ 1955-62, có 16 loại tiền, chia làm ba kỳ, mệnh giá tiền giấy từ 1 đồng đến 500 đồng. Viện Hối đoái giữ vai trò quy định hối xuất giữa đồng bạc Việt Nam và các ngoại tệ. Cũng từ đây hệ thống tài chánh, kinh tế quốc dân cũng như hành chánh và giáo dục đã hoàn toàn đổi mới, mang lại bộ mặt tươi sáng cho đất nước. Ở đó, an ninh quốc phòng và đời sống tự do, an sinh, phúc lợi của người đã đạt một thành tích lãy lừng trong lịch sử, hơn hẳn cả những gì mà CS đã cố gắng vẽ bày ra sau đó 70 mươi năm.

  • Chính sách chống Cộng Sản.

Sau ngày xuôi nam, chính phủ NĐD đã phát động chiến dịch  ‘tố cộng và diệt cộng” từ mùa hè năm 1955. Thành  phần Việt Minh còn ở lại đã tự nguyện khước từ chủ nghĩa cộng sản để bước vào cuộc sống yên vui đời mới. Bởi lẽ, theo Điều 7 của Hiến pháp 1956 thì “những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với nguyên tắc ghi trong Hiến pháp“. Từ đó nơi nơi đều được an bình thái lạc, nở hoa.

  • Với thế giới.

Tính đến đầu năm 1960, tuy Việt Nam Cộng Hòa chưa được đón nhận là thành Viên chính thức tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc, nhưng Việt Nam Cộng Hòa là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế và Đông Nam Á. Tính cho đến thời điểm này đã có 55 quốc gia nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là chính Phủ đại diện cho Việt Nam. Trong khi đó, con số dám công khai lên tiếng nhìn nhận miền bắc như là một thực thể đại diện cho Việt Nam chỉ có thể đếm trên đầu các ngón tay.

  1. Những bước thăng trầm tại Việt Nam.

Trên trường quốc tế, từ đây 26-10-1955, Việt Nam là một quốc gia theo thể chế Cộng Hòa với hệ thống tam quyền phân lập: Hành Pháp, Tư Pháp và Lập Pháp. Ở đó, một cuộc phổ thông đầu phiếu trong tự do đã được tổ chức để chọn ra nhân sỹ lãnh đạo quốc gia, cũng như các đại diện cho người dân trong toà nhà Lập Pháp tại miền nam.

Từ đây, đời sống an sinh của người dân miền nam dưới thể chế Cộng Hòa đã được cải thiện, ổn định trông thấy. Tuy nhiên, vì sự kém hiểu biết, hoặc là sự ngu ngốc, đần độn, thiếu ý thức của một số kẻ theo hệ vô chính phủ, hoặc được cộng sản, thực dân cài cắm, chúng đã tạo ra những cuộc phản loạn tại miền nam như dùng máy bay của QĐ ném bom vào dinh Độc Lập. Hoặc tráo trở lừa đảo đoàn binh dưới quyền khi đưa họ về thành phố tham dự vào những cuộc phản loạn do Nguyễn chánh Thi hay Vương văn Đông tạo ra. Kết qủa, tất cả đã được dẹp yên. Tuy nhiên sau cuộc đảo chánh vào ngày 01-11-1963 lại là chỉ dẫn khác. Ở đó TT Ngô đình Diệm không còn, ngày bình an, hoan lạc của miền nam cũng dần trôi theo mây khói, rồi lao đầu vào những bất hạnh từ sau 30-4-1975.

Khởi đầu, cộng sản xâm nhập vào miền nam và mở ra trận chiến cấp tiểu đoàn. Biên cương mỗi lúc một vang ầm tiếng súng. Trong lòng phố, một cuộc chiến không súng đạn nhưng vô cùng tàn nhẫn và độc hại gọi là ‘đòi tự do Tôn Giáo” do Phạm văn Bồng, một đảng viên cộng sản dưới lớp áo nhà tu là TT thích trí Quang bùng lên, tạo thành khói lửa, góp vốn cho CS thiêu rụi nhà Việt Nam.

Cuộc vận động này khởi đi từ đài phát thanh Huế, mỗi lúc một nở rộ ở Sài Gòn. Từ đây, nó mở ra một cuộc chiến không thể tranh thắng từ chính quyền. Tiếp đến, một số tướng lãnh như Dương văn Minh, Trần thiện Khiêm, Trần văn Đôn, Tôn thất Đính, Mai hữu Xuân, Đỗ Mậu… nhận lấy ba triệu bạc Việt Nam vào thời ấy từ phía Hoa kỳ để làm cuộc tạo phản, giết chủ vào ngày 1-11-1963. Vinh quang nào sẽ đến cho những tên phản chủ, bội tín với nhân dân đây? Câu trả lời là chỉ ba tháng sau, ngày 30-1-1964 có một cuộc đảo chính khác gọi là chỉnh lý do Nguyễn Khánh thực hiện. Kết qủa, toàn bộ nhóm chủ trương của ngày 01-11-1963 khoanh tay chịu trói và bị tước đoạt mọi  danh phận, ngoài trừ một tay ngoại hạng là Trần thiện Khiêm.

Khởi đi từ đây, cuộc sống làm lãnh tụ trên chính trường của miền nam, có  khi chỉ vài ba tháng, vài ba ngày hoặc vài năm qua những danh tài Dương văn Minh, Nguyễn Khánh, Phan khắc Sữu, Trần văn Hương, Phan huy Quát. Nhưng phận người dân miền nam thực sư đi vào ngõ tối với cuộc biến động miền trung do Thích trí Quang và Thích thiện Minh chỉ đạo. Trong khi đó, lính Mỹ mỗi ngày đổ thêm quân vào phần đất này, chẳng còn quận lỵ nào thiều bóng ngoại nhân. Tuởng cũng nên nhắc lại, Tổng thống Diệm là người không bao giờ chấp nhận cho dấu vết của những đôi giày này lê gót trên phần đất Việt Nam. Nhưng nay ông đã không còn, nên phận những kẻ thừa hành sau 1-11-63, không bao giờ dám có ý kiến khi Mỹ dổ thêm quân vào hay rút ra khỏi Việt Nam.

Nhân cơ hội này, với mưu tham tàn đô hộ của Tàu cộng từ ngàn xưa, Hồ chí Minh nhận được lệnh đưa thêm quân vào để chiếm lấy miền nam trong cơn hỗn loạn dưới chiêu bài ‘chống Mỹ cứu nước”.

Ai cũng biết, miền bắc đã hoàn toàn kiệt quệ, cơ khổ sau mùa đấu tố do Hồ chí Minh vung tay với hơn 170,000 chủ gia đình bị Y tàn sát. Phần thân nhân của họ thì hoàn toàn mất tung tích từ đó. Ai còn sống, ai đã chết, chẳng có sách vở nào ghi chép lại. Đã thế, cơn đói, cuộc nghèo khổ, sau những ngày làm trâu, làm bò kéo cày trên các cánh đồng đã giết chết hoàn toàn ý lực của người dân miền bắc. Tuy nhiên, mộng tham tàn của cộng sản không bao giờ cạn.

Kịp đến lúc nhà lãnh đạo của miền nam đã bị phản bội, Hồ chí Minh như vồ được cái phao lớn, Y đẩy miền bắc vào cuộc chiến tranh với miền nam. Y thoát dần lòng căm thù của ngưòi miền bắc dành cho Y. Rồi thay vào đó, lòng căm thù đế quốc Mỹ và  bọn ngụy ở miền nam tăng lên thành cao trào khi máy bay của Hoa kỳ dội bom xuống miền bắc.

Kết qủa, cuộc chiến càng về chiều càng co cụm. Trước hết là cuộc tháo chạy của Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. Kế đến, những đồn bót cấp tiểu đoàn của Việt Nam ở biên cương thất thủ. Nó đổ dồn lên Ban mê Thuột,  Pleiku, Kon Tum rồi tràn ra biển. Bỏ Quảng Trị, mất Đà Nẵng, Nha Trang…. rồi Đà Lạt, Tây Ninh…

Cuối cùng, chuyện gì đến đã đến. Kẻ chỉ huy sư đoàn 5 trong cuộc đảo chánh  tấn công vào Dinh Độc Lập năm nao thành anh hùng “ cách mạng 1-11-63” để nhận tiền và thăng cấp, nay lại anh dũng lên truyền hình trong vai Tổng Thống của miền nam ra bài quyết chiến: “ dù không còn là TT/ VNCH, nhưng tôi còn là một người lính của QĐ/VNCH.  Tôi nguyện là một chiến binh cầm súng chiến đấu bảo vệ quê hương với anh em”…

Băng thu còn đó, nhưng chỉ nửa giờ sau, Thiệu đã vội ra xe với tóan lính Mỹ hộ vệ, rời khỏi Việt Nam, mặc cho binh sỹ còn ở lại chiến đấu và vào tù cộng sản sau này. Đấy, hãy nhìn xem, những anh hùng của cuộc đảo chánh năm 1963 và giết chủ là như thế đấy. Mà đâu phải chỉ có một mình Thiệu, những Khiêm, Kỳ, Khánh, Đôn, Đính, Xuân, Mậu, rồi Lắm…  đều thế cả. Họ chạy rất nhanh. Chỉ có một Nguyễn văn Nhung ở lại để đền tội ác cho bản thân và tập thể lãnh đạo của y thôi.

  1. Thay lời kết.

Chuyện dài qúa, nhắc lại càng thêm buồn. Nên thôi, tôi xin đề nghị người miền nam Việt Nam chúng ta không nên và không bao giờ nhắc đến ngày 1-11- như là ngày quốc khánh của miền nam nữa. Thay vào đó, hãy ghi nhớ nó như là một ngày phản bội lại nguyện vọng trung thực của dân tộc thì hơn.

Thay vào đó, hãy cùng nhau chung tay tiêu diệt toàn bộ tập đoàn Việt cộng thờ Tàu trên toàn cõi Việt Nam cũng như tàn dư của chúng tại Hải ngoại. Hãy sắt son, nắm chặt tay nhau và tâm nguyện rằng: Ngày ấy sẽ phải đến. Đến với quê hương và dân tộc Việt Nam. Và chính ngày ấy sẽ mở ra một tương lai mới cho dân tộc Việt Nam. Ở đó là Hòa Bình, là Tự Do, là Dân Chủ là Công Lý cho toàn dân và là ngày Độc lập của Tổ Quốc Việt Nam. Ngày ấy mới chính là ngày Quốc Khánh của Việt Nam chúng ta.

Bảo Giang

1-11-2020.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Thư gửi các đoàn đảng viên đảng cộng sản Việt Nam.

Thư gửi các đoàn đảng viên đảng cộng sản Việt Nam.

Bạn thân mến,

Trước hết, tôi vẫn muốn trân trọng gọi bạn là bạn, vì bạn và chúng tôi đều là người Việt Nam, mang trong mình dòng máu của Nhị Trưng, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Quang Trung….  Như thế, theo nguyên nghĩa, chúng ta chẳng phải là thù địch của nhau. (nếu có thì đó chỉ là do cái ý thức mà chúng ta đã bị trao khoác trên mình vì thời cuộc hay hoàn cảnh mà thôi.)

Nay xin bỏ ra ngoài cái ách bị ràng buộc ấy, tôi muốn gọi bạn là bạn, những người bạn trong tình nghĩa Việt Nam để tôi viết lá thư này cho bạn, hơn là việc bạn là đoàn, đảng viên Việt cộng. Một tổ chức mà toàn dân Việt Nam muốn triệt hạ, để đưa Việt Nam vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Để từ việc triệt hạ này, dân ta có Tự Do. Đất nước chúng ta có Độc Lập. Rồi nguồn sống của dân ta là Công Lý và Hoà Bình sẽ triển nở, không một thế lực ngoại bang nào có thể áp bức được chúng ta.

Để cùng có thể bước đi chung với nhau trên đoạn đường Ý Thức như tôi vừa nêu trên, tôi không ngần ngại cho bạn biết những khác biệt giữa chúng ta. Hơn thế, có thể chỉ ra cho bạn thấy những sai trái phản bội, mà những kẻ đưa đường dẫn lối cho bạn, cho đàn anh chúng ta, đã lạm dụng ngôn từ “lịch sử”, để đưa bạn vào con đường sai lầm, phản bội với dân tộc, phản bội lịch sử. Sự sai lầm ấy là do chính họ đã rước voi về dày mả tổ, rồi lừa dối và trói buộc bạn vào con đường thờ voi, thay vì hương khói cho anh linh của dân tộc.

Bạn biết đấy, tôi được sinh ra từ Thái Bình, nhưng đã phải sớm bám theo đôi quang của mẹ, bước theo hướng đi của cha để vào nam vào năm 1954. Đến đây, xin bạn ngưng lại một chút, rồi nhìn đến cảnh những người di cư 1954, trong đó có tôi, đã không bao giờ chấp nhận cái ách thống trị của cộng sản trên quê hương Việt Nam này. Tại sao ư? Đơn giản là vì Tự Do đã cho họ một giá trị nhân bản và một phẩm hạnh làm người.

Nếu ở lại, tôi và họ cũng có cái thòng lọng cộng sản đeo vèo cổ như bạn. Chúng tôi cũng không thể phân biệt được thế nào là gía trị nhân bản dân tộc, thế nào là cộng sản, thế nào là quốc gia và cũng không thể phân biệt được đâu là chính nghĩa, ai làm tôi mọi cho Tàu. Từ đó, bạn sẽ hiểu được hoàn cảnh “chậm chân” của chính bạn hôm nay. Để hiểu thêm về vấn đề này, bạn hãy hỏi xem:

  • Tại sao đồng bào miền bắc lại bỏ cửa bỏ nhà, bỏ lại cả cơ nghiệp của mình để vào nam nhỉ?
  • Tại sao đã có hàng chục ngàn cán binh trong hàng ngũ bộ đội miền bắc, sau khi xâm nhập miền nam tham chiến, họ đã quyết định về hồi chánh với CP/VNCH?
  • Và tại sao sau ngày 30-4-1975, lại có hàng triệu người Việt Nam đã đạp trên cái chết để vượt biên, vượt biển, rời bỏ quê hương để đi tìm Tự Do?
  • Và rồi, ở một chiều ngược lại, bạn đã thấy những gì xảy ra ngay sau ngày 30-4-1975 ở Sài Gòn và các thành phố  tại miền nam?

Có phải là sau cái ngày miền nam sụp đổ ấy, hạnh phúc của tập đoàn CS miền bắc kia là có hàng hàng lớp lớp những đoàn xe môlôtôva, ngày đêm nối đuôi nhau chuyển tải từ gạo thóc, mắm muối đến giường chiếu, bàn ghế, nồi niêu, xong chảo, đồ ăn đồ dùng hàng ngày, đến những mặt hàng họ chưa bao giờ được nhìn thấy trong đời như tivi, tủ lạnh, máy hát…. Mà họ gọi là “điện, đài, đá, đổng, đạp”… là những đồ chuyên dùng thường nhật ở miền nam, nay được coi là giấc mơ ngoại hạng mà mọi cán binh VC đều mơ ước có được và khuân tải ra miền bắc không?

Rồi có bao giờ, bạn tự đặt và nhìn lại một câu hỏi là tại sao khi cha anh của các bạn được động viên vào nam tham chiến, họ đã được Việt cộng tuyên truyền hằng đêm hàng ngày là vì: “ở trong đó người dân bị bọn “Diệm Nhu, rồi Mỹ Ngụy, Thiệu Kỳ” kìm kẹp nên đói khổ, đến cái bát mẻ cũng không có, nên hạt gạo ở ngoài bắc phải cắn làm tư. Một phần để lại nuôi dân, một để nuôi quân, còn 2 phần kia thì gởi vào chi viện cho miền nam đói khổ… không? Kết qủa, ngày đi chỉ thấy trời đen thẳm, cúi xuống rưng rơi dấu lệ nhòa. Nên gay khi vào tới Trường sơn thì trăm người như một, đều chỉ có một mơ ước là được Hồi Chánh, về với ánh sáng miền nam. Tại sao lại như thế nhỉ?

Bạn bảo rằng đó là “kế sách tuyên truyền của chiến tranh chả nên trách”! Vâng có thế, chúng ta không nhắc đến chuyện ấy nữa. Nhưng sau 30-4-1975 bạn lại thấy những gì?

Khi đồng bào bỏ nước ra đi thì tên bán nước Phạm văn Đồng, kẻ đã ký văn bản giao Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam cho Tàu để nhận vũ khí, mở chiến tranh với miền nam đã nói gì về những người bỏ nước ra đi này? Có phải chính hắn đã to mồm như kẻ dại, vô học khi nói rằng: “đó toàn là bọn ma cô, đĩ điếm chạy theo chân Đế Quốc để kiếm bơ thừa sữa cặn”? Để rồi chẳng bao lâu sau, Võ văn Kiệt, một kẻ khác trong hàng ngũ cán cộng đồng cấp với Y, phải cúi rạp người xuống mà tâng bốc những người đã đi ấy là: “Người Việt Yêu Nưởc” là “Khúc ruột ngoài ngàn dặm” của tổ quốc. Hỏi xem, ai trong hai kẻ ấy là Người và nói tiếng người? Tôi hỏi thế vì lãnh đạo CS đã công khai xưng tụng những người bỏ nước ra đi kia là Người Việt Yêu Nước. Vậy tập đoàn CS Hồ chí Minh kia là ai, là Bọn phản quốc, hại dân chăng?

Ở đây, tôi không bảo bạn là đừng tin chúng, đừng để chúng lừa vì bạn là người có trí khôn. Thay vào đó, tôi viết lại những dòng chữ của họ mà bạn đã học thuộc lòng. Chỉ mong bạn nhìn lại một lần với chút suy nghĩ của tính nhân bản. Để từ đó, tự bạn hãy đánh gía xem ai, kẻ nào đã lừa dối, không phải chỉ riêng bạn, nhưng là cả dân tộc ta? Hy vọng, sau khi đọc lại, bạn sẽ tìm ra được điều chân thật cho chính bạn, và lẽ thật ấy sẽ hướng dẫn bạn cùng với người dân Việt chung nhịp bước để xây dựng lại quê hương Việt Nam. Hoặc gỉa, vẫn đối đầu với nhau, để bạn được vinh hoa khi làm thân nô lệ cho Tàu, trong lúc người dân Việt Nam yêu nước vẫn chung sức bên nhau triệt hạ chủ nghĩa cộng sản và hệ thống làm nô lệ cho Tàu mà Hồ chí Minh đã thiết lập trên đất nước này.

Như thế, với chủ trương muốn tìm ra nguồn sống thật cho dân tộc mai sau, nơi đây tôi xin ghi lại những điểm chuẩn và bước đi chính yếu của hai hướng đi trong gần một thế kỷ qua từ hai phía. Nhờ đó, bạn sẽ tìm ra lẽ thật, hướng đi đúng, để chúng ta cùng góp sức cho một Việt Nam mai sau. Ngược lại, nếu bạn chứng minh cho tôi được vài điều tử tế, có chính nghĩa của Việt cộng, tôi không ngần ngại theo bạn mà quy phục cộng sản.

  1. Miền bắc với cộng sản (1930… 2020)?
  1.  Hồ chí Minh, (1890- 2/9/1969), là ai ?
Hình ảnh có thể có: 2 người
  1. Sinh quán.

Hồ chí Minh được cho là Nguyễn tất Thành, người làng Nam Đàn. Hồ chí Minh là đảng viên đảng cộng Sản Trung cộng. Y đã được chính những tướng Tàu là Trần Canh, Vi quốc Thanh và binh đội Tàu đưa về lập căn cứ ở pacpó và cùng quân dân VN tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1954. Nhờ đó Việt Nam đã có thể giải giới quân đội Pháp nhanh hơn. Nhưng đau thương lại cũng cận kề. Khi vừa hết chiến tranh thì Việt Nam bị chia đôi. Miền bắc do Y lãnh đạo, tiếng là độc lập tự do hạnh phúc, thực tế thuộc về khối cộng sản Nga – Tàu. Ở đó mất hẳn chữ Tự Do, Độc Lập, nhưng có đấu tố, bạo tàn. Riêng Miền Nam thuộc Việt Nam Cộng Hòa, đất nước là của dân tộc Việt Nam, cùng nằm chung trong thế giới Tự Do.

Về những sự kiện lịch sử trong việc chia đôi này, chắc hẳn bạn còn nhớ, chính Hồ chí Minh đã công khai xác nhận về bản thân của Y như sau:“tôi là một người Trung Quốc chứ không phải là một người An Nam (Việt Nam) và tên tôi là Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc” (18-12-1924. HCM toàn tập)

  • Về sự Nghiệp:

Đây là bức thư của HCM gởi cho Quốc Tế Cộng Sản khi Y nhận công tác của tổ chức này ở thời điểm 1924. Thư này  được trích trong Hồ Chí Minh toàn tập- tập 2 : “Từ lúc tôi tới Mátxcơva đã có quyết định rằng sau 3 tháng lưu lại ở đây, tôi sẽ đi Trung Quốc. Bây giờ đã là tháng thứ chín tôi lưu lại và tháng thứ sáu tôi chờ đợi, vậy mà việc lên đường của tôi chưa được quyết định…

Tôi hành động thế nào để hoàn thành nhiệm vụ này? Số tiền cần thiết cho sự ăn ở của tôi sẽ là bao nhiêu ? Tôi tính rằng, sau khi tham khảo ý kiến các đồng chí người Trung Quốc phải có một ngân sách xấp xỉ 100 đôla Mỹ mỗi tháng, không kể hành trình Nga – Trung Quốc (vì tôi không biết giá vé).

Bạn đọc cho kỹ đi, qua bức thư nhận công tác và xin tiền này thì Y có phải là người ra đi vì nghiệp nước như bạn đã được CS tuyên truyền giáo dục hay không nhỉ ?

  • Kế sách tàn xát nhân dân Việt Nam theo yêu cầu của TC và Liên Sô.

Đồng chí Stalin kính mến,

Tôi gửi đồng chí chương trình cải cách ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam. Dự án chương trình do tôi soạn thảo, với sự hỗ trợ của đồng chí Liu Shao-qi và Wang Jiaxang (đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Liên Xô từ 1949-1951).

Kính mong đồng chí xem xét và cho chỉ thị về vấn đề này.

Hồ Chí Minh.

31/10/1952

Trước hết, Hồ chí Minh dù là Nguyễn tất Thành hay Hồ Quang thì đều là đảng viên đảng cộng sản Trung cộng. Y tuyên thệ nhập đảng CS Trung cộng, thề giữ lòng trung thành và phục vụ cho đảng cộng sản Trung cộng. Y không bao giờ tuyên thệ trung thành và phục vụ cho đảng CS và tổ quốc Việt Nam. Dó là lý do tại sao lá thư xin giết người Việt Nam này có tên của hai tên cộng sản Tàu.

Bạn có bao giờ đặt ra câu hỏi là tại sao Hồ chí Minh lại mở ra sách lược đấu tố người dân Việt Nam với hai người Tàu không ?

Đã thế, vào năm 1930, sau khi thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, Hồ chí Minh đã khẳng định với Chu Ân Lai là: “Việt Nam và Trung Quốc tuy hai mà một. Một dân tộc. Một Nền văn hóa. Một phong tục. Một tổ quốc. Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật…, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa….”.

Cũng thế, trong Giao ước có tên “Bản Ghi nhớ hợp tác Việt Trung” số hiệu (VT/GU- 0212) đã ký ngày 12/06/1953 tại Quảng Tây giữa Hồ và Mao ghi nhận là:

 “Điều 1: Chính phủ Trung Quốc đồng ý viện trợ vũ khí theo yêu cầu chi viện của quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra sẽ gửi các cố vấn, chuyên gia quân sự để giúp đỡ quân đội nhân dân Việt Nam.

Điều 2: Đảng Lao động do đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo đồng ý sát nhập đảng Lao Động Việt Nam là một bộ phận của đảng cộng sản Trung Quốc.”

 Điều 3: Hai bên thống nhất rằng : Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa…. ( Phụ lục dính kèm).


Ký tên: Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông “(Đặng chí Hùng, )

Bạn nghĩ gì về loại văn thư bán nước này ?

Hỏi xem, đó có phải là lý do để ngay từ năm 1958 Hồ chí Minh đã trao tay hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam cho Tàu cộng bằng một lý lẽ của phường đá cá, khinh mạn mảnh đất của Việt Nam như sau: Mấy cái đảo hoang ngoài khơi đó của ai thì tôi không rõ lắm, nhưng cũng chỉ là mấy cồn đá hoang toàn phân chim ỉa. Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi. (Hồ Chí Minh, trong HCM toàn tập). 

Như thế, nếu chuyện bán nước của Nguyễn văn Linh còn đời đời ở lại với sử sách Việt Nam bằng một lời than: “Tôi biết rằng đi theo TQ là mất nước, nhưng thà mất nước còn hơn mất Đảng.” thì Hồ chí Minh, kẻ đã chính thức trao thân gởi phận và giao đất, đảo của Việt Nam cho Tàu lẽ nào thua Linh, thua Lê chiêu Thống? Ấy là chưa kể đến tội ác của Y đối với dân tộc Việt Nam trong vụ được gọi là cải cách ruộng đất với hơn 172000 chủ gia đình của Việt Nam đã bị Y sát hại và cướp toàn bộ tài sản của họ. Bạn có cho đây là những loại tội ác với dân tộc ta chăng ?

Rõ ràng, việc làm của Y chưa dừng lại ở đó. Bởi lẽ, cùng theo hướng đi bán nước cầu vinh của Y, còn có những tên tay sai như :

  1. Lê Duẩn với lời tuyên bố đanh thép để cầu xin Tàu trợ giúp là: ‘Tại sao chúng tôi giữ lập trường bền bỉ chiến đâu ?,… Chủ yếu là vì chúng tôi lệ thuộc vào công việc của Mao chủ tịch…. Chúng tôi có thể bền bỉ chiến đấu là vì thờ Mao chủ tịch.’. Kết qủa, sau cuộc diện  kiến, Y về nam công bố : ‘Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung quốc…’;

Lời tuyên cáo lịch sử trong chiến tranh (1954-1975) do Việt cộng chủ trương là thế đó, người Việt Nam đã nghe rõ chưa? Hỏi xem, tuyên cáo ấy đã đủ để minh chứng cho lý tưởng của cuộc chiến mà cộng sản bắc Việt đã theo đuổi tại Việt Nam hay chưa?

Nay, nếu các bạn còn một chút lương tri Việt Nam, hãy nhìn lại tấm thẻ đảng viên của chính bản thân mình xem, bạn và những người đồng đảng của bạn đã làm việc cho ai và vì ai? Tấm thẻ ấy có phục vụ cho đất nước và dân tộc VN không ?  Có phải chính bạn và các đồng chí của bạn đã hy sinh xương máu của người Việt Nam cho mưu đồ bán nước của những kẻ lãnh đạo đảng cộng sản VN hay không?

  •  Rồi Phạm văn Đồng với Công Hàm bán Nước, không chỉ  làm tủi nhục cho dân, cho nước, mà mảnh đất ấy đã bị lìa cố hương. Ngày nào Hoàng Sa, Trường Sa trở về ? Có lẽ là không bao giờ! Bạn có hãnh diện vì bản văn bán nước ấy không?
  • Hay Trường Chinh chỉ cầu mong được làm nô lệ cho Tàu, Y đã kêu gọi dân ta rằng: ‘Hãy bỏ chữ Quốc Ngữ mà học lấy chữ Tàu, vì Trung quốc không chỉ là bạn nhưng còn là thầy của ta nữa…  Bạn có hãnh diện khi đứng chung hàng ngũ xin làm nộ lệ cho Tàu với Y không ?
  • Với những tấm gương ấy vẫn chưa đủ để thấy, bạn hãy nhìn xem, bè lũ của chúng với những Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Phan văn Khải,  hoặc gỉa Nông đức Mạnh đến Nguyễn phú Trọng, Nguyễn tấn Dũng, Trương tấn Sang, Nguyễn minh Triết rồi Trần đại Quang, Nguyễn xuân Phúc và Nguyễn thị K Ngân… đã làm được những gì cho đất nước này? Hay chỉ thấy chúng thay nhau đi qùy phục dưới chân Tàu để dâng đất nước, sông ngòi, biển cả của Việt Nam cho Tàu cộng để rừng đầu nguồn, bauxit Tây Nguyên, Vũng Áng, Đặc khu… từ từ lìa đất mẹ??

Bạn có khi nào đặt ra một câu hỏi là mai dây người dân Việt Nam sẽ đi về đâu chưa? Nếu chưa thì hãy tự hỏi ngay đi! Và hỏi xem, thân phận người Việt Nam liệu có hơn dân Mông Cổ khi lệ thuộc Trung quốc không ? Và nhớ tìm hiểu xem, bạn và con cháu bạn ra sao khi được làm nô lệ?

Tóm lại, Lãnh đạo miền bắc của bạn là những gương mặt bầy nhầy như thế đó. Chúng bán nước và đã mua sẵn nhà ở bên Mỹ, bên Tây, bạn sẽ mua nhà, xây biệt thự ở đâu đây? Hay bạn và con cháu bạn chỉ cầu mong được chúng gọi là ’’đồng chí’’ để có sợi giây đeo vào cổ là mãn nguyện? Nếu ước mơ của bạn to lớn là thế, tôi thật không có ý kiến!

II. Miền Nam và nắng Tự Do.

  1. Ngô đình Diệm và cuộc di cư 1954.

Bạn biết rất rõ là hai nhân vật Ngô đình Diệm và Hồ chí Minh không lạ lẫm gì về nhau. Hơn thế, bạn còn biết là sau ngày 2-9-1945, Hồ chí Minh còn bắt, rồi… mời Ngô đình Diệm tham gia chính phủ của Y. Nhưng chừng như Ngô đình Diệm nhìn rất rõ đôi mắt trắng bất nhân và bộ mặt phản dân hại nước của Hồ chí Minh nên đã cương quyết từ chối, không cộng tác với Hồ. Hồ chí Minh bị xỉ nhục, nhưng không dám giết Ngô đình Diệm. Sau cuộc gặp gỡ này, Hồ bó buộc phải trả tự do cho Ông Diệm. Ông ta đã xuống tàu xuôi nam và tìm đường ra ngoại quốc, không màng chi đến danh lợi nữa. Thay vào đó là muốn tìm đường ẩn dật trong một tu viện.

Kết qủa, khi Pháp thua trận, Bảo Đại không thể chống và giữ nổi miền nam, nên đã thêm một lần nữa, đích thân tìm đến, nài nỉ ông ra chấp chánh. Lần này, ông đã vì nước vì dân mà nhận lời.

Bạn biết rất rõ là, ngay khi ông ta về chấp chánh, hai gánh nặng đè lên vai, mà hầu như tất cả mọi người từ trong ra ngoài đều cho rằng ông ta không thể gánh nổi sau vài ba tháng, nói chi đến chuyện nửa năm. Đó là chuyện thập nhị xứ quân, chuyện cộng sản ở miền nam và chuyện có hàng triệu người Việt Nam di cư từ Bắc vào Nam. Ai là người có thể ổn định được chiến cuộc và an cư lạc nghiệp cho hàng triệu người kia. Câu trả lời là rất ngắn gọn: Ngô đình Diệm. Đúng thế, chỉ vài năm sau, nạn thập nhị xứ quân và bè phái theo Pháp đã bị dẹp tan. Phần người Bắc di cư vào Nam đã được hoàn toàn ổn định, phát triển. Riêng bọn cộng sản được gài ở lại miền nam sau hiệp định Genève 1954, đang đi vào cõi chết, chờ chết…

Nhưng một bất tường cho lịch sử Việt đã xảy ra. Giữa lúc miền nam vươn lên như một cánh đại bàng của Đông Nam Á về cả ổn định và kinh tế, thì mặt trời xế bóng. Một nhóm phản loạn do Dương văn Minh, Trần thiện Khiêm, Trần văn Đôn… đứng đầu đã nhận 3 triệu đồng bạc để làm cuộc đảo chính và giết hại Ông vào ngày 2-11-1063. Khi nghe tin ông ra đi, HCM và tập đoàn CSBV đã nhảy múa, reo mừng. Phận cánh cửa Tự Do, Độc Lập của miền nam đã sụp đổ xuống từ đây. Tuy nhiên, trước lúc đi, Ông đã để lại di ngôn là :” Nếu bọn Việt Cộng thắng, thì quốc-gia Việt-Nam cũng sẽ bị tiêu-diệt và sẽ biến thành một tỉnh nhỏ của Trung-hoa Cộng-sản. Hơn nữa, toàn-dân sẽ phải sống dưới ách độc tài của một bọn vong bản vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo.” Ngô Đình Diệm (Đồng Cam, Tuy-Hòa 17-9-1955).

  • Nguyễn văn Thiệu.

Sau ngày 1-11-1963, miền nam đã dần bước vào con đường đen tối với những tên hề phản bội. Bên ngoài, HCM lợi dụng cảnh rối ren không lãnh đạo ở miền nam, lại được Tàu và Nga ủng hộ, tiếp vũ khí để Y đưa quân vào miền nam. Từ đó, một mặt Y giải tỏa được áp lực bởi cơn đau, bất mãn của người miền bắc từ mùa đấu tố. Hai là thỏa mãn ý đồ bành trướng của Nga – Hoa. Kết quả, miền nam mỗi lúc một đuối, dẫu như về đời sống dân sinh vẫn ở một mức độ cao. Nhưng tình hình chiến cuộc ngày thêm bi đát.

Sau mọi cố gắng, cuộc chiến đã gặp thất bại vì nhiều lý do. Tuy nhiên, vào giữa những lúc nguy cấp ấy, Nguyễn văn Thiệu trong vai TT/VNCH đã để lại cho đời, cho người Việt Nam và hậu thế một bài học đáng để suy nghĩ là :’ Đừng nghe những gì cộng sản nó nói. Nhưng hãy nhìn kỹ những điều chúng làm’. Trước ngày 30-4-1975, có lẽ nhiều người chưa nghe biết, chưa thấm câu nói ấy và cũng không hiểu CS là cái gì. Nhưng chỉ một vài tuần sau ngày 30-4-1975, tất cả mọi người đều trắng mắt ra để thấy và thấu hiểu được gía trị của một di ngôn ngắn gọn từ ông ta. Bạn nghĩ sao về di ngôn này? Có đáng để chúng ta cẩn thận xét lại những việc làm của mình khi làm tay sai cho Việt cộng hại dân hại nước hay không?

Bạn thân mến,

Thư dài rồi. Đến đây, tôi đề nghị với bạn là hãy nhìn lại tất cả mọi hành động của những nhân vật tôi ghi lại ở trên. Hy vọng bạn sẽ tìm ra được hướng đi cho bạn và cho con cháu bạn. Và cũng hy vọng, bạn sẽ không bị choáng ngợp bởi cái thẻ là đoàn đảng viên của CS mà tiếp tay sô đẩy dân tộc Việt Nam vào vòng làm nô lệ cho Tàu.

Thay vào đó, Bạn hãy ngồi trong thinh lặng, đọc lại những bản văn tôi trích ra ở trên và suy nghĩ cho thật kỹ lưỡng. Hy vọng khi đứng dậy, qúy Bạn sẽ tìm ra được hướng đi đích thực cho bạn và cho gia đình bạn. Từ đó, chúng ta hãy nắm chắc lấy tay nhau. Cùng đi về chung một hướng.  Chúng ta và con dân Việt Nam sẽ chung tay trừ khử cái chế độ CS vong nô, hôi tanh bạo tàn này ra khỏi đất nước thân yêu của chúng ta. Được như vậy, thì đây không phải là hạnh phúc của riêng bạn, nhưng là của cả dân tộc Việt Nam chúng ta đấy.

Cầu chúc qúy bạn may mắn và sáng suốt để tìm lấy hướng đi đích thực cho đời của mình và con cháu mình.

Thân ái,

Bảo Giang.

28-8-2020.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Tôi chống cộng sản bằng máu chảy về tim.

Tôi chống cộng sản bằng máu chảy về tim.

Trong ngôn ngữ và văn học Việt Nam,  chữ “ chống” là một động từ, luôn cần phải có một trợ từ đi kèm để làm cho rõ nghĩa của chữ chống. Thí dụ như:

–          Chống đỡ:  Chống cho cái cột đứng thẳng lên, cho cái cây nghiêng khỏi bị đổ ập xuống…

–          Chống bão: Phương cách làm giảm thiểu thiệt hại do cơn bão gây ra.

–          Chống Tàu: Là không cho chúng tràn sang, áp đặt, khống chế dân ta, hoặc duổi xâm lăng ra khỏi nước.

–          Chống cộng: Là những hoạt động nhằm loại trừ chủ nghĩa CS ra khỏi đời sống của xã hội Việt Nam. Là chôn nó đi.

Như thế, chống cộng là một ý niệm tự nhiên của tư tưởng, biến thành một thái độ tích cực, được thể hiện rộng rãi bằng  ngôn từ, chữ viết hay hành động của những người lương thiện yêu nước. Tất cả chỉ nhằm một mục đích duy nhất là loại trừ, khai tử lý thuyết cũng như tổ chức CS ra khỏi mọi sinh hoạt trong cộng đồng nhân loại.  Tại sao lại như thế? 

Bởi vì, cộng sản đã đem lý thuyết Tam Vô vào thực nghiệm trong guồng máy chính trị của chung bằng thủ thuật gian trá và bạo lực. Ở đó, Nó đã áp đặt rồi xâm phạm, trấn áp, chi phối mọi sinh hoạt thường nhật của từng cá nhân, của từng gia đình. Tệ hơn thế, nó còn chủ trương vô đạo hóa tất cả các sinh hoạt từ văn hóa, nghệ thuật đến chính trị và tôn giáo trong xã hội. Nó bức bách, thúc đẩy con người rơi vào cuộc khủng hoảng đạo đức, khủng hoảng niềm tin, rồi tạo ra tội ác và gian dối. Từ đó, việc chống cộng sản trở thành một chủ trương, một sách lược chung, không phải của riêng cá nhân hay một quốc gia nào, nhưng của nhân loại. Cũng từ đó, việc chống cộng trở thành một bổn phận, một trách nhiệm thiêng liêng của mọi người và nó không hề có quy định cho một thời hạn nhất định. Nghĩa là, bao lâu sự gian trá bất lương là tàn tích của lý thuyết hay chế cộng sản còn xót lại, bấy lâu công cuộc chống cộng sản của con người vẫn chưa hết nhiệm vụ.

Theo tinh thần này, người dân từ những nước không bị cộng sản chiếm đóng như Mỹ, Anh , Pháp, Tây Đức, Ý., Úc, …. họ đều biểu lộ tinh thần chống và loại trừ cộng sản ra khỏi mọi sinh hoạt trong xã hội của họ một cách tích cực. Hơn thế, họ còn hỗ trợ các quốc gia bị cộng sản chiếm đóng loại trừ chúng ra khỏi những nơi đó, và góp sức bảo vệ những phần đất còn lại trên thế giới chưa bén mùi cộng sản. Họ như thế, chẳng lẽ, người dân trong các nước bị cộng sản chiếm đóng, bị chúng làm cho băng hoại, làm cho thoái hóa lại không hề chống cộng sản ư?

Như thế, nếu có ai đó vẽ vời ra, hay bảo rằng không hề chống cộng sản. Tệ hơn, họ lập luận chống CS là “có hại”, tôi tin rằng họ, một là không có hiểu biết gì về bản chất của cộng sản, nhưng thích khoa trương ngôn ngữ với lý luận diêm dúa, hở hang. Hai, đó không phải là ý thức, không phải là ý chí của người dân lương thiện ở trong ( hay có liên hệ với) những nước đã bị cộng sản chiếm đóng. Bởi lẽ, tất cả mọi người dân ở dưới chế độ ấy, như ở Việt Nam hiện nay, đều muốn nói lên một điều đơn giản, rõ ràng, thay vì diễn từ bằng những lý luận vòng quanh là: Họ không chỉ chống, mà là căm thù và muốn loại trừ chế độ CS này ra khỏi cuộc sống của họ tức khắc. Họ không hề muốn thấy mặt chúng.

Theo đó, việc có những tư tưởng bảo cộng sản đã chết rồi, hoặc gỉa, “chống cái thừa thãi, cái không còn”, phải được hiểu là những hoang tưởng bệnh hoạn, bạc nhược, đầy ích kỷ, thiếu trách nhiệm và thiếu lý trí nhân bản. Nó có thể ứng hợp với cái nhãn hiệu thích rêu rao sáo ngữ phường tuồng ở thời thượng cổ chưa được khai hóa, hơn là thực tại. Bởi vì, không ai có thể dửng dưng, ngồi yên hay đứng nhìn con quái thú hung bạo đang cắn xé cha mẹ, anh em hay đồng bào của mình.

Ở đây, xin gạt bỏ ra bên  ngoài cuộc bàn cãi,  hay ngụy luận ru ngủ, ươn hèn bảo rằng chủ thuyết cộng sản đã chết, đã sụp đổ từ năm 1991 theo sự tan hàng của Liên Bang Sô Viết và Đông Ấu rồi, nên “chống cộng là chống cái thừa thài, chống cái không còn và có hại” (NHQ)! Rồi gạt bỏ ra bên ngoài tất cả những nhận định về cộng sản đến từ mọi phía, như chủ nhân của hệ thống cộng sản Mikhail Gorbachev và  lời chứng: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.” Hoặc ôn hoà, bình thản như nữ thủ tướng Đức, Angela Merkel:”Cộng sản đã làm cho người dân trở thành gian dối”. Hay theo Nghị quyết 1481 ngày 25-01-2006 của Hội Đồng Nghị Viện  Âu châu đã công bố;  Điều 9: “Các chế độ độc tài toàn trị còn lại trên thế giới vẫn tiếp tục gây tội ác. Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia để biện hộ, lấp liếm sự lên án của cộng đồng nhân loại với các tội ác của các chế độ toàn trị này. Quốc hội chung châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như là tội ác chống nhân loại…“.  để làm dẫn chứng cho bài viết “ Tôi chống cộng bằng máu chảy về tim” của tôi. Trái lại:

Tôi viết từ nguồn của những sự kiện có thật, đã và còn đang xảy ra trên đất nước Việt Nam, nơi bị chủ nghĩa cộng sản chiếm đóng và đảng cộng sản quốc tế (đã thu hẹp lại) thống trị. (Tôi gọi là thu hẹp lại vì nó gồm Trung cộng, Việt cộng, bắc Triều Tiên, Cuba…  vẫn chiếm khoảng 2/5 dân số thế giới). Nghĩa là, tôi viết bằng chính những sự kiện hiện hữu hôm nay, còn đang ở trước mắt mọi ngưòi đây. Những sự kiện mà mọi ngưòi có thể trông thấy, chứng thực được. Từ đó, xác định cho chính việc làm của mình là: Tôi chống cộng bằng dòng máu chảy về tim của dân tộc. Tôi chống cộng vì sự sống tuơng lai của đất nước. Tôi không chống cộng cho tôi.  Chúng tôi chống và muốn diệt trừ Cộng sản vì những lý lẽ sau:

1.  Vì Tổ Quốc Việt Nam.

Tổ Quốc hay giang san Việt Nam là một giải đất liền lạc, kéo dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu, và bao gồm cả vùng biển đảo ngoài khơi như Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quốc… là một  quốc gia Độc Lập, Tự Chủ. Phần đất này không thể bị bảo hộ, bị áp đặt dưới ách thống trị hay bị chia cắt, bị tách rời ra bởi bất cứ một thế lực thực dân hay là chủ nghĩa Tàu hay Tây ngoại lai nào hết. Phần đất ấy vĩnh viễn thuộc chủ quyền của người dân Việt Nam. Đó là điều khẳng định về đất nước tôi. Đất nước của con dân Việt Nam yêu Tự Do, yêu Hòa Bình và Độc Lập. Tuy nhiên:

Vào ngày 03-02- 1930, Hồ chí Minh đã lập tổ cộng sản ở Hồng Kông, rồi theo gót chân Tày, Nó đã áp đặt chế độ vô đạo này lên phần đất Việt Nam. Tổ cộng sản này, từ khởi đầu hoàn toàn lệ thuộc vào hệ thống cộng sản quốc tế và đặt dưói quyền điều khiển trực tiếp của Trung cộng và Liên sô. Ngày 2-9-1945, Hồ chí Minh, (có nhiều nguồn tin gần đây cho rằng y là Hồ tập Chương, người Tàu gốc Hẹ đóng vai, hơn là Nguyễn tất Thành, gốc ở làng Kim Liên, Nam Đàn) và tập đoàn cộng sản của Nó đã cướp được chính quyền tại Việt Nam và thành lập nhà nước cộng sản trên một nửa của đất nước này. 

Ngoài mặt, HCM và tập doàn cộng sản không ngừng rên rao việc giải phóng, no cơm ấm áo, tự do, độc lập cho đồng bào, cho tổ quốc. Nhưng trong thực tế, chúng đã làm bại hoại quốc gia và tinh thần Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng đã phá nát đời sống hiền hòa, an vui của người dân trong quốc nội. Tệ hơn thế, chúng chủ trương đưa dân tộc và đất nước Việt Nam vào con đường làm nô lệ  nghìn đời cho Trung cộng.

Bạn hỏi bằng chứng ư?

Vào năm 1951 dưới sự lãnh đạo của HCM, và với tư cách TBT đảng cộng sản VN, rồi nhân danh “ỦY BAN HÀNH CHÁNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA NĂM THỨ VII”, Trường Chinh, Đặng xuân Khu chính thức gởi văn thư cho đồng bào Việt Nam với chủ đề “ Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc” trong đó nêu rõ hai điểm làm ô nhục, bại hoại, xỉ nhục cho quốc thể Việt Nam:

  • Thứ nhất, xin được làm chư hầu cho Trung cộng và kêu gọi ngưòi việt Nam không dùng chữ quốc ngữ, trở lại học chữ Tàu.
  • Thứ hai, kêu gọi mọi người từ bỏ khoa học văn minh, nhưng dùng thuốc tễ của Tàu, vì nó là thầy của mình. Chinh viết “ Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng”.  Hỏi xem, máu xương của Việt Nam bao đời đã đổ ra để Việt Nam ta là một quộc gia Độc Lập từ bao đời, mà nay, tên cộng sản Đặng xuân Khu đã ngược ngạo phỉ báng dân tộc khi viết: “là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc”.

Bạn hãy hỏi xem, Y là ai và có  chủ đích gì? Có phải vì cái tinh thần hủ bại CS trong lòng để Y phải viết như thế? Hay là, Y  đã nhân danh đảng cộng sản Việt Nam để xin cho Việt Nam được làm chư hầu, làm nô lệ cho Trung quốc, để từ đó đảng CS/VN nhận vinh hoa, phần người dân Việt Nam thì phải sống kiếp đọa đày dưới gót chân của chúng?

Hỏi xem, chủ trương này của tập đoàn CSVN có phản bội lại truyền thống bảo vệ nền Độc Lập của dân ta không? Hỏi xem hướng đi của Hồ chí Minh và những chủ trương của chúng có gì hơn, hay còn tệ hại hơn cả việc làm của Lê chiêu Thống năm nao?

Hỏi thế, không có nghĩa rằng chúng ta chối bỏ có một thời đã bị đặt nền đô hộ từ ngoại bang. Trái lại, hãy nhớ bất cứ khi nào ngoại bang có ý định thống trị ấy thì nhà Việt Nam lại đã đứng lên. Điển hình là từ bước đi của Ngô Quyền, Hai bà Trưng đến những Lê Lợi, Hưng đạo Vương, rồi Quang Trung… đến Phan đình Phùng, Nguyễn thái Học… với những ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Vạn Kiếp, Vân Đồn rồi Ngọc Hồi, Đống Đa… là những trả lời. Chuyện sử của nước ta là thế, nhưng nay tập đoàn Việt Minh Cộng sản với HCM, Đặng xuân Khu và tập đoàn của chúng lại qùy gối, xin cho Việt Nam được làm chư hầu cho Trung cộng thì bạn hãy hỏi xem, chúng là ai đây? Là kẻ bán nước cầu vinh theo Lê chiêu Thống, hay là những kẻ làm bại hoại cho hai tiếng Việt Nam?

Rồi chính HCM, cũng đã tự nguyện xin làm nô lệ cho ngoại bang khi y viết thư xin sự chuẩn nhận của Stalin để giết đồng bào Việt Nam vào ngày 31-10-1952 . Hồ viết: “Đồng chí Stalin kính mến, Tôi gởi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của đảng Lao Động Việt Nam ( tên của đảng cộng sản lúc bấy giờ). Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của hai đồng chí Liu Shaoshi và Van szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này”. Bạn hãy tự hỏi xem, khi viết đề án và thư này với hai ngưòi Tàu trợ giúp, Hồ có coi tập thể người Việt Nam là đồng bào với Y, hay Y có  nghĩ gì về Tổ Quốc Việt Nam hay không? 

Rồi dưới sự chỉ đạo của HCM, Phạm văn Đồng đã viết Công hàm gởi cho Tàu đề ngày 15-8-1958, công nhận chủ quyền biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam là của Trung Cộng. Thêm vào đó là những hiệp thương biên giời 1999 và 2000 để Nam Quan, Bản Giốc, Lão Sơn, Tục Lãm và hơn phân nưả vịnh Bắc bộ nay là đất trong bản đồ của Tàu. Ấy là chưa kể đến những khế ước như rừng đầu nguồn, Bauxite Tây Nguyên, Vũng Áng… phải được coi là những nhượng địa cho Tàu, mà người ta không thể xác định được diện tích thật của những nhượng địa này là bao nhiêu ngàn Km2?

Với những chứng cứ rõ ràng ấy, tôi dám khẳng định rằng, viêc chống cộng sản của đồng bào VN yêu nước là dòng máu chảy về tim của Tổ Quốc.

  •    Vì đồng bào Việt Nam.

Với tôi, nhóm chữ “ đồng bào Việt Nam” luôn mang một ý nghĩa đặc biệt, nếu như không muốn nói là nó có cả tính linh thiêng trong lòng dân tộc Việt. Bởi, nó luôn nhắc nhở cho người dân Việt biết và nhớ về cội nguồn cùng một bọc mà sinh ra. Như thế, một phần của nơi này bị xúc phạm, bị đau đớn, bị chia cắt, bị hành hạ thì tất cả những phần còn lại cũng đau đớn và xót xa lây như chính mình bị hành hạ, bị xúc phạm, bị chia cắt.

Ai cũng biết, Việt Nam trải qua một lịch sử dài, đầy dẫy những tai ương. Tai ương bị thống trị bởi ngoại bang, bị chà đạp dưới gót giày của bọn thực dân, bành trướng. Nhưng ngay dười thời bị đô hộ bởi giặc Tàu, giặc Tây, đồng bào Việt Nam chưa bao giờ bắt gặp một tổ chức chính quyền, hay thái thú nào vô đạo, độc ác, dã man, ghê rợn và có hệ thống hại dân, hại nước cho bằng dưói thời cộng sản của HCM.

Thật vậy, cho đến nay không một ai có thể kiểm nhận được con số xác thực về số nhân mạng đã bị Việt Minh cộng sản giết hại trước và sau ngày chúng cướp được chính quyền (1945) là bao nhiên. Chỉ riêng trong mùa đấu tố (1953-57), đồng bào Việt Nam đã quằn qoại trong đau thương với hơn 170,000 người Việt Nam bị giết, hàng trăm ngàn gia đình bị ly tán. Tuy nhiên, trước nỗi đau đớn ngàn đời không thể quên ấy, Hồ chí Minh đã vỗ tay tuyên bố đây là một chiến thắng “long trời lở đất” của chúng!

Xin nhớ, từ “long trời lở đất” hầu như trước đây chỉ được dùng và ám chỉ đến cuộc chiến thắng vĩ đại của vua Quang Trung trong việc đại phá quân Thanh vào mùa xuân Ất Dậu (1789). Cuộc chiến thắng đã làm tan hồn bạt vía quân xâm lược đến nỗi tướng soái chỉ huy của chúng đã phải thắt cổ mà chết! Nhưng nay, Hồ chí Minh lại nghênh ngang tuyên bố, việc giết hại hơn 172000 ngưòi Việt Nam và cưóp toàn bộ tài sản của dân, của nước vào tay đảng cộng sản là một chiến thắng “ long trời lở đất”! Như thế là ý gì? Có phải Hồ chí Minh đã báo thù cho Tàu (quân nhà Thanh) khi Y tuyên bố như thế hay không? Hay còn vì một lý do nào khác? Ấy là chưa kể đến việc chúng gây ra chiến tranh, làm chết thêm biết bao nhiêu sinh mạng của dân tộc, và cũng không kể đến cuộc tàn sát, tắm máu người dân Huế khi chúng tạm chiếm được thành phố trong 33 ngày dịp tết Mậu Thân 1968, và rồi, đẩy hàng triệu người phải ra đi biệt xứ sau 30-4-1975.

Ai huyênh hoang trí thức, hoặc gỉa, người gia áo túi cơm nào tuyên bố không hề chống cộng, hoặc chống cộng là có hại, liệu có vui mừng, có vỗ tay reo vì cái chiến thắng “ long trời lở đất” của Hồ chí Minh trong mùa đấu tố hay không? Phần chúng ta, tôi tin rằng tất cả đồng bào Việt Nam dứt khoát là không bao giờ vỗ tay reo cho cuộc tàn sát đồng bào Việt Nam của tập đoàn CS. Trái lại, sẽ đời đời lên án những kẻ điên cuồng và phe nhóm của chúng đã giết hại đồng bào của mình.

Ai cũng biết, nhiều người lên án Hitler là một tên đồ tể của nhân loại. Tuy thế, y lại không ngu ngốc để giết hại đồng bào của  mình. Nhưng chỉ có cộng sản, từ Stalin, Lênin, Mao  rồi đến Hồ… thì vui mừng trên thân xác của người dân mình và tạo nên những tội ác kinh thiên trong lịch sử nhân loại. Rõ ràng, CS không chỉ phạm tội ác đối với nhân loại mà còn với chính dân tộc của mình nữa. Theo đó, việc nhân dân Nga treo cổ Lenin, Stalin lên (theo hình từ cái xe cần trục) không có gì là lạ. Chuyện ấy chắc chắn phải đến tại Việt Nam. Chắc chắn CS phải bị loại trừ vĩnh viễn ra khỏi cuộc sinh hoạt của đồng bào tôi.

3.      Vì nền luân ly, đạo đức của xã hội Việt Nam.

Ai cũng biết tinh thần Trung, Hiêu, Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí,Tín trong nền văn hóa và luân thường đạo lý của Việt Nam là cột sống nuôi dân ta qua và trưởng thành từ mấy ngàn năm nay. Nhưng bi thảm thay, từ sau ngày 3-2-1930 đến nay, CS không ngừng gieo rắc vào trong lòng dân chúng Việt Nam, đặc biệt là những thế hệ đến sau, một thứ luân lý và đạo đức, được gọi là đạo đức HCM. Lúc đầu, người người ngơ ngác nhìn, hỏi nhau, đạo đức HCM là cái gì? Xem ra, chẳng một ai biết nó là cái giống gì. Cho đến một ngày, khi tiếng trống mở hội đấu tố bùng lên với chiến thắng “ long trời lở đất”,  ngưòi ngưòi mới vỡ lẽ ra, hoảng hốt bảo nhau. A, có rồi đây, bà con ơi, “đạo đức HCM” đây này, ra mà xem. Tên nó là:

a.       Vô đạo, bất nhân:

Rõ ràng sách lược đấu tố tàn bạo của cộng sản VN vào mùa 1953-56 không chỉ cưóp đi mạng sống của hơn 172000 đồng bào ruột thịt của Việt Nam. Nhưng nó còn mục đích tiêu hủy nền đạo lý của Việt Nam. Nó đã giết chết sự sống nhân bản của dân tộc bằng phương thức rình rập, buộc người dân đấu tố lẫn nhau bằng gian dối, để từ đó lòng người không còn chữ Nhân, xã hội không còn chữ đạo lý để CS được sống.

b.      Bất trung, bội tín.

HCM luôn dùng chiêu bài dân tộc để lừa dối đồng bào Việt Nam, nhưng bản chất của nó là bất trung với tổ quốc qua những hiệp định, công hàm bán nưóc. Và bội tín, bội nghĩa với đồng bào qua việc giết chết rất nhiều người đã hy sinh xương máu bảo vệ sự vẹn toàn của lãnh thổ. Rồi phủ dập lên những người dân yêu nước, bảo vệ Công Lý, Nhân Quyên bằng những bản án lộng quyền, áp đặt như trong trường hợp của LM Nguyễn văn Lý, Nguyễn văn Đài, Lê thị Công Nhân,  Duy Thức, Công Định, Điếu  Cày, Minh Hạnh, Nguyên Khang.Hoặc gỉa, với cả học sinh như Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha… Dĩ nhiên, danh sách trong lao tù CS không chỉ bấy nhiêu, nhưng còn biết bao nhiêu người yêu nước khác nữa.

c.       Đại bất nhân, tận bất nghĩa.

Ngoài xã hội, Hồ chí Minh đã bất nhân vô đạo với đồng bào trong cái chết của hàng trăm ngàn người, trong đó có cái chết “ khổ nạn” mang tình trả ơn của cộng sản đối với bà Nguyễn thị Năm. Trong nhà thì HCM đã tán tận bất nghĩa trong cái chết của Nông thị Xuân, một thiếu nữ trẻ, mới 16 tuổi, được coi là vợ không cưới và đã đẻ con với Hồ! Hồ đã để cho Hoàn hiếp rồi giết Nông thị Xuân. Sau đó, quăng xác Xuân ra đường giả làm một tai nan xe cộ là hết chuyện.  Không một tra xét. Qủa là khó kiếm được người thứ hai trên thế giới có trình độ bất nhân, bất nghĩa như thế!

d.      Đại bất hiếu.

Việc trong nhà HCM nêu gương bằng cách suốt một đời không thắp cho cha mẹ đẻ một nén nhang, nói chi đến việc cúng bái theo đạo hiếu làm con. Với xã hội thì HCM cổ võ và khủng bố ngưòi dân học tập và thực hiện chữ “ hiếu” bằng một từ đấu tố, “ để đến nỗi một người phụ nữ đứng tuổi hỏi bố: “ông có biết tôi là ai không” người cha già ngậm ngùi nhìn đứa con dứt ruột của mình đẻ ra và nói “ thưa bà, con là người đẻ ra bà ạ” ( chứng từ của một Giám Mục trang 383)

e.       Vô lễ.

Đứng chống nạnh, vuốt râu,  tôi tôi, bác bác với các bậc tiền nhân anh hùng của tổ quốc Việt Nam. Tồi tệ hơn thế, Y còn gian manh viết sách bằng cái tên giả tạo để tự nâng mình lên làm “ cha gìa”  dân tộc và tự xưng bác với mọi ngưòi.

Với thứ luân lý, đạo đức tàn độc này được Hồ chí Minh truyền rao và áp đặt vào xã hội Việt Nam, người ta không lạ gì để thấy, ngày nay dưới thời của cộng sản, những tội đại ác như con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau, hàng xóm làng giềng cho nhau một con dao mã tấu đến lút cán, mà có khi gía trị của tranh chấp chỉ là một câu nói, một cái nhìn, hay bằng gía tiền của một con gà hay con vịt… được dịp trổ hoa theo gương HCM. Và chuyện hàng năm có đến vài trăm ngàn trẻ thơ chưa mỡ mắt chào đời đã được nạo, hút, phá, bị giết chết từ trong bụng mẹ cũng không có gì là lạ. Thử hỏi xem, cái thứ đạo đức mang tên Hồ chí Minh này có nên tồn tại hay không?  

4.      Vì niềm tin tôn giáo và bảo vệ sự sống con người.

Với chúng ta, tín ngưỡng là Niềm Tin trong tôn giáo. Tôn Giáo là một kho tàng của Niềm Tin và Hy Vọng hiện hữu giữa đời sống thực tại và đời sống Siêu Nhiên hay Thần Linh. Nơi đó, về phần vật chất, có những phương thức giúp con ngưòi thực hành để vượt thoát cái bản chất thấp hèn đầy thú tính, nhằm tiến tới và hoà nhập vào một chuỗi hay nền luân lý đạo đức tôn giáo. Ở đó, triết lý bảo vệ quyền sinh và quyèn sống của con người được đề cao, ngõ hầu đem lại cho con người một cuộc sống yên vui trong gia đình, thái hòa, bớt tranh chấp, không gây tội ác, gây nghiệp chướng với đồng loại. Như bên Công Giáo thì có mười điều răn, bên Phật Giáo thì có ngũ giới…

Trong khi ấy, HCM với bạo lực khủng bố, lại đem vào và áp đặt lên trên đời sống người dân Việt chủ thuyết Vô Gia Đình, vô Tôn Giáo và vô Tổ Quốc của CS, ngõ hầu đạp đổ nền tảng đạo lý trong gia đình (cái chết của Nông thị Xuân, giết mẹ, từ con là một chứng minh?), đến việc đập phá Đền, Miếu, Đình, Chùa, Nhà Thờ với chủ đích triệt hạ niềm tin lành thánh của các tôn giáo, để tự khơi nguồn  ra một thứ “ tôn giáo” mới, đặt cược niềm tin vào vật chất và cuộc đấu tranh bạo lực trong gian dối, để khuyến dụ thú tính hoang dã của con người nổi loạn, rồi bước vào cuộc tranh dành, chiếm đoạt quyền lợi cũng như những nguồn lực sản xuất của xã hội. Sau cùng, đẩy người dân vào hệ thống kiểm sóat của thời nô lệ, buộc họ phục vụ cho một giai cấp thống trị vô đạo. Ở đó, quyền sinh, quyền sống của con người không được bảo vệ và tôn trọng nhưng thuộc về tay đảng cộng.

Từ đó, nếu ai cho rằng Y là một nhân vật lịch sử, có công trạng với dân và đất nước?  Hãy làm cho Y một cái chòi, một cái nhà cầu hay một cái tượng đài riêng biệt, để cho ai muốn đến chiêm ngắm, trút bầu tâm sự thì đến. Tuyệt đối không nên đưa Y vào Miếu, Đền, Đình, Chùa hay Nhà Thờ là nơi trang nghiêm, nơi thờ phượng của các tôn giáo. Nơi ấy không dành cho những kẻ bạo tàn, vô phụ, vô nhân như Y.

5.      Chống cộng vì lòng biết ơn.

Với Tổ Quốc là sự trân trọng biết ơn công lao của các bậc tiền nhân đã dựng nước và giữ nước. Biết ơn các bậc anh hùng dân tộc đã hy sinh vì đất nước để có một Việt Nam Độc Lập từ ngàn xưa, dù phải đối diện với bao nguy biến vẫn còn truyền đến hôm nay.  Là biết ơn Tổ Quốc vì chúng ta có cái may mắn được sinh ra và mang trên người dòng máu Việt Nam. Là xin đa tạ một giang sơn gấm vóc đã cưu mang, cho ta hơi thở và nuôi ta lớn lên làm người Việt Nam có đức hạnh.

Ở đó với nghĩa Đồng Bào là ân tình sâu sắc. Là sự tri ân một nền văn hóa, đạo lý nhân bản cao thượng Nhân Lễ Nghĩa Tín Trung, là cội nguồn của giống nòi, đã dạy cho ta về lòng yêu nước, và đùm bọc lấy nhau trong nghĩa đồng bào. Cách riêng, là lòng biết ơn chiến sỹ, đồng bào đã đổ màu xương để bảo vệ sự Độc Lập và Tự Do của dân tộc. Là lòng tri ơn những người đã nằm xuống trong chốn lao tù cộng sản vì màu cờ sắc áo của quê hương. Là lòng biết ơn những người trẻ hôm nay vẫn miệt mài tranh đấu cho một Việt Nam Nhân Bản trong Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, Công Lý và Nhân Quyền.

Với Tôn Giáo và gia đình: Là xin đa tạ những Cao Cả, Linh Thiêng, Lành Thánh trong tôn giáo. Là nơi tựa vững chắc đã cho chúng ta Niềm Tin, Hy Vọng, là Sức Sống và Sự Sáng chứa chan hồng phúc để ta bước đi tìm Nguồn Sống cho cuộc sống. Là nơi đã cưu mang dưỡng dục, đã cho ta một lương tâm ngay thẳng, trong sáng giữa muôn trùng gian trá. Đã chỉ cho ta cách sống trong tinh thần yêu thương, bao dung, tha thứ. Đã dạy cho ta biết phân biệt thiện ác là cội rễ đem đến cho xã hội, không phải chỉ nơi ta sống, nhưng là mọi nơi được bình an, hạnh phúc không thù oán.

   6.  Diệt trừ cộng sản là hướng đi đích thực của dân tộc Việt Nam.

Bằng những lý do trên, hiển nhiên, chúng ta không chống cộng như một lớp thời trang diêm dúa. Ta không chống cộng theo kiểu ngôn ngữ trí thức hở hang. Ta không chống cộng bằng một qúa khứ đau thương có nhiều thù hận.

Trái lại, mọi ngưới đều khẳng định rằng: Tôi chống cộng bằng máu chảy về tim của dân tộc. Tôi chống cộng bằng sức sống hào hùng của tiền nhân. Tôi chống cộng vì sự sống tương lai của đất nước.

Tôi không chống cộng cho tôi. Bởi lẽ, một cá nhân, dù là trí thức hay dân thường xem ra cũng chỉ là cái vỏ trấu bọc bên ngoài hạt gạo (hạt gạo ở đây cũng có thể được coi là tập thể dân tộc). Khi nó tự, hay bị tách rời ra khỏi hạt gạo có mầm sinh, là sức sống, thành lương thực nuôi sống con người, cái vỏ trấu ấy tuyệt đối vô dụng.  Có lẽ chẳng ai muốn trở thành cái vỏ trấu vô dụng trong hướng đi của dân tộc mình? Theo đó, việc chống cộng cũng sẽ không có ngoại lệ cho ai. Hơn thế, nó cũng chưa chấm dứt khi chúng ta đã đào thải, loại trừ  được cái chế độ và cơ cấu của nó ra khỏi đất nước. Trái lại, sẽ còn phải tiếp tục cho đến khi nào loại bỏ được hoàn toàn những tàn tích của CS ra khỏi mọi sinh hoạt từ văn hóa đến đời sống thường nhật của xã hội thì nhiệm vụ ấy mới khả dĩ gọi là hoàn thành. Bởi lẽ:

–          Hướng đi của Dân Tộc Việt Nam là vĩnh viễn xây dựng một đất nước Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ, trong hòa bình, thịnh trị và phú cường. Không chủ trương bạo động với các dân tộc khác.

–          Sức Sống của dân tộc Việt Nam là một nền văn hóa bao dung và nhân bản, đặt nền tảng trên Trung, Hiếu, Nhân, Lể, Nghĩa, Trí, Tín. Để từ đó đồng bào Việt Nam được sống viên mãn trong một nền Công Lý, Thịnh Trị, Nhân Ái, Bao Dung. Để quyền sinh, quyền sống và nhân phẩm của con ngưòi được bình đẳng và tôn trọng. Để từ đó, mọi dòng máu lại cùng chảy về tim của Dân Tộc.

Bảo Giang

20-5-2013.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Thư cho bạn

Thưa bạn,

Người Việt Nam ta có một tập tục rất đáng trân trọng. Đó là việc chúc tết nhau vào ngày tết. Con cháu thì đi chúc tết ông bà cha mẹ, chú bác cô dì. Anh em gặp gỡ chúc tết nhau. Hàng xóm láng giềng cũng nhân ngày Tết có câu chuyện cởi mở bên hàng rào. Bạn bè thì thư từ qua lại với nhau và tình nhân thì trao nhau những cánh hoa, cánh thiệp đầu năm. Nương theo tinh thần trân qúy của  cha ông ta để lại, nhân ngày Tết sắp đến, tôi xin viết đôi dòng đến bạn thay cho câu chuyện đầu năm.

Bạn thân mến,

Lịch sử của dân tộc Việt Nam chúng ta ở trên giải đất này đã trải qua hơn 4000 ngàn năm. Trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước lâu dài ấy, sách sử của dân ta đã ghi lại những triều cường, oanh liệt cũng như gian khó. Triều cường thì lừng lẫy với đất trời trong bước chân uy vũ của những anh hùng dân tộc như: Hưng Đạo Vương, Bình Định Vương, Quang Trung Nguyễn Huệ, Ngô Quyền, Lý thường Kiệt, hai bà Trưng, bà Triệu… trong những lần  diệt Nguyên, đuổi Tống, triệt Thanh, dẹp Hán. Nhưng cũng có lúc mạt vận thê  lương vì những Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc, Mạc đăng Dung và nay là Hồ chí Minh.

Cuộc thịnh suy ấy là lẽ thường tình của trời đất. Một ngày có 24 giớ, theo lẽ thì có 12 giờ thuộc về ban ngày, và 12 giờ thuộc về ban  đêm. Ấy thế, vòng quay của trái đất vẫn tròn đều mà có khi  ngày và đêm dài vắn khác nhau! Xem thế, thịnh suy là lẽ của Trời, nhưng sức người cũng có thể làm thay đổi phần nào quy luật tự nhiên. Nói cách khác, quy luật tự nhiên của Con Tạo vốn có trong Trời Đất, nhưng Trời không tạo ra một sắc dân này để làm nô lệ cho một sắc dân khác. Có chăng là sự cường nhược phát triển không đều mà sắc dân này, bất kể đạo lý, áp đặt sức mạnh lên trên sắc dân khác mà thôi. Theo đó, Việt Nam ta muốn có Độc Lập, Tự Chù cũng không tự nhiên mà có. Nhưng phải tìm, phải chiến đấu mới có được.

Vì thấu triệt được lẽ trời và lòng người, nên ý chí của tiền nhân ta trong Hội Nghị Diên Hồng đã được biểu lộ. Hội Nghị đã truyền hơi thở và sức sống, không phải chỉ vào thớ thịt, buồng gan của con dân Việt Nam , mà còn lay động đến cây cỏ, chiến mã, lòng sông để tạo nên những chiến công vang dội của đất nước. Cũng thế, ngày 10-8 âm lịch năm 1010,  vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long là ý muốn tạo nên một một cơ nghiệp, một lịch sử bền vững trong nền Độc Lập thịnh trị cho dân tộc. Hơn thế, còn biểu lộ ý chí bảo vệ từng tấc đất, từng viên sỏi, từng cây cỏ của quê ta không để rơi vào tay phương bắc. Nhờ đó, sách sử Việt Nam lại ghi thêm những trang oanh liệt Ngọc Hồi, Hạ Hồi, Đống Đa, Vân Đồn… mà bất cứ ai qua Thăng Long, nay là Hà Nội cũng được nghe chuyện kể như lời kinh về đoạt giáo Chương Dương Độ, cầm hồ Hàm Tử Quan!

Rồi cũng từ thành Thăng Long này, không phãi chỉ  chứng kiến những cuộc diệt Tống, đuổi Minh, phá Thanh, trừ Hồ, nhưng còn là một tượng đài uy vũ trong cuộc chiến chống xâm lăng của thực dân Pháp với Tổng Đồc Hoàng Diệu. Đến cuộc triệt công bãi thị của quân dân Hà thành đã làm tê liệt mọi sinh hoạt của thực dân Pháp vào  mùa thu năm 1945. Trải qua những uy vũ và công nghiệp ấy của tiền nhân, chúng ta hôm nay có được nét tự hào là được sống với Thăng Long, được chạm vào hơi thở của tiền nhân từ ngàn năm trước . Hỏi còn gì đáng hãnh diện hơn?

Nhưng bất hạnh thay, giữa lúc toàn thể dân ta nô nức đi vào vận hội Tự Do, Dân Chủ và Độc Lập sau khi đuổi thực dân Pháp ra khỏi bờ cõi. Tập đoàn cộng sản Hồ chí Minh đã cấu kết với đảng cộng sản Trung cộng, áp đặt lên miền bắc Việt Nam một chế độ độc tài toàn trị. Rồi mở rộng chiến tranh vào miền nam theo kế hoạch tiếp tay, hỗ trợ cho Bắc Kinh thống trị toàn vùng Đông Nam Á. Đưa cả nước ta vào vòng nô lệ cho ngoại bang cũ.

Trong suốt tiến trình xin làm nô lệ cho Trung cộng,  tập đoàn Việt cộng Hồ chí Minh đã chủ trương triệt tiêu bản sắc dân tộc Việt. Triệt tiêu mọi cuộc đề kháng Tự Chủ phát xuất từ lòng yêu nước của đồng bào Việt Nam , nên đã đem những sách lược là bản sắc của Trung cộng áp đặt trên đồng bào ta, cụ thể là:

Mặt đời sống/ văn hóa

1.   Triệt hạ thành phần dân tộc yêu nước ở nông thôn.

Có thẻ nói rằng, một trong ba cuộc tàn sát, giết hại chính đồng bào mang quốc tịch của nước mình một cách ghê rợn nhất trong lịch sữ của nhân loại, lại là cuộc cuộc thảm sát đồng bào Việt Nam ở ngoài bắc, do Hồ chí Minh, Trường Chinh và tập đoàn Việt cộng thực hiện từ 1955-1958. Trong cuộc đấu tố “Trí Phú Địa Hào” này, Hồ chí Minh đã
 “đào tận gốc, trốc tận rễ”, phóng tay giết chết 170,000 người dân Việt Nam vô tội, và đày lên vùng rừng thiêng nước độc, hay bắt giam trong các nhà tù  hàng trăm ngàn người khác. Sự vô luân, tàn bạo của Hồ chí Minh nếu đem ra so sánh, lấy tỳ lệ 170,000 người bị giết trên tổng số gần 14 triệu dân, so với tỷ lệ số người bị giết  trên tổng số dân của Liên Sô hoặc Trung Cộng,  xem ra Hồ chí Minh còn tàn bạo hơn cả Lênin, Stalin và  Mao trạch Đông. Thử hỏi, Trời nào tha, Đất nào dung thứ cho những loại tội ác man rợ ấy?

2.

Cuộc triệt hạ thành phần trí thức  ở thành thị

Hậu qủa cuả cuộc đấu tố thành phần trí thức xã hội trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm 1958 là: Ngoài những cái chết, những cuộc sống trong đau thương của những nhà trí thức, văn nghệ sỹ dân tộc yêu nước, nó còn tiêu diệt toàn bộ ý thức tự chủ của giới sỹ phu và nền văn hóa đạo đức Việt Nam. Chúng từ đây đã tạo ra những người làm văn hóa nô lệ, chỉ biết cúi đầu tâng bốc cho những hành động dã nhân, thú tính, vô luân, phi pháp của đảng và nhà cầm quyền Việt cộng. Và triệt tiêu toàn bộ những gì thuộc về tri thức và lương tâm của ngòi bút, của con người. Nó làm phá sản nền văn hóa đạo đức, luân lý đặt trên căn bản Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của dân ta. Từ đó, mỗi ngày một chồng chất thêm những tội phạm thuộc diện man rợ, côn đồ. Rồi nó tạo ra một nền văn hóa vô văn hóa dựa trên dối trá và lừa đảo.

II. Diện chính trị.

1. Phạm văn Đồng, dưới sự chỉ đạo của Hồ chí Minh, đã nhân danh thủ tướng của cái nhà nước nhân chủ nhân dân Việt cộng, ký công hàm công nhận chủ quyền của Trung Cộng trên vùng biển thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là máu thịt, là xương cốt của Việt Nam vào năm 1958.

2.  Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Lê đức Anh, Nguyễn mạnh Cầm, Phan văn Khải,  Võ văn Kiệt… đã cùng liên hệ ký hai Hiệp Định và Hiệp Thương biên giới vào các năm 1999 và 2000 để giao các vùng đất thuộc thác Bản Giốc, ải Nam Quan, bờ biển Tục Lãm,  vịnh bắc bộ và núi Lão Sơn của Việt Nam cho Trung cộng.

III. Về Kinh Tế.

1. Đỗ Mười, Lê khả Phiêu. Võ văn Kiệt, Phan văn Khải, Nguyễn tấn Dũng, Nông dức Mạnh, Nguyễn minh Triết, Nguyễn phú Trọng… kẻ trước người sau,  cùng liên hệ trong vụ việc ký khế ước cho Trung cộng đặc quyền khai thác Bauxite ở trên cao nguyên Trung phần.  Đây là loại “tài nguyên” như ung thư di căn, đã không có lợi về mặt kinh tế cho Việt Nam, còn tàn phá môi trường, sinh thái, đời sống của đồng bào ta ở trên cao nguyên và vùng đồng bằng của nam Việt Nam. Tệ hơn thế, tạo ra một đầu cầu cho Trung cộng lợi dụng thiết  lập hệ thống căn cứ quân sự ngay trong  giữa lòng đất của Việt Nam .

2. Nguyễn tấn Dũng, Nông đúc Mạnh, Nguyễn minh Triết, Nguyễn phú Trọng cùng những bí thư, thường vụ tỉnh ủy  của mười tình đầu nguồn đã ký giấy cho Trung cộng gỉa danh các doanh nhân để thuê bao trên 400,000 hecta rừng  để độc quyền khai thác dài hạn trong 50 năm. Trong khi ngoại nhân độc quyền chiếm hữu đất thì dân ta không có vài chục mét vuông đất để làm nhà. Còn cảnh nào tang thương hơn thế?

3. Rồi trên bình diện cả nước,  các chủ thầu Trung cộng đã trúng thầu hàng ngàn những dự án xây dựng từ nhỏ đến lớn. Từ cơ sở hạ tầng cầu đường, cho đến các  cơ sờ, nhà máy, mà nhân công của nước ngoài tự do ra vào cư trú trên đất nước Việt. Không có một loại văn bản nào để kiểm soát, kỉểm tra.

Thưa bạn,

Trong hoàn cảnh này, dân ta ngủ không qua đêm. Sống không trọn ngày. Lúc nhắm lại thì thấy toàn ác mộng. Khi mở mắt ra chỉ toàn thấy những bạo hành trong xã hội. Đi đến đâu, làm  bất cứ việc gì cũng đều thấy những bóng ma công an, dân phòng đeo bám để rỉa rói với những luật lệ tùy nghi, tùy tiện. Nếu có những đụng chạm giữa dân ta với những người đến từ phương bắc, ngôn ngữ chĩ cần ra dấu bằng tay hoặc gỉa câm thì trăm quan cán như một, to mang trợn mắt kết luận dân ta phạm lỗi, phạm luật rồi trốn khỏi hiện trường.  Phần người khách gây họa thì đi nghênh ngang như ông chủ lớn. Trên đất liền, thành phố của ta đã thế, nói chi đến nỗi nhục, nỗi đau thương của ngư dân ta ở trên biển khơi?

Đó còn là chuyện nhỏ. Dân ta  ngày nay mất ăn mất ngủ, lúc nào cũng  phập phồng lo sợ một sáng, một tối Trung quốc kéo tràn sang mà đặt nền đô hộ. Họ sang mà không cần đến một cuộc chiến. Bởi vì  cửa ngõ biên giới đã được bỏ ngõ theo lệnh của quan cán cấp cao từ trung ương, từ bộ chính trị!  Nếu có xảy ra một cuộc đụng độ nào đó thì phải được hiểu là do lòng yêu nước của anh bộ đội, của người công an còn có lòng nghĩ đến nước mà xả thân giữ nước. Nhưng cái kết qủa có khi lại còn đau thương hơn.

Cuộc chiến năm 1979 đã chứng minh. Những người bộ đội biên cương của Việt Nam xả thân giữ nước, khi chết không có chỗ chôn thây. Trong khi đó, lệnh từ trung ương cấp cao  là phải làm mồ, xây nghĩa trang cho “liệt sỹ” Trung quốc ở ngay trên đất của ta. Sự kiện ấy đã nói lên rằng. Đất ấy, là đất đã được nhượng, được giao bán rồi. Bỡi lẽ, nếu là đất của Việt Nam có chủ quyền thì làm gì có thể có nghĩa trang liệt sỹ cho những kẻ bành trướng? Trường hợp họ đến từ một đất nước cách biên giới của ta hàng vạn dặm, không thể khiêng về thì còn có thể chống chế đôi phần.  Nhưng ở đây, khiêng chạy bộ năm ba phút đã về đến nhà. Nhưng họ quyết nằm lại là phải có lý do. Lá rụng về cội. Đó cũng là một lý do, một  ý nghĩa khác khi họ nằm lại và được nhà nước  Việt cộng xây đài, dựng nghĩa trang liệt sỹ ở ngay trên đất của “ ta”! Hỡi hồn thiêng qúy tử sỹ Việt Nam , hãy nói lên tiếng nói thay cho con dân Việt Nam nỗi đau đớn này.

Khi rủi có tranh chấp lớn, thua thiệt lại đổ hết lên đầu lên cổ dân ta. Riêng phần quan cán, tùi tham đã đầy, tiền của vơ vét từ tài sản, tài nguyên của đất nước, của đồng bào đã được quan cán đem đi gời ở ngân hàng ngoại, hay mua nhà tậu phố ở phưong xa an toàn, chả thấy có quan cán nào tậu nhà mua phố  ở những nơi gọi là “ môi hở răng lạnh”.  Quan đi thì sung túc. Phần cán ở lại thì tiếp tục tranh nhau nghề thái thú mà hành tội dân ta. Cảnh tang thương ấy, chắc lại trăm dâu đổ đầu tằm? Thử hỏi:

–        Nạn lớn của nước ai lo gánh vác?

–        Nỗi thống khổ của dân, ai vỗ về?

–        Vết thương của dân tộc mỗi ngày thêm lở loét ra, ai  chăm sóc, chữa lành?

–        Và dòng nước mắt không  khô cạn của toàn dân ai là người lau khô đây?

Tôi tin rằng nỗi lo lắng, nỗi thao thức  vì dân tộc ấy đang nung nấu trong tâm can các bạn. Theo đó, quê hương ta có được ngày mai sống trong Độc Lập theo ý chí của tiền nhân hay không là do các bạn quyết định.

Rồi quê hưong ta ngày mai có được một sinh hoạt trong Tự Do, Dân Chủ hay không là  do chính tâm lòng các bạn mở ra trong hành động

Dân tộc ta ngày mai có được cơm no áo ấm hay không. Có còn cảnh dân oan kéo tràn trên cả  nước hay không. Có còn những cảnh cơ hàn không  nhà hay không là do tâm hồn   đại lượng của các bạn.

Xã hội ta ngày mai có được tiếp xúc với một nền văn hóa nhân bản. Giải trừ đi những gian dối trong thời cộng sản hay không là do ý chí và sức sống của các bạn.

Rồi một nền luân lý, đạo đức nhân vị có được định bản trên quê ta ngày mai để tiêu trừ  đi những tệ nạn cộng sản đang làm băng hoại xã hội hay không là do sự khai mỡ ra và lòng dũng cảm của các bạn.

Tóm lại, ngày mai, ngày mai ấy của quê hương ta ra sao là do sức sống , sự ao ước và nỗi khát vọng về một quê hương có Tự Chủ có Tự Do có Nhân Quyền và Công Lý ở trong lòng các bạn.

Bạn thân mến,

Tôi xin mượn lời của Tổng thống, Thủ Tướng đương nhiệm Nga, cựu trùm  mật vụ KGB , Vladimir Putin để kết lá thư này là: “Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim” Tôi tin chắc chắn rằng, các bạn trẻ Việt Nam của chúng ta luôn là những người nuôi theo chí lớn của tiền nhân. Giữ vững nền Độc Lập của  quê hương. Yêu nước, thương đồng bào của mình. Họ không bao giờ là những kẻ có cung cách nô lệ cho cộng sản, hay làm kẻ buôn dân bán nước. Trái lại, khí phách của Non Sông  sẽ được mở ra từ những người trẻ này.

Vì cùng chung một niềm tin là vận mệnh dân tộc ta sẽ đổi mới. Hôm nay, nhân ngày tết đến, tôi xin kính chúc bạn và gia đình một năm mới an khang. Một năm mới thành đạt với nghị lực mới, tư duỳ đổi mới, để cùng dân tộc ta  thực hiện một lời thề vì non nước, đem lại an vui và hạnh phúc cho đồng bào của chúng ta. Được như thế, quê hương này đời đời ghi công ơn của các bạn.

Chào thân mến

Bảo Giang

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Cha gìa dân… Vọc.

Cha gìa dân…  Vọc.

Nam – Bắc nối liền, giáp biển khơi,

Phân ranh, định phận lại do trời.

Nghìn xưa sách sử đà ghi rõ.

Kẻ lấn biên cương sẽ nát đời.

Hôm nay là ngày 19-5-, ngày mà Hồ chí Minh đón Pháp ra Hà  Nội sau khi kết thúc đệ nhị thế chiến. Mục đích cuộc hòa hoãn với Pháp là để VM rảnh tay ám hại nhiều cá nhân, đoàn thể hay các đảng phái hoạt động cho quốc gia, để chỉ còn trơ ra ở đất bắc một tập đoàn duy nhất là Việt Minh mà thôi. Tuy nhiên, khi treo cờ đón Pháp, Hồ thất thế, sợ bị dân chúng phỉ nhổ, tẩy chay và Pháp khinh bỉ nên Y tung ra bản tin là  “mừng sinh nhật bác”. Đây rõ là chuyện mang tính bịa dặt, lừa gạt. Vì cho đến ngày hôm ấy, Hồ chí Minh đã chính tay ghi chép  khá nhiều về năm sinh cho bản thân Y, nhưng không bao giờ có ngày tháng đi kèm. Từ đó, câu chuyện này, ngày 19-5 trở  thành ngày lễ lớn cho tập thể Việt cộng múa rối.

Tuy nhiên, có một điều rất lạ lùng là mỗi khi nhắc đến tên Hồ chí Minh thì trong lòng, trong trí của hơn 90 triệu con dân Việt Nam ngày nay đều nhắc, nhớ đến tội ác của Hồ đã gây ra cho dân  tộc này, thay vì nhắc đến những gì gọi là công lao của Y. Ngay các đảng viên Việt cộng cũng không có ngoại lệ.  Tại sao lại như thế?

– Có phải vì Y là kẻ tột cùng của gian trá và độc ác?

– Hay Y là người Tàu gốc Hẹ, là “cha già dân Vọc” nên Y muốn chiếm cứ và được hưởng mọi đặc quyền tại Việt Nam chăng?

Rõ ràng, đây chỉ là một vài câu hỏi nhỏ dẫn chúng ta đi vào hành trình đi tìm sự thật cho mình và cho đất nưóc Việt Nam của mình mà thôi. Nhưng trước hết, cụm từ “ cha gìa dân Vọc” tự đâu mà có?

Ai cũng cho rằng nó khởi nguồn từ cuốn sách hoang đường “ những mẫu chuyện…” viết về cuộc đời hoạt động của Hồ chí Minh với bút hiệu là Trần dân Tiên. Tuy nhiên, cái danh hiệu này lại được Nguyễn khánh Toàn,Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục Việt cộng, chính thức múa trong bài đề tựa cho quyển “Tác Phẩm Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh” của tác giả Hà Minh Đức, do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội in năm 1984, như sau: “Trần Dân Tiên là bút danh của Hồ Chủ Tịch ghi lại những sự kiện lớn đã đi qua cuộc đời của Người do chính Người miêu tả…”

Chuyện là thế, nhưng ai cũng buồn cười là chính nhà nước Việt cộng đến nay không dám xác nhận sự thật này. Ngay trong danh sách có hơn 172 cái tên được cho là bí danh và tên của Hồ do nhà nươc Việt công bố cũng không có tên TDT. Như thế, cuộc gọi là phỏng vấn của Y với tên nhà báo nào đó đương nhiên là không có thật, và những sự việc được kể ra trong quyển “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động của Hồ” chỉ là chuyện hoang đường, nếu như không muốn nói là gian trá, lừa phỉnh. Đã thế, cuốn sách này lại ra đời trong lúc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh đã đến giai đoạn khốc liệt. Nó lần đầu xuất hiện ở bên Tàu 1949, năm sau 1950 được in tại Paris bằng tiếng Pháp.

Hỏi xem, vào những năm 1945-49, Hồ có thảnh thơi để viết chăng? Dĩ nhiên là không. Từ đó cho thấy, “Vừa Đi Vừa Kể Chuyện” của T.LAN cũng chỉ là những chuyện đồng bóng do nhóm tác gỉa Tàu, hay một nhóm u mê nào đó có cả Tàu và Việt viết ra với mục đích đánh bóng Y, và làm cho dân Việt quên đi cái gốc thật của Y mà thôi.

Sở dĩ tôi viết toạc ra như thế là bởi vi, bất cứ ai bước vào đường văn chương viết lách tử tế, đều biết một việc là phải tôn trọng độc gỉa và chuyện viét lách thật không phải là một chuyện dễ dàng gì. Có tưởng tượng, có bút ký cũng cần phải có thời gian gọt, mài bài viết để thành tác phẩm. Hơn thế, phải được tự do thong dong, đi lại, thảnh thơi. Nó không thể như ăn vội một bữa cơm là xong. Nhìn từ khía cạnh này, Hồ cho thấy Y không có khả năng để viết ra tác phẩm này. Nó cũng giống như chuyện viết bản Le Procès de la colonisation française… với tên là Nguyễn ái Quốc lúc xưa mà thôi.

Về Le Proces de la colonisation francaise ai cũng biết, đây là tác phẩm đã hun đúc từ lâu của nhóm người Việt Nam ái quốc sống tại Pháp, đáng kể nhất là cụ Phan chu Trinh, Phan văn Tường, Nguyễn thế Truyền rồi Nguyễn an Ninh… Họ đã từng viết nhiều nghị luận và ký chung một bút hiệu là Nguyễn ái Quốc.  Họ là những người trí thức, nhiệt tâm tranh đấu vì lý tưởng Độc Lập và vì đất nước. Trong khi đó, Nguyễn tất Thành một  tên bồi dưới Tàu, khi ngủ Việt cộng tuyên truyền là phải ôm cục gạch để sưởi ấm, học lực chưa qua lớp 6, Y chỉ cần làm một việc hết sức nhẹ nhàng là đánh cắp cái tên Nguyễn ái Quốc là… thành nhà cách mạng. Phần những nhà trí thức kia bỗng thành kẻ trắng tay, chẳng còn gì.

Ở đây, tưởng cũng nên nhắc lại chuyện khi nói về cụ Phan chu Trinh, và Nguyễn sinh Huy,  Bùi Tín có viết như sau: “Ông Nguyễn Sinh Huy là tri huyện Bình Khê vì đánh chết một nông dân nên bị đuổi ra khỏi ngành quan lại”. (RFA 18-5-2007). Sau khi bị cách chức vì tội say rượu đánh chết người thì ông Nguyễn Sinh Huy vào Nam làm nghề bốc thuốc Bắc. Ông Nguyễn Sinh Huy sau khi thi trượt các khóa Ất Mùi 1895 và Mậu Tuất 1898, mãi đến khóa Tân Sửu 1901 mới đậu Phó Bảng, cùng khóa với cụ Phan Châu Trinh, nghĩa là mấy tháng sau khi vợ chết ông mới thi đậu. Cả hai đều làm việc ở bộ Lễ dưới quyền ông Ngô Đình Khả, nhưng đến năm 1904 cụ Phan Châu Trinh rũ áo từ quan.”

Chuyện trắng đen là thế, nay người Việt Nam muốn thoát ra khỏi cái loa tuyên truyền của Việt cộng, muốn biết về Hồ Chí Minh không gì hơn là đi tìm nguyên ngữ của câu chuyện “ Tảo đúc cốt, Sắc tráng men” ở làng Quỳnh Đôi hay làng Sen đất Nghệ An, chúng ta sẽ có câu trả lời: “Đây là một câu chuyện trước kia không ai dám đụng đến, chỉ mãi đến năm 1990, Trần quốc Vượng, được gọi là sử gia ở miền bắc mới úp úp mở mở trong bài  viết “Thật Mà Chưa Chắc Là Thật” và sau đó câu chuyện này được triển khai thêm trong quyển “Trong Cõi”. Ở đó “ Tảo đúc cốt, Sắc tráng men” rõ ràng hơn..( Đi tìm sự thật về con người muôn mặt… Lê Minh Khôi)

Chuyện trong nước là thế, khi bước vào trường quốc tế lại là một khó khăn khác: Lý lịch lần đầu đến Nga, Nguyễn tất Thành khai sinh năm 1892. Đến khi ghi danh học trường quốc tế Lenin năm 1933, Nguyễn tất Thành khai tên Lin sanh năm 1903 thay vì 1890 ( tất cả đều không có ngày, tháng). Hỏi xem, một kẻ  luôn man trá trong lý lịch của bản thân như thế, Y sẽ là ai đây? Để trả lời cho câu hỏi này,   Ngô trọc Lưu cho biết: “Sở dĩ luôn có sự sai biệt về năm sanh là vì người đội lốt Nguyễn tất Thành là Hồ Tập Chương, người dân tộc Hẹ (Khách Gia) sanh tại Đài Loan năm 1901, nhỏ hơn Nguyễn Ái Quốc 11 tuổi”

Đến khi vào Việt Nam, Y lại mang tên Hồ Quang (38tuổi). Khi trở về Tàu, Y bị bắt, Y lại khai tên là Hồ chí Minh. Cái tên này (còn nhiều bí ẩn trong giai đoạn trước đó) được Y giữ lại cho đến khi vào hòm. Như thế, một câu hỏi lại được  đặt ra là: Phải chăng Việt Nam đã trải qua hai trào Hồ chí Minh?

  • Một là Nguyễn tất Thành (1890-1933) gốc Nghệ An, tên Nguyễn sinh Cung, bị bệnh lao phổi nặng, đã chết trong hay  ngay sau khi ra khỏi nhà tù ở Hồng Kông với tên là Tống văn Sơ.
  • Một gốc Hẹ, tên Hồ Quang(1903-1969) là thiếu tá trong Bát lộ quân Trung cộng (1938-39). Sau này, Y lấy tên là Hồ chí Minh và chết ở Việt Nam vào ngày 2-9-1969. Và đây chính là  kẻ  đã  tự  xưng là  “cha gìa dân Vọc” theo chính bản văn do Y hay những người khác viết cho Y trong “những mẩu chuyện…” được in lần đầu tại Trung Hoa (1949). In tại Paris bằng tiếng Pháp năm 1950. Sau dịch sang tiếng Việt in ở Hà Nội (1958). Bạn hỏi tôi dân Vọc là dân gì ư? Đơn giản là bạn nên mở tự điển ra thì biết rõ hơn.

Rõ ràng, ngay từ buổi đầu, ai cũng biết những gian manh bất hảo của Y (ngay trong đời sống gia đình cũng không có ngoâi lệ). Theo đó, bất cứ kẻ nào theo và ca tụng Hồ thì đều có cơ hội trở thành những phần tử gây ra tội ác với người dân. Hoặc gỉa, đã chung lưng bán rẻ phần đất gia nghiệp của Việt Nam cho phương bắc. Điển hình là Đặng xuân Khu, Phạm văn Đồng, Lê Duẩn… cho đến Nguyễn văn Linh,  Đỗ Mười, Lê khả Phiêu, Nông đức Mạnh và gần đây là Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn phú Trọng… cùng các đoàn đảng viên cấp lãnh đạo của chúng. Thành phần này, xem ra là hoàn toàn bất lợi cho người Việt Nam. Bởi lẽ, lịch sử ngàn năm chống đô hộ Tàu đã bị vất vào xọt rác dưới những ngày tháng còn bóng dảng tập đoàn này.

Bạn không tin ư? Mời bạn hãy nhìn xem, ngay trong lúc thực dân đô hộ, dân ta có khốn cùng như hôm nay không? Và hỏi xem, dân ta đứng lên diệt bọn thực dân Pháp là vì mục đích gì? Vì nền độc lập vì tự do của xứ sở hay là vì để đi thờ Tàu? Nay, kết quả sau cuộc triệt Pháp ấy ra sao? Nếu bảo vì Độc Lập, Tự Do vì Hòa Bình ta đi đánh Mỹ cứu nước. Cái kết qủa ấy hôm nay thế nào? “Mỹ đã cút, ngụy đã nhào” để cho Hồ chí Minh tự do rước Tàu vào dày xéo đất nước và dân tộc ta chăng?

Đây sẽ còn là những câu hỏi liên hệ lâu dài đến đời sống và văn hóa của Việt Nam. Nó, không chỉ kéo dài vài ba chục năm sau khi cộng sản đã tan vào cát bụi. Tuy nhiên, nếu người Việt Nam muốn có Độc Lập, muốn có một quốc gia cho con cháu mình sinh tồn thì không thể không đứng lên để tìm câu trả lời trước là:

1. Phải khai trừ Y ra khỏi dòng lịch sử của Việt Nam.

2. Phải khai trừ cái tên ấy ra khỏi dòng văn hóa của dân tộc Việt Nam.

Nếu chúng ta không làm được hai điều này, chúng ta sẽ đắc tội với tiền nhân và con cháu chúng ta. Bởi chính những thế hệ này đã đưa con cháu chúng ta vào vòng nô lệ cho Tàu qua cái danh “cha gia dân tộc” của Y. Tại sao lại như thế được?

Trước hết, bạn hãy hỏi lại xem, bốn chữ gọn nhẹ  này Y muốn dành gởi cho dân Việt Nam hay tộc Hẹ của Y?

  1. Với dân Hẹ, chúng ta không thể hiểu được đường đi của họ, tôi không có ý kiến.
  • Cha gìa dân tộc Viêt ư?

Tôi khẳng định là không bao giờ. Bởi lẽ, nếu Y là con của Nguyễn sinh Huy, thì Y sẽ mang tên là Nguyễn tất Thành. Thành là người Việt Nam, có xuống Tàu sang Pháp, có làm đơn xin vào học trường thuộc địa với hy vọng được làm quan cho Pháp để cứu người cha của mình. Điều ấy thì ai cũng biết rõ. Tuy nhiên, Nguyễn tất Thành đã không thành công trên con đường quan lộ với Pháp. Trái lại, khi rời Pháp, Y còn phạm vào tội danh để thiên cổ ghi nhớ là đã đánh cắp công lao tranh đấu cho  một Việt Nam Độc Lập, cũng như toan cướp đoạt những văn bản của những người đã viết và ký tên bằng một bút hiệu chung là Nguyễn ái Quốc. Tuy nhiên, cái tên Quốc này, có lẽ đã vào một sâu từ lâu rồi. Bởi lẽ, mộ chôn Nguyễn ái Quốc còn ở Liên Sô” Tro cốt của Y được ghi bằng  mã số 00567, sau khi thiêu đã được lưu trữ tại nghĩa trang Kuntssevo, Moscowe.

Đả thế, vào năm 2000, Sau nhiều năm đi Nga, Trung cộng, sang Việt Nam,  William J. Duiker hoàn thành tác phẩm “ truyện Hồ chí Minh”, Duiker viết: “ Những tài liệu nằm ở Trung tâm lưu trữ Hà Nội đều không cho người VN và ngưòi nước ngoài vào tìm hiểu, nghiên cứu. Cũng vậy, người ta không thể tìm được những tài liệu  có liên quan đến Hồ chí Minh ở Bắc Kinh và Mạc tư Khoa. Những nhà cầm quyền ở đây ít khi để lộ ra những thông tin thuộc  loại này.,”

Kế đến, nếu bảo Hồ chí Minh là con Hồ sỹ Tạo nên y lấy họ Hồ. Dĩ nhiên, điều này chỉ có bốn người biết là bà Loan, Hồ sỹ Tạo, Nguyễn sinh Huy và có thể cả Nguyễn sinh Cung cũng biết. Nay Y lấy họ Hồ thì cũng đúng thôi, chả ai trách. Tuy nhiên, Khi Y đắp tượng cho Nguyễn sinh Huy mà không lập đài cho Hồ sỹ Tạo thì rất chướng. Riêng việc xướng danh thì dù là con của Nguyễn sinh Huy hay là Hồ sỹ Tạo thì Y đều phải được gọi theo cung cách Việt Nam là bác Thành, hay chú Minh, chứ không bao giờ là bác Hồ. Lý do, người Việt Nam có thể gọi theo thứ tự như anh ba, cô hai, chú bảy… nhưng không bao giờ có lệ gọi họ thay tên như cô Hồ, chú Nguyễn. Như thế, xem ra Y tự cho chúng ta biết bản thân Y có khác biệt với nguồn gốc của Việt Nam. Và đó cũng là lý do Y lửng lơ viết là “ cha gìa dân tộc” cho ai muốn hiểu sao thì hiểu!

  • Có thể là cha già dân Vọc không?

Tại sao không? Có thể qúa đi đấy chứ. Bởi lẽ, một kẻ lưu vong mất đất mất nhà, chạy sang Đài Loan, mất gốc lại quay về theo gót Mao để kiếm miếng cơm manh áo và sau đó được Mao chỉ định sâm nhập vào Việt Nam cũng chẳng có gì đáng để lưu ký. Tuy nhiên, ai cũng biết, lịch sử của một dân tộc không phải chỉ là năm ba năm, một trăm năm nhưng là ngàn năm. Theo đó, nếu dân Hẹ đã hoàn toàn thất thế với Hán bang xưa, nay ai dám khẳng định là Y không thể lợi dụng hòan cảnh của Trung cộng để kiếm đất khôi phục lại cội nguồn cho ngưòi Hẹ? Và nếu đây là một chủ đích của Y thì chính người Việt Nam phải biết nhìn ra cái chủ đích ấy mà tru diệt Y hơn là xưng tụng Y ở trên phần đất này.

Nghĩa là người Việt Nam phải biết nhìn đến những hình ảnh xa, rất xa ấy để mà tiêu trừ hậu họa. Bây giờ đã là trễ, nhưng chưa qúa trề. Tuy nhiên, sau một thế hệ nữa, khi người Hẹ trên đất Việt chỉ cần chiếm 1/3 dân số thôi, con cháu của dòng Việt Linh sẽ chỉ còn được coi là dân tộc thiểu số mà thôi. Bởi lẽ, trên đất Việt đã có rất nhiều người Tàu, đủ mọi nguồn gốc, trốn sang Việt Nam lập nghiệp, lấy vợ, và sinh con đẻ cháu ở đây. Nay họ quy về Hẹ, tộc Việt chắc chắn không còn chỗ đứng. Bởi lẽ, từ rừng sâu họ có địa bàn vững chắc, trong lòng phố ngoài những gốc Tiều, Hẹ, Hán… thì còn có bầy đoàn Việt cộng theo hầu Hồ từ bấy lâu nay, lẽ nào chúng bỏ phần sôi.  Thế là Ta mất nước, người Việt trở thành dân tộc thiểu số ngay trên chính quê hương mình chẳng có gì lạ.

Rõ ràng, đây không phải là chuyện ngồi vẽ voi, nhưng nó chính là hướng đi của Hồ Quang, mượn danh nghĩa con cháu Hồ sỹ Tạo, hay Nguyễn sinh Huy để tạo nghiệp cho nhà Hẹ ở trên phần đất này mà thôi.

Ai cũng biết, Lịch sử là câu chuyện của một ngàn năm. Dân Hẹ đã mất nước, bị xát nhập vào Trung cộng từ ngàn năm trước, nhưng ai biết được chuyện của 500 năm sau. Nếu tộc người Việt Nam không toàn tâm toàn trí giữ quê hương, có thể rủi ro. Bởi vì ở trên phần đất ấy đã có tộc Hẹ của Hồ Quang chiếm đóng ở đây từ 1945 rồi. Như thế, ta thua vì đã non trí, thiếu lý. Tệ hơn, còn ra sức chém giết nhau, rồi vui chơi hưởng nhờ ơn mưa móc và ngôn từ của kẻ cướp nước. Hỏi xem, chúng ta còn trách cứ ai đây?

Vâng, bạn có thể cho rằng tôi đi qúa xa, mở qúa rộng. Tuy nhiên, nếu chúng ta không dứt khoát tiêu diệt cái chủ trương của Hồ trên đất Việt, con cháu chúng ta sẽ tự nhiên mất gốc, rồi mất nước. Hôm nay, ta nhận kẻ xưng là “ cha gìa dân Vọc” thành cha gìa dân Việt theo ẩn ý của Y để được trở thành một tỉnh bang Tàu theo ước muốn của Hồ, của Chinh, Đồng, Linh, Mười…. thì chuyện Việt Nam thành Tây Tạng, Tân Cương, Ngô Nhĩ… cũng chỉ là chuyện của thời gian phải đến mà thôi.

Để chứng minh cho vụ việc qụa đẻ nhờ tổ này, dĩ nhiên, cũng chẳng có gì là khó khan, DNA những gì còn lại của Y là một minh chứng và đưa tất cả mọi câu chuyện liên quan tới HCM ra ánh sáng. Bên cạnh đó là những tư liệu từ bên ngoài của Ngô Trọc Lưu, người được xem là cha của nền văn nghệ Đài Loan, đã xuất bản tại Đài Loan năm 1947 một quyển sách tựa đề “Hồ Chí Minh” viết bằng Nhật ngữ. Y rất thân cận với Hồ Tập Chương và các người em của nhân vật kỳ bí nầy. Chính  Lưu đã xác quyết rằng:“Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương, người thuộc sắc tộc Hẹ tức Khách Gia (Hakkard) sanh tại Huyện Miêu Lật, Địa khu Đông La, Đài Loan.”

Trong khi đó Trần Đĩnh, một nhân vật thân cận bên Hồ Chí Minh, đã hé lộ một chi tiết đáng kể về lý lịch của người tự xưng là “cha già dân Vọc” trong “Đèn Cù” như sau:“bác nói tiếng Hẹ của dân tộc Hakkard rất lưu loát, “Bác”rất thich thú đi dạo chơi thành phố Móng Cái và biết rất rõ thành phố nầy mặc dầu mới đến đây lần đầu tiên năm 1960”. Đây là những vấn đề nghiêm trọng, buộc người Việt Nam phải xem xét cho chuẩn xác kẻo lỡ! Ngoài ra, chúng ta sẽ công khai công bố rằng:

Hỡi những kẻ đang nắm quyền lực tại Hà nội, nên nhớ rằng: Ở nơi đây là trời, là đất của Việt Nam. Ở nơi đây còn có trọn dòng máu của Hai bà Trưng, của Ngô Quyền, rồi Lê Lợi, Trần hung Đạo và Nguyễn Huệ. Từ đó, cái thước Công Lý cũng như dòng máu Việt tộc sẽ triệt hạ tất cả những tay sai của Tàu cộng theo gót Lê chiêu Thống, Trần ích Tắc làm hại đất nước. Dĩ nhiên, Hồ chí Minh sẽ không có ngoại lệ. Bởi vì lời của tiền nhân ta đã khẳng định từ nghìn xưa là:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên phận định tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”

Tôi xin được phỏng dịch là:

Nam, Bắc  nối liền, chung biển khơi,

Phân ranh, định phận lại do trời.

Nghìn xưa sách sử đà ghi rõ,

Kẻ lấn biên cương sẽ nát đời!

Bảo Giang.

19-5-2020

Doc   Viết quá hay, quá chính xác, và quá chuẩn mực. Xin cám ơn tác giả đã cho tôi thêm tầm nhìn, tầm nhìn từ quá khứ, hiện tại và cả đến tương lai của một đất nước, một dân tộc .

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Thư gởi chị Nguyễn thị Loan.

Thư gởi chị Nguyễn thị Loan.

Người mẹ sống và chết vì con.

Thưa chị Loan,

cháu Thu Thuỷ và  LS Phong thân mến,

Từ khi có Việt cộng đến nay, tôi chưa hề viết về bất cứ một cung cách, một hành động nào của họ qua những phiên tòa họ hành sử. Bởi lẽ, tôi đã thuộc lòng nhửng bản án của họ trong thời 1953-56, đặc biệt là bản “Địa chủ ác ghê” của hồ chí Minh và bản án của  gia đình bà Nguyễn thị Năm”. ở đó mạng sống của con người không bằng gía của vài sào ruộng và thua xa lời vu cáo. Nhưng đây, xem ra là ngoại lệ. Cùng một vụ, tôi đã viết bài thứ hai. Bởi lẽ, nó đã và đang là một vấn nạn lớn của xã hội Việt Nam hôm nay.

Trước khi vào tâm tình của lá thư này, tôi xin ghi lại một số sự kiện quan trọng liên quan đến vụ án này mà tôi đã viết đến trong bài trước. Đây là những điểm mà chính những viên quan tòa ngồi và kêu án tử hình cho Hồ duy Hải cũng đã chính thức nhắc đến:

  1. Không ai nhìn thấy Hải lúc xảy ra án mạng.
  2.  Không có bất kỳ một dấu vết, một vân tay nào của Hải ở trong hiện trường xảy ra án mạng. Nhưng có 10 vân tay của người khác.
  3. Tang vật giết người được đem ra làm bằng chứng cho vụ án là con dao cắt cổ nạn nhân, và cái thớt dập đầu nạn nhân, được công an ra chợ mua  đem vào vụ án sau này.
  4. Cái ghế mà can phạm dùng để hành hung nạn nhân có thể có dấu vân tay, dấu máu của cả nạn nhân lẫn kẻ thủ ác nữa, đã hoàn toàn biến mất và được thay bằng cái ghế khác.

Ngoài ra, về nguyên tắc. Ai cũng biết, chỉ cần một sợi tóc, một vết máu, một mảnh da nhỏ khi vụ án xảy ra, nếu đem lên thử DNA thì kết qủa gần như đã là 90% để xác định thủ phạm.

Tuy nhiên, những chuyện dễ ấy họ không làm, Nhưng một nạn nhân tình cờ trở thành thủ phạm và lãnh án tử hình thì họ đã vẽ ra đấy đủ những loại tội (chỉ thiếu bằng chứng chứng minh).  Hỏi xem, luân thường đạo lý, pháp nước  này ở đâu mà có?! Đọc câu hỏi này, bất cứ ai cũng có thể trả lời là ở cái xứ gọi là nhà nước Việt cộng làm chủ thì không bao giờ thiếu gian trá.

Đó là những sự kiện đã công khai, ai cũng biết. Nay, đứng trước việc làm vô luân, vô đạo đức của tập đoàn Việt cộng mà đại diện là tên Nguyễn hòa Bình ngồi xử án. Lại thấy chị tất tuởi nhờ luật sư làm giấy xin ân xá cho Hải, tôi không thể không viết cho chị lá thư này, dù không một quen biết. Tuy nhiên, trước khi đi vào điểm chính của lá thư. Tôi thành thật đặt ra với chị một câu hỏi là:

  • Ngoài tình thương chị dành cho Hải, chị có tin rằng cháu Hải đã phạm tội giết người không? Nếu chị cho rằng cháu đã phạm tội này thì hãy làm đơn xin ân xá ngay, kẻo trễ.
  • Nếu chị không tin và có đầy đủ lý lẽ chân thật, chứng minh Hải con chị không gây ra thảm án cho hai cô gái kia thì đề nghị với chị Không Bao Giờ Làm Đơn Xin Ân Xá cho Hải.

= Tại sao ư?

Chị có biết, sau khi tuyên bản án này, thì tất cả tập đoàn ấy đều cầu mong được nhìn thấy cái đơn xin ân  xá của chị (của cháu) để chúng có đầy đủ lý lẽ diễn nốt vở tuồng vô đạo, gỉa nhân nghĩa này. Nay chị làm đơn xin ân xá là rơi vào cái bẫy của chúng. Bởi vì:

  • Có tội nên phải xin.

Khi xin là chính chị và con chị đã xác định là người gây ra tội ác. Từ đây, chúng sẽ vênh mặt lên kiểu người có nhân nghĩa, vì xã hội mà tha hay giết kẻ phạm tội ác. Phần xã hội không ai tin con chị bị oan ức nữa. Cách riêng, từ đây về sau, chị tự buộc phải chấm dứt việc đi kêu oan cho con mình. Thay vào đó là những giờ phút ngồi chờ lá thư trả lời.

Kế đến,  khi làm đơn xin Ân xá cho Hải, chị đã tự buộc mình vào nút thắt sau:

  1. Chấp nhận cái bản án ấy là đúng người đúng tội.
  2. Chấp nhận đó là sự thật, lý lẽ của đời. Nay hối lỗi thì cầu mong một sự ân giảm.

Như thế, nếu con chị không phạm tội, việc xin ân xá này có nghĩa là chính chị hợp thức hóa tội cho con chị. Kế đến, chị còn giúp chúng rửa tay trong những sự kiện có thể có là:

  • Thứ nhất giúp chúng ban ơn ân  xá để sửa sai.
  • Thứ hai, chị giúp ác nhân lừa đảo toàn dân Việt thêm lần nữa.

Nhưng, nếu chị không làm đơn xin ân xá cho Hải là chính chị đã đẩy chúng vào đường khốn cùng, không biết phải giải quyết trưòng hợp này ra sao? Sử lại cũng dở, mà tiếp tục thi hành án không xong. Theo đó, bây giờ chúng đang mong ngày mong đêm để nhận được lá đơn xin Ân xá của gia đình chị.

Tuy nhiên, chị bảo rằng trước đây đã làm rồi, bây giờ có làm thêm cũng chẳng sao!

Điều suy nghĩ này là không đúng, hoàn toàn sai. Bởi lẽ, lần trước chị làm đơn xin ân xá không phải vì chị xác minh con chị đã phạm tội. Nhưng vì chị cần thêm thời gian để tìm hiểu cặn kẽ mọi góc cạnh của sự việc. Chị cần thêm tiếng nói của công lý, chứng cứ để bào chữa cho những uẩn khúc chưa rõ. Hơn thế, chị cần thêm những công luận từ công chúng trợ giúp.

Nay, sau phiên toà này ai cũng biết rất rõ ràng rằng, có đến 90% chúng muốn giết Hải là để thay thế cho một kẻ nào đó đã được chúng bao che và giúp cho cao chạy xa bay rồi. Tuy nhiên, vụ án không thể không có đoạn kết, nên chúng phải bày ra thêm hàng loạt những văn bản, lại là phiên tòa gọi là tối cao với đầy đủ 17 vị quan toà. Họ có mặt, không phải để phân biệt đúng sai, phải trái, nhưng là đồng loạt giơ tay lên biểu quyết giết người theo kiểu đấu tố xưa kia, mà không cần biết  đến lý chứng.

Đây phải được coi là phiên tòa “ hùng vĩ, uy lực” nhất thế giới. vì ngay tòa Nuremberg sử tội ác chiến tranh cũng chỉ có 4 Chánh án. Rồi tối cao pháp Viện Hoa Kỳ khi ra một phán quyết quan trọng cũng chỉ có 9 vị. Xem thế thì đủ biết lòng dạ của họ đã có sẵn những chủ kiến. Phải sử từ hình để kết thúc vụ án và để cho bị cáo xin ân xá. Vì muốn đạt mục đích giết người tồi bại như thế, nên  chúng đã tạo ra một vụ sử  án không thuộc về thế giơi của loài người là: “ k ẻ” ngồi ra bản án tử hình hôm trước cho nạn nhân, lại cũng là “chánh án” của phiên phá án hôm sau!

Theo đó, sau khi tuyên án, chúng chỉ mong mỏi và tin rằng chị sẽ làm đơn xin Ân xá cho cháu. Khi ấy chúng ngồi trên ngôi cao, cướp lấy lý lẽ và bao biện cho việc hành ác của chúng là đúng. Nay lại có đơn xin ân xá, có nghĩa là bị can đã nhận tội, xin ân xá để cầu sống. Việc làm này, một lần nữa giúp cho chúng lộng quyền trong hai phư ơng cách: Thuận cho  ân xá để tuyên truyền, hoặc là đem ra sử trảm để làm gương thị chúng.

Việc ký ân xá này, giúp cho kẻ làm ác khoa tay múa chân với nhau và lừa bịp người đời rằng: Chúng đã làm phúc, tha cho tử tù đến hai lần. Trong khi chị và cháu lại thêm những tháng năm kế tiếp sống trong đau khổ, nhục nhã và sống dưới gọng kìm không thể than thở được một câu. Nếu bi thương qúa, than thở sẽ bị người đời lên án nguyễn rủa. Con  bà đã được tha như thế còn muốn gì nữa đây? Như thế, việc làm đơn xin Ân Xá, thường là đúng cách. Nhưng ở trường hợp này lại khác nghĩa, nó rơi vào đúng ước mong và tính tóan của chúng.

Kế đến, không ai dám bảo chứng rằng sẽ được ân xá. Từ đó, cái đơn xin ân xá ấy như là một chứng cứ xác minh tội phạm từ chính bị cáo. Trong trường hợp này đa phần là sẽ bị bác, rất ít trường hợp được ân xá,

Thưa chị, tôi biết là của đau con xót. Tôi biết tình mẹ là bao la vô tận. Bà sẵn sàng bỏ ngoài tai bất kể là chuyện gì miễn bà được sống qua từng ngày với con của mình. Theo đó, nếu con chị lầm lỡ phạm tội, tôi tin rằng chị sẵn sàng qùy phục xuống xin nhận trách nhiệm, kể cả tù đày hay là chết thay cho con chị. Hoặc gĩa, chị có thể xin làm trâu, làm ngựa cho chúng suốt đời để đổi lại cái ơn chúng tha mạng cho con chị. Điều này, có lẽ chẳng người mẹ nào không muốn làm như thế khi con mình lỡ phạm tội. Hơn thế, họ cũng biết, gia đình họ và con của họ ở trong chốn lao tù kia cũng chỉ là sống trong cay đắng mà thôi. Họ khó tìm được niềm vui, nếu có chỉ là nhất thời, sau đó là những ánh nhìn đau đớn thay cho dòng lệ rơi trong những ngày thăm tù mà thôi! Tuy biết thế, họ vẫn phải làm đơn xin.

Nhưng nay, trong trường hợp của Hải xem như đã được minh chứng trước xã hội là cháu vô tội. Hải vô tội không phải chỉ vì lòng tin của chị và gia đình chị đặt vào cháu, nhưng vì chính những khí cụ, những chứng án đã  nói rõ cho toàn dân Việt Nam biết rằng Hồ duy Hải không phải là một can phạm giết người. (Nếu phải thì nó phải có những chứng cứ khác, chứ không phải chỉ  có bấy nhiêu). Từ đó, Hải như là một thế thân. Phần chính phạm, có thể là một kẻ khác với đầy đủ những dấu tích còn để lại tại hiện trường, nhưng được nhà nước này cố tình xóa dấu vết, bỏ qua dấu vân tay, quăng bỏ đi con dao, cái thớt và cái ghế mà Y đã hành ác. Sau đó, thoải mái thay thế vào đó bằng ba cái thứ hàng tự ra chợ mua về để kết án người khác.

Họ đã có chủ trương dã nhân như thế thì chị xin làm gì? Chị tính giúp chúng gây thếm tội ác với những trường hợp sẽ xảy ra sau này ư?

Tôi viết dài dòng như thế là bởi vì. Nếu chị không xin ân xá cho cháu thì chỉ có lợi cho chị, cho cháu và cho xã hội mà thôi. Tuyệt đối, không có gì là hại cho chị và gia đình chị cả. Bởi vì, chị hãy nhìn xem, 172,000 Việt Nam có chút tiền của kia, Hồ chí Minh còn giết công khai và chiếm đoạt tài sản của họ, thì nay, Hải là gì trong cái ý chí giết người chạy tội cho con cháu của chúng?

Để nhìn cho rõ từng sự việc hơn, tôi viết rõ nét như sau: Nếu chị không làm đơn xin ân xá cho Hải là chính chị đã xác minh cho người dân Việt biết rằng Hải vô tội. Cái ác muốn  giết cháu thì tùy chúng. Như thế, Con chị sẽ sống. Sống mãi trong chứng tích. Phần chúng, gia đình chúng sẽ phải chết trong ô nhục. 17 cái tay đưa lên kia, sẽ là 17 con dao chém chết cuộc đời của chúng và gia đình chúng.

Đây là ý kiến rất thành thật và thẳng thắn chẳng của riêng tôi, nhưng là con người có trí khôn, đều suy nghĩ như thế. Tùy nghi theo ý kiến của chị. Tuy nhiên, nó chính là phương cách dể cứu cháu Hải đấy. Bởi lẽ:

Sau phiên tòa lần trước, khi chưa nắm được toàn bộ vấn đề, chị xin ân xá là phải. Lần này câu chuyện không còn nhỏ nữa, và cũng không thu hẹp trong phạm vi nước Việt nữa, nhưng toàn thể cộng đồng thế giới đã biết, đã nghe và tất cả đã rõ trắng đen rồi. Theo đó, công luận đã có. Trắng đen đã rõ. Chị cần gì phải xin ân xá? Không có tội việc gì phải xin ân xá? Như thế, chính cái lá đơn xin ân xá trong vụ việc này là một phương cách giúp cho ác nhân thêm lý lẽ giết người đấy.

Sau cùng là, ai cũng biết tình chị cho con không bao giờ hết, nhưng mọi người đã nhìn thấy cái ác  độc của loài khỉ ở cuối con đường rồi. Theo đó, thay vì viết cái đơn xin ân xá, chị hãy viết lên lời công chứng, viết lên những chứng cứ thật của câu chuyện cho mọi người thấy. (hãy ghi lại từng việc, kẻo sẽ quên theo ngày tháng, rồi chờ thời để công khai hóa) .Tôi cho rằng đây là hướng đi chị nên can đảm bước đi thay vì cúi đầu nhận tội bằng cách xin ân xá.

Tôi viết khá dài rồi. Xin kính chúc chị và gia đình được bình an và can đảm với cái quyết định trong những ngày này.

Bảo Giang.

13-5-2020.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Chuyện Đười Ươi xử án!

Chuyện Đười Ươi xử án!

Khi nói về một chế độ độc tài, Bertrant Russell viết : “Thằng ngu cũng được quyền cai trị.” Và hôm nay ở Việt Nam đã có một phiên sử dúng theo định nghĩa Bertand Russell đã nói. Ở đó, 17 tên, theo giấy tờ thì thuộc diện có học bậc nhất trong chế độ cộng sản. Họ ngồi ở một nơi được gọi là Tòa Án Tối Cao, sau hai ngày làm việc, họ đã vui thuận bỏ phiếu đồng bộ với 17/17 cánh tay đưa lên tuyên bố tử hình một nghi can tên Hồ duy Hải.   

Về diễn tiến, xin mời qúy độc gỉa trở lại câu chuyện dưới đây để có cái nhìn thấu đáo hơn về vụ án và 17 khuôn mặt và cánh tay đã đưa lên để yêu cầu giết người giống như chuyện Hồ chí Minh tổ chức đấu tố khi xưa. Nghĩa là, dù không muốn cũng phải giơ tay lên? Hoặc gỉa, tất cả đều đồng ý kết án theo chủ tàu Nguyễn hòa Bình?

  1. Diễn tiến của vụ án:

Vụ án mạng xảy ra vào tối ngày 13 tháng 1 năm 2008 tại bưu điện Cầu Voi, ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An. Trong đó, hai nữ nhân viên bưu điện tên Nguyễn Thị Ánh Hồng (sinh năm 1985) và Nguyễn Thị Thu Vân (sinh năm 1987) bị giết bằng cách cắt cổ.

Các can phạm bị nghi vấn buổi đầu: Nguyễn Mi sol, Nguyễn văn Nghị, Nguyễn tuấn Anh, Trần văn Chiến, Kỹ sư tên Trung và sau cùng là Hồ duy Hải.

Tất cả đã được phỏng vấn, chính báo công an vào thời điểm đó đã xác định Nghị là một cái tên có khả nghi lớn nhất. Kết qủa, sau giai đọan ban đầu, tên tuổi và Hồ sơ của Nghị đã hòan toàn biến mất, không để lại một hình bóng nào trong vụ việc. Theo tin bên lề, người ta đồn rằng nhờ thế lực của Trương tấn Sang và bà cô của Nghị tên là Trương Mỹ Hoa là phó chủ tịch nước nhiệm kỳ  2002-2007, nên Hải đã bị đưa vào vụ án như một con dê tế thần để Nghị là cháu bà quan nhớn của VC được tự do bay. Bay không chỉ ra khỏi vụ án, mà còn ra khỏi Việt Nam nữa. Chuyện thực hư thế nào, mời độc gỉa cùng tìm hiểu lý do Nghị bay xa và Hải mắc cạn. 

Bài viết này, tôi không đưa ra ý kiến cá nhân vì không hành nghề mặc dù bản thân đã trải qua 6 năm tại trường luật ở Sài Gòn và ở hải ngoại. Theo đó, bài viết này, sẽ có rất ít y kiến cá nhân, nhưng ghi chép và dẫn giải lại một số sự kiện đã được đưa ra để dẫn chứng về vụ án mà thôi.

 Có một điều tôi cầnn nói ngay eằng, bản thân tôi không bao giờ muốn dính đến  những chuyện “án quan” của  nhà nước Việt cộng. Bởi lẽ, tôi đã thuộc lòng những cảnh “cải cách ruộng đất” để giết người và cướp của của Hồ chí Minh và đồng bọn từ mùa đấu tố 1953-56. Tuy nhiên, ngày nay không có một tên đảng viên cộng sản nào từ cấp xã, phường trở lên mà tài sản của chúng không vượt qua số tài sản của bà Nguyễn thị Năm xưa kia. Hoặc gỉa, còn vượt xa, qúa xa đối vời những người nông dân mà chúng khoác cho họ bản án tử trước khi dẫn ra tòa với tội danh là “Trí phú địa Hào”. Tuy nhiên, không một kẻ nào bị chém. Lý do, theo luât của  Việt cộng, họ phải chết để chúng hưởng lộc.

Tôi viết thế bởi vì, nếu những bản án về phú nông địa hào ấy là đúng người đúng tội, là cốt lõi sinh hoạt của nhà nước Việt cộng thì những biệt thự như lâu đài, và ruộng đất cướp được của dân đang trong tay của những cán bộ đảng viên Việt cộng có phải đem ra đấu tố hay không? Nếu không, thì bạn đừng bao giờ nhắc đến chữ Công Lý dưới chế độ này. Lý do, nó tùy thuộc vào cây mã tấu trong tay của chúng.

  1. Những lưu ký về bản án.

Theo cáo trạng xác định và đến nay không một ai không nghe biết là: “Khoảng 20h30 ngày 13/1/2008, Hải dùng thớt đánh vào mặt, dùng dao và ghế giết các nạn nhân. Đây là những vật chứng quan trọng, mang dấu vết của tội phạm. Khám nghiệm hiện trường đã ghi nhận, chụp ảnh những vật chứng này, nhưng không được thu giữ. Cơ quan điều tra sau đó cho người mua những vật chứng này để bổ sung, đưa vào hồ sơ vụ án.” Tại sao lại như thế?

Điều ghi nhận đầu tiên khi nghe về chuyện này là ai cũng phải kinh ngạc về tài quản lý những án cụ của nhà nước Việt cộng. Bởi lẽ, trên cái thớt, cái ghế, con dao ấy có in rất rõ dấu vân tay của  kẻ thủ ác và máu của người bị hại, có thể có cả máu của kẻ thủ ác nữa. Theo đó, đây là những vật chứng rất quan trọng, không thể không lưu giữ và bảo quản nghiêm ngặt ngay từ đầu. Mất những chứng vật này, bản án sẽ mất đi 90% chứng cứ để tuyên án thành sự. Bởi, dưới nhiều áp lực, kể cả bị tra tấn, đe dọa, nhiều bị cáo vô tội vì qúa đau đớn và hoảng sợ trước những lời đe doạ của điều tra viên, nên họ nhận bừa cho qua ngày rồi muốn đến đâu thì đến như trường hợp án oan của những vụ điển hình sau:

  • 3 cụ ông ở Vĩnh Phúc mang án oan giết người gần 40 năm. Sáng 9/10, sau gần 40 năm mang án oan giết người, 3 cụ ông (1 người đã mất trong thời gian giam giữ) đã được cơ quan chức năng minh oan, xin lỗi và đính chính công khai trước toàn xã hội…
  • Chiều 25/4/2017, buổi xin lỗi của TAND Cấp cao tại Hà Nội với ông Hàn Đức Long, người bị kết án tử hình oan về tội giết người được tổ chức tại ở xã Phúc Sơn (huyện Tân Yên, Bắc Giang…
  • 28 năm mang tiếng giết chồng, giết cha. Ngày 24/10/2017, TAND tỉnh Điện Biên tổ chức buổi Công khai xin lỗi với bà Đặng Thị Nga (SN 1938, ở Tuần Giáo, Điện Biên) và 2 con trai gồm Trịnh Công Hiến (SN 1963, đã mất) và Trịnh Huy Dương (SN 1970) vì điều tra, truy tố, xét xử oan cho họ về hành vi giết chồng, giết cha…
  • Nguyễn Thanh Chấn ngồi tù 10 năm khiến gia đình tan nát.Tháng 8/2003, ông Nguyễn Thanh Chấn bị công an huyện Việt Yên, Bắc Giang cho rằng ông là thủ phạm giết cô hàng xóm Nguyễn Thị Hoan tại thôn Me, xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên…

Dĩ nhiên, đây… chưa là tất cả, chỉ là số ít người có cơ may sống sót và có may mắn đặt lại vấn đề, ngoài ra là…. chấm hết.

III . Những thắc mắc quan trọng bước vào phiên tòa:

  1. Sự biến mất không để lại dấu vết của nghi can, bị quy kết buổi đầu là Nguyễn văn Nghị?
  • Tư cách cá nhân của Nguyễn hòa Bình.

Theo nguyên tắc chung của Luật pháp. Nguyễn hòa Bình không được tham dự phiên tòa này. Bởi lẽ, không chỉ luật pháp mới biết, mới cấm, nhưng ngay chuyện những đứa trẻ năm bảy tuổi trong làng quê vui chơi với nhau cũng biết nguyên tắc. Những đứa trẻ đã làm chủ cuộc chơi thứ nhất, chúng không được làm chủ cuộc chơi kế tiếp. Luật này chả cần phải viết thành luật và ai ai cũng biết rõ như thế. Theo đó, không cần phải có văn bản quy định là nếu bản án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm,.. mà bị bản án có hiệu lực cao hơn tuyên huỷ, thì Hội đồng xét xử (những người ngồi xử án) đưa ra bản án đã bị tuyên bố huỷ, không được tham gia Hội đồng xét xử lại vụ án đó. Chuyện là thế. Tuy nhiên thực tế ở đây đã có văn bản quy định rõ chuyện này.

Theo đó, việc Nguyễn Hoà Bình khi đương nhiệm là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã khẳng định và có văn bản không chấp nhận kháng nghị đối với vụ án Hồ Duy Hải. Nay cùng một vụ việc xét sử lại, Nguyễn Hoà Bình, dù với tư cách thẩm phán, thành viên Hội đồng thẩm phán, Chánh án TANDTC cũng không thể được tham dự phiên tòa, nói chi đến việc Y ngồi làm Chủ toạ, hoặc là thẩm phán phiên toà Giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải do có kháng nghị của Viện trưởng VKSND tối cao. Theo đó, việc Y lại có mặt trong ghế chủ tọa cho phiên xét sử lại này là vi phạm nghiêm trọng pháp luật.  Đây là một điều ràng buộc của luật phát nghiêm chính. Nhưng không biết nó có ràng buộc về phía tòa án Việt cộng hay không?

  1. Những tình tiết, sự kiện được ghi lại từ lúc khởi đầu vụ án này là: ( trích, ghi lại theo báo chí)
  1. Vụ 2 nhân viên bưu điện bị giết: Nghi can là bạn trai của nạn nhân?

Theo báo Pháp luật gủi đi bản tin 113  lúc 15:05 ngày  16/01/2008  đăng trên tờ Công An nhân dân thì Nghi can chính là Nguyễn Văn Nghị, ngụ tại huyện Cai Lậy (Tiền Giang), có dấu hiệu nghiện ma túy. Nghị là một trong hai bạn trai của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng. Vào đêm xảy ra vụ án, người dân địa phương thấy Nghị đi xe máy đến Bưu điện Cầu Voi gặp Hồng và Vân.

>> 2 nữ nhân viên Bưu điện văn hóa xã bị giết chết

  • Khám nghiệm hiện trường.

Ngày 15/1, cơ quan điều tra Công an tỉnh Long An tiến hành lấy lời khai ba thanh niên quê ở tỉnh Vĩnh Long, tạm trú tại ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa (Long An) do có mối quan hệ với hai nạn nhân bị giết tại Bưu điện thị tứ Cầu Voi hôm 13/1. Sau đó, cơ quan điều tra tiếp tục câu lưu một thanh niên được xác định là nghi can chính trong vụ án.

  • Nghi can chính là đối tượng nghiện ma túy.

Hiện trường: Cả hai nạn nhân chết khi trên người vẫn còn đang mặc quần áo đồng phục của ngành bưu điện. Theo nhận định ban đầu, hung thủ chuẩn bị gây án từ trước, do đó ngay khi đến Bưu điện Cầu Voi y đưa tiền cho Vân ra ngoài mua trái cây để có thời gian giết chết Hồng.

Sau khi sát hại Hồng, hung thủ còn đủ thời gian dọn dẹp hiện trường, kéo xác nạn nhân giấu ở chân cầu thang rồi nép mình trong một chỗ khuất chờ Vân quay về giết chết cô để bịt đầu mối.

Sau khi thực hiện tội ác, hung thủ đến quầy thu tiền lấy đi 10 triệu đồng và 10 sim card điện thoại di động có mệnh giá sử dụng từ 100.000 đến 300.000 đồng rồi trốn thoát ra cửa trước……

Ba thanh niên không bị câu lưu là Nguyễn Văn S.; Nguyễn Tuấn A., Trần Văn Ch., thợ bạc tiệm vàng K.L. khu vực thị tứ Cầu Voi, thuộc ấp 5, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa (Long An).

Chuyên khởi đầu có căn bản là thế. Tuy nhiên, khi nhắc  đến Nguyễn văn Nghị là đụng chạm đến phó chủ tịch nhà nước Việt cộng đang tại vị ở Hà Nội là Trương Mỹ Hoa, nên gío phải đổi chiều? Từ đây, hồ sơ về Nguyễn văn Nghị bị rút hoàn toàn ra khỏi khung án. Và được thay thế bằng một  diễn biến mới:

  • Hí trường xã nghĩa.

DIỄN BIẾN VỤ ÁN “QUYẾT XỬ OAN” HỒ DUY HẢI (trích).Vụ án xảy ra khoảng 19h30 ngày 13/01/2008 tại Bưu điện Cầu Voi, Long An.

  1.  Báo Công An Nhan Dan ngày: link http://m.cand.com.vn/…/Vu-2-nhan-vien-buu-dien-bi…/…15:05 16/01/2008

2. Vụ 2 nhân viên bưu điện bị giết: Nghi can là bạn trai của nạn nhân

  • Nghi can chính là Nguyễn Văn Nghị,

 Nguyễn văn Nghị ngụ tại huyện Cai Lậy (Tiền Giang), có dấu hiệu nghiện ma túy. Nghị là một trong hai bạn trai của nạn nhân Nguyễn Thị Ánh Hồng. Vào đêm xảy ra vụ án, người dân địa phương thấy Nghị đi xe máy đến Bưu điện Cầu Voi gặp Hồng và Vân. Nguyễn Văn Nghị.

  • Lý lich Nguyễn Văn Nghị,

Nguyễn văn Nghi sinh năm 1979[19] hay 1978,[18] cư trú tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.[19] Theo một số nguồn tin thì Nguyễn Văn Nghị là cháu của cựu phó chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa[23][2Theo báo Công an nhân dân đăng ngày 16 tháng 1 năm 2008 thì Nguyễn Văn Nghị là nghi can chính của vụ án và động cơ gây án là do ghen tuông.[26] Sau khi vụ án xảy ra khoảng một năm, Nguyễn Văn Nghị đã rời khỏi nơi tạm trú ở xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.[14]Sau tổng hợp những lời khai không có tình tiết gì mới, hồ sơ của Nguyễn Văn Nghị được rút đưa vào hồ sơ AK của Bộ Công an, đây là tài liệu mật.[21]. Từ đây, câu chuyện đổi chiều sang Hồ  duy Hải. ( hết trích).

  •  Nghi can không được nhắc đến từ đầu là Hồ duy Hải xuất hiện.

Hồ Duy Hải, sinh ngày 6 tháng 7 năm 1985,[28] con trai của bà Nguyễn Thị Loan. Bà Nguyễn Thị Loan sinh năm 1963, trú tại ấp 1, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.[29] Bà Loan có 5 chị em gái và một người anh trai,[30] trong đó có chị ruột Nguyễn Thị Rưởi (sinh năm 1957) và em ruột Nguyễn Thị Len (sinh năm 1967, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo viên Trường mẫu giáo Nhị Thành, huyện Thủ Thừa, Long An).[31][32][33] Bà Nguyễn Thị Loan đi lao động ở Đài Loan từ năm 2004 đến năm 2007, lương mỗi tháng 15 triệu đồng, bà gửi về cho con 10 triệu đồng.[34][35].

  • Hải Không nhận tội, kêu oan

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm năm 2008 và phiên tòa xét xử phúc thẩm năm 2009, Hồ Duy Hải đều kêu oan.[9]

Trong bản án sơ thẩm có ghi ở trang 5 như sau: “Tại tòa có lúc (Hải) cho rằng không phạm tội, sở dĩ khai nhận bởi vì thời gian bất minh không chứng minh được. Mô tả việc phạm tội là do Nguyễn Văn Hải là Công an viên của xã Nhị Thành kể lại cái chết của Ánh Hồng và Thu Vân”.[16]. Đây không phải là lời cung khai của HDH nhưng thuật lại theo lời Hải? (Hải đã chết)

Viện kiểm sát nhân dân tối cao xác định trong bản khai đầu tiên vào ngày 20 tháng 3 năm 2008, Hồ Duy Hải không nhận tội.[30].

  • Dấu vân tay trình tòa: Chuyện cười của xã hội Việt cộng.

Khi được hỏi về các dấu vân tay ghi nhận trong cuộc điều tra:  Điều tra viên Việt cộng lơ láo, không một chút hiểu biết, đứng lên trả lời:

“Sau khi giết người, Hồ Duy Hải đi rửa tay nên không để lại dấu vân tay”! Đó là trả lời của điều tra viên hiện trường vụ án bưu điện Cầu Voi tại phiên giám đốc thẩm. Một câu trả lời khiến đứa con nít cũng bật cười.

Tưởng cũng cần nhắc lại trong hồ sơ cũng ghi rõ: “Có NHIỀU dấu vân tay tại hiện trường và không một dấu vân tay nào trùng khớp với 10 dấu vân tay trên 10 ngón tay của Hồ Duy Hải.…” Chỉ cần biết  đọc biết viết, đứa trẻ ở miền nam cũng hiểu được ý nghĩa căn bản của vấn đề này là gì. Tuy nhiên, 17 quan tòa của Việt cộng thì không có một chút hiểu biết gì về chuyện sơ đẳng này! Chúng mặt lơ mày láo nhìn nhau.

  • Vật chứng.
  • Hung khí gây án được điều tra viên và tòa án mua sau này để làm vật chứng ( thời gian không thấy nhắc đến nghĩa của “sau này” là khoảng bao nhiêu ngày, tháng hay năm).
  • Thớt tròn bằng gỗ[53] mua sau này ( thời gian mua bao lâu sau không nghe nhắc đến)
  • Dao Thái Lan mua sau này. (cũng không ghi thời gian mua)
  • Ghế inox? chẳng còn ai nhắc đến dấu vân tay trên cái ghế, được coi là hung khí khi gây ra án mạng. Xin nhớ hung thủ đã dùng cái ghế này để  đánh đập các nạn nhân.

     VIII . Nguyên tắc cơ bản của tòa án.

  1. Nỗi oan khuất của 2 cô gái chết trẻ phải được làm rõ để linh hồn họ được siêu thoát và để thân nhân của họ tin tưởng vào sự nghiêm minh của pháp luật.
  • Kẻ thủ ác phải bị trừng trị đích đáng.

Đó là mong muốn chung của tất cả mọi người có lương tri, lương năng và được giáo dục. Đó là bỗn phận của tòa án, từ sơ thẩm đến thượng thẩm hoặc tòa phá án phải lưu ký. Đây là nguyên tắc bất đi bất dịch ở mọi nơi có công lý. Sau cùng, để hoàn chỉnh việc công minh trong lý lẽ và lề luật của xã hội, việc thực hiện một cuộc giám sát tối cao của Quốc hội đối với hoạt động xét xử trong vụ án nào đó cũng rất cần thiết. Luật cũng thường ràng buộc họ, vì công việc của họ là bảo vệ luật pháp và con người chứ không phải bảo vệ riêng cho bất cứ một cá nhân nào. Do đó, họ phải nhập cuộc khi có lời kêu nài của án oan, nếu họ còn muốn nói đến chữ luật pháp và công lý.

  1. Đi vào kết luận.

Tôi còn nhớ, một triết gia ở phương tây từng nói: “nếu luật pháp hành xử không công bằng thì nhà nước chỉ là một đám cướp”. Chuyện là thế, hơn thế, từng mỗi đứa trẻ ở miền nam nghe qua, chúng cũng biết rõ việc cần phải làm vào lúc này là: Nhà nước VC phải hủy án đã tuyên vì việc vi phạm luật tố tụng của cả 3 cơ quan CA, KS, TA. Theo đó, phải điều tra lại vụ án trước khi có  quyết định sau cùng.

Lời yêu cầu chính đáng là thế, dù chẳng biết cái kết của của cuộc điều tra sau này sẽ ra sao, tiến trình vẫn phải thực hiện. Tuy nhiên, việc này là hơi… khó. Bởi lẽ, tòa án này là của Việt cộng, nó thiếu hẵn nhân tính của người lương thiện, ấy là chưa nói đến cái sự hiểu biết qúa tồi của chúng hay với những liên hệ quanh vụ án…

Nhân đây tôi cũng xin được ghi lại một số Ý kiến của độc gỉa sau khi đã nghe những trình bày của Luật sư về vụ án vừa diễn ra trong ngày 9/5/2020 trên Net như sau:

– Một điều đơn giản: chúng tôi khắc cốt ghi xương mối thù này.Tên tuổi của mười bẩy người này nhân dân VN không quên.

– Nếu cho điều tra lại sẽ là 17 con người, còn tự dơ tay biểu quyết để che lấp tội lỗi là 17 con chó!

– Tất cả những kẻ thủ ác, và những ai tòng phạm, có thể thoát luật đời nhưng chắc chắn rằng: không bao giờ thoát đươc luật NHÂN QUẢ. Báo ứng chỉ là sớm muộn mà thôi.  Nam Mo A Di Da Phat !!!

– Mong Trời, Phật thương người oan sai và đánh chết  17 thằng nhẫn tâm giết hại người oan sai.

– Xin chia buồn cho bác… hôm nay bọn nó giết Hồ duy Hải… vài tháng tới dịch bệnh bùng phát cov-2 sẽ giết lại hết dòng họ bọn chúng thôi…

– Tên côn đồ lưu manh Nguyễn hoà bình không thể đại diện cho pháp luật được? bác Trọng phải loại bỏ ngay, đừng để ảnh hưởng đến uy tín của Đảng?

– Vụ án chết quá nhiều người, phải điều tra lại, cứ căn cứ theo giấy tờ pháp lý mà làm, lúc lấy lời khai có bị ép cung không phải rõ ràng. Điều tra lại tên Nghị và misol về thời gian. Quá uẩn khúc khi người bị kết án kêu oan mà vẫn dựa trên giấy tờ để giải quyết thật là lố bịch. –

– Vietnamese court :  17 animals swing on the balance of justice in Vietnam. H,Vu.

Dưới đây là danh sách 17/17 kẻ ngồi trong ghế quan toà TC mà những phản ứng trên vừa nhắc đến:

Nguyễn hòa Bình, sinh 1958 tại Quảng Ngãi, chủ tọa.

Nguyễn văn Tiến, sinh1966, Hưng Yên, phụ thẩm.

Lê văn Minh, sinh 1964, Thanh Hóa, phụ thẩm.

Lương ngọc Trâm, sinh 1966, Hà Nội, phụ thẩm.

Nguyễn thị hoàng Anh, sinh 1960, Quảng trị, phụ thẩm.

Bùi ngọc Hòa, sinh 1955, Nam Định, phụ thảm.

Nguyễn văn Du, sinh 1963, Bắc Ninh, phụ thẩm.

Nguyễn thúy Hiền, sinh 1960 Thái Bình, phụ thẩm.

Lê hồng Quang, sinh 1968, Kiên Giang, phụ thẩm.

Nguyễn trí Tuệ, sinh 1963, Bắc Ninh, phụ thẩm.

Dương văn Thăng, sinh1969, Hà Nội, phụ thẩm.

Nguyễn văn Thuân, sinh 1958, Thái Bình, phụ thẩm.

Tống anh Hào, sinh 1956, Đồng Tháp, phụ thẩm.

Đào thị xuân Lan sinh 1961, Hải Dương, phụ thẩm.

Đặng xuân Đào, sinh 1955, Nghệ An, phụ thẩm

Chu xuân Minh, sinh 1956, Hà Nam. phụ thẩm.

Trần văn Cò, sinh 1958, Trà Vinh , phụ thẩm.

Ai cũng biết: Dao, thớt do nhà nước mua ngoài chợ. Vân tay không phải. Vết máu không xác định, cái ghế không còn… như thế không đủ chứng cớ, cho dù HDH có thể đã phạm tội, nhưng cũng không đủ lý lẽ để buộc tội. Nói chi đến bản án tử hình. Tuy nhiên, nếu là chuyện của Việt cộng thì cũng khó nói lắm. Bởi lẽ, 170000, người Việt Nam đã mất mạng, mất đất, tan nhà, nát nghiệp mà Hồ chí Minh vẫn được chúng tôn vinh là “ cha gìa dân Vọc” có sao đâu! Xã hội dép râu của Việt cộng là như thế đó.

Bảo Giang

10-5-2020

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Thư gủi các bạn trẻ Việt Nam

Thư gủi các bạn trẻ Việt Nam

LNV. Tôi viết bài này nhân đọc một bài của bạn trẻ tên Quân Nguyên do jimmy n Reed giới thiệu trên Net. đề ngày 29-4-2020. Bảo Giang

Các bạn trẻ Việt Nam qúy mến.

Tôi vừa đọc một bài viết cởi mở, trọn ý nghĩa, của một bạn trẻ Việt Nam với tựa đề. Ðâu Là Sự Thật? trong đó có đoạn: “Tại sao hồi còn chiến tranh Việt Nam (trước 30/4/1975), mỗi khi có giao tranh giữa quân đội miền Nam (VNCH) và bộ đội “giải phóng” thì dân chúng đều chạy về phía có lính miền Nam trú đóng, chứ không chạy về phía bộ đội “giải phóng”? Nếu dân miền Nam bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp”, cần phải được “giải phóng”, thì lẽ ra họ phải hồ hởi mà chạy về phía các “đồng chí bộ đội”, tay bắt mặt mừng và cám ơn “được giải phóng”, chứ sao lại bồng bế nhau mà chạy trối chết để xa lánh các “đồng chí” ấy? Ðua nhau chạy vế phía có lính miền Nam để tiếp tục bị “kìm kẹp”, không lẽ họ ngu đần đến nỗi chỉ thích bị “Mỹ, Ngụy kìm kẹp” chứ không muốn được “giải phóng” à?

Bạn thân mến.

Bây giờ là 11 giờ đêm ngày 30-4-2020,  ngày mà cách đây 45 năm về trước, Việt cộng với xe tang đại pháo của Nga – Tàu, trước đã mở ra chiến trường tại miền nam Việt Nam, rồi hôm nay, cái xe mang nhãn hiệu Liên Sô ấy đã ủi xập cánh cổng của dinh Độc Lập tại Sài Gòn vào lúc 10 giờ 15 ngày 30-4-1975.  Đây là giờ mà người ta ghi  vào sử liệu là chấm dứt cuộc chiến tranh Nam – Bắc (1954 -1975)

Lúc ấy, thời gian và không gian như ngừng hẳn lại, Ngừng lại không phải để chào đón một cái gì mới mẻ, nhưng là chờ đợi một biển máu hay chờ… một cuộc trả thù đầy man rợ, đầy thú tính như nó đã từng diễn ra ở Huế vào tết Mậu Thân 1968. Kết qủa, chuyện súng nổ trực diện vào thân người không xảy ra ở Sài Gòn, nhưng sợi dây lòi tói từ đây đã bung ra trên toàn cõi của miền nam Việt Nam. Khi bung ra, nó không hề bỏ xót bất cứ một cá nhân nào, một nhà nào, một làng xóm hay một khu phố và thành phố nào tại miền nam Việt Nam lúc nó gom lại.

Quả thật vào lúc ấy, không một ai hay biết chuyện gì sẽ đến. Nhưng hiện trường chỉ có những đôi mắt, một bên thì bàng hoàng run sợ, một bên khác thì gườm gườm bước đi trong lúc đôi tay ôm chặt lấy cây súng với đạn đã lên nòng. Chuyện xe lạnh chỉ có thế, đôi bên hầu như không nhìn vào nhau, không có lấy vài nụ cười. Tôi đứng trên bao lơn của một căn nhà gần ngã tư Hàng Xanh cũng không có ngoại lệ.

Bạn ạ, vào lúc ấy, đường phố này diễn ra những hình ảnh trái chiều nhau. Người chiến thắng không vênh vang hò hét, nhưng bước đi trong dáng cúi mặt. Trong khi đó, kẻ thua cuộc lặng lẽ nuốt lấy những hờn tủi theo bước chân nặng. Và như thế, cuộc chiến tranh gọi là Quốc – Cộng kéo dài trong suốt hai mươi năm được coi là chấm dứt từ giây phút ấy. Mà ngược đời làm sao chứ. Cái thắng lại trao cho bên Cộng để người Quốc Gia vương thêm dòng lệ thảm, và cho người dân đất bắc chết thêm nửa cuộc đời còn lại. Sao lạ vậy?

  1. Theo bước chân của người thắng cuộc.

Bạn biết không, khi nghe bản tin là binh đoàn của ta đã vào đến dinh Độc Lập của Ngụy và 2 tên TT và TT nguỵ là Dương văn Minh và Vũ văn Mẫu ra đầu hàng, mọi người đều ngỡ ngàng, chẳng dám tin. Chỉ sau khi nghe lại đôi ba lần nữa, phía ta, từ cấp lãnh đạo đến thứ dân mới tin  là thật. Họ mừng rỡ. Họ bỏ nồi, quăng niêu, bỏ xoong, bỏ chảo trên bếp, chạy ào ra trước cửa nhà, ùa ra đường vẫy tay chào, và reo mừng chiến thắng theo cái loa cuốn tròn trước mồm các cán bộ thông tin đang hò hét dọc làng, cuối phố. Cùng với những reo vui hò hét ấy, nhiều người cũng chạy ùa ra, họ rơi dòng lệ thảm, miệng gào, lòng đau như cắt vì niềm hy vọng có ngày được Tự Do như trong nam đã chấm hết.

Rõ ràng, cả hai thái cực cùng lúc đã dày xéo người dân đất bắc. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, niềm vui chấm dứt chiến tranh là rất lớn cho cả hai. Bởi vì, chiến tranh kết thuc, có nghĩa là con cháu của họ, có ngưòi đã vào cuộc chiến này từ 10 đến 20 năm trước. Hoặc gỉa là 5, 7 năm gần đây, hay mới vài ba năm sau này, nhưng đến nay vẫn chưa một bản tin về nhà. Theo đó, bản tin thắng trận phải là một bản tin lớn sẽ báo cho họ tin tức về người con yêu ra đi năm nào.

Họ vui mừng là phải, vì từ nay không còn phải nghe đến chuyện đào hầm tránh bom đạn nữa. Hơn thế, niềm vui sẽ lớn lên khi không còn phải nghe đi, nhai lại những khẩu hiệu sáo rỗng khắc phục, đạt chỉ tiêu từ nhà nước. Hoặc gỉa, không còn phải buộc bụng, không còn phải nghe những hò hét đến long trời lở đất theo câu chuyện hột gạo cắn làm tư. Một phần ta để lại ăn, một phần chi viện cho hai nước anh em Lào, Cămpuchia và hai phần chi viện cho đoàn quân kháng chiến và đồng bào ruột thịt nghèo đói ở trong nam…

Những chuyện ấy, suốt hai mươi năm qua, họ đã cắn răng để nghe với không một cảm súc. Tuy nhiên, hôm nay là khác biệt, dù đón ngưòi về bằng nước mắt reo vui hay là dòng lệ thảm thì bản tin chiến thắng ở miền nam cũng đủ làm cho toàn miền bắc thay đổi, hồi sinh. Thay đổi vì không phải nhận thêm bom đạn. Hồi sinh vì có hòa bình để họ đưọc ngày đầy hai chén cơm với manh áo mới.

  1. Bản trường ca đứt ruột!

Trong khi đó tại miền nam và trực tiếp từ Sài Gòn này, vào những giờ phút ấy, xem ra họ chẳng còn giờ để nhìn nhau, chuyện trò. Thay vào đó là những hình bóng lặng lẽ đứng sau khung cửa ghé mắt ra đường. Họ dòm chừng những bóng người đi qua và như chờ đợi từng loạt đạn qua khe cửa nhà mình. Ít người đủ can đãm bước hẳn ra đường để nhìn bộ dạng của những người mới tới xem nó như thế nào. Có thể nói, tất cả đều hoang mang lo lắng rồi bàng hoàng đến há hốc cả miệng ra mà nhìn đoàn quân anh hùng như ốm đói, gói ghém thân hình gầy gò trong bộ quần áo màu cứt ngựa mới, rộng thùng thình, và còn nguyên nếp gấp đang theo nhau vào thành phố của họ.

Đến khi nhìn lại một lần nữa, người đứng nhìn thật sự run rẩy vì họ chỉ thấy những khuôn mặt đang bước vào lòng phố của họ kia lặng lẽ như bóng ma, không nói không cười. Trên đó có đủ một đôi mắt trắng, mở thao láo. Kế đến là cái u gò má cao qúa khổ để che cho thân má hóp. Tuy thế, nó không phủ lấp được cái hàm răng bừa lởm chởm với đôi môi thâm xì đưa ra qúa khổ. Đã thế, hầu như không tìm ra được niềm vui lên ánh mắt, trên khuôn mặt của những con người lần đầu tiên được bước vào thành phố của địch trong vai người chiến thắng. Tại sao nhỉ?

Trước cảnh ngộ này, nhiều người  miền nam quên lặng lẽ, thay vào đó là những tiếng gọi người quen, hỏi kẻ không biết mặt, nhìn sang hàng xóm hoặc nói với ngưòi trên đường bằng một câu hỏi nghẹn lòng:

–      Nhìn kia, hình dạng của người… chiến thắng sao lại tang thương, buồn nản đến như thế?

Ai sẽ trả lời được câu hỏi này! Bất chợt một tiếng nổ kinh hoàng xé tan, hay làm hoảng hốt thêm cho phía người thua cuộc có mặt trong khu vực. Theo tiếng nổ, chiếc xe tăng M48 của miền nam, không còn người điều khiển đứng phía đầu cầu Thị Nghè ngang khu sở thú nhận đạn trực diện. Khói lửa ngụt ngụt bốc lên cao, thấy vậy, ngưòi  dân trong vùng thêm một lần hoảng hốt, réo gọi nhau chạy trốn.

Rồi bất ngờ là sau tiếng pháo kinh hoàng và tiếng người gọi nhau ơi ới ấy. Chẳng ai chờ ai, chẳng ai bảo ai, nhiều nhà mở toang cánh cửa ra. Họ vội kéo lấy cái áo, cái quần. chạy ào ra đường. Họ trao tay hay quấn lên thân mình của những kẻ chiến bại không súng đạn, không quần áo màu hoa rừng… không cả giày dép, đang thất thểu lê gót vào thành phố thân yêu xưa. Nhưng nay, ngày xa lạ.

  • Vào đây, vào đây đi, má kiếm quần áo cho con thay… ăn uống  nghỉ ngơi cho khỏe rồi hãy về…
  • Anh ở đâu, nhà có  xa lắm không? Vào trong nhà em … mai mốt yên rồi hãy đi…

Nghe thế đôi mắt người chiến binh thất trận thêm ước đẫm.

  1. Chuyện đổi đời.

Bạn ạ, hình ảnh của đôi ba ngày đầu trong ngỡ ngàng, trong lo lắng dần qua, thành phố hôm nay như được mặc manh áo mới. Đây là những hình ảnh mà bất cứ ai có mặt ở thành phố vào trong những ngày ấy, suốt đời họ không thể quên được. Bởi lẽ, hình ảnh của chàng bộ đội dắt heo, tải rau muống trên chiếc xe đạp thồ vào thành phố hôm nào, nay đã bỏ lại sau lưng.

Thay vào đó là cảnh anh cán bộ với  quần ống thấp ống cao, rồi lăn tay áo lên để chạy vòng quanh các khu chợ trời mới mọc lên ở hầu như mọi góc phố, mọi con đường ở thành phố. Họ đua nhau đi tìm… thiên đường giữa Sài Gòn để kiếm… điện, đài, đá, đổng, đạp… Mới đầu, người miền nam nghe mà chẳng hiểu họ muốn nói gì về cái đạp, cái đổng có hai cửa sổ. Nhưng lạ rồi cũng nên quen. Tiếng mua bán, lời mời chào inh ỏi như để quên những lo âu.  Cùng với những hình ảnh ấy, chẳng bao lâu sau, những sách lược lớn của nhà nước Việt cộng đã mở ra tại miền nam:

  1. Vào vơ vét về.

Chẳng bao lâu sau ngày anh cán bộ, người chiến binh săn quần lên chạy dọc các chợ trời ở miền nam để kiếm các mặt hàng đá, đổng, đạp, đến cảnh từng đoàn xe môlôtôva hôm nào lặng lẽ đưa ngườì từ bắc vào nam, nay tràn khí thế với trăm, ngàn món hàng trên lưng, nối đuôi nhau, kéo còi inh ỏi trên đường về quê bắc ơi! Nào ai đó ra đây nhận hàng.  

Dĩ nhiên, trên chuyến xe về quê bắc ấy không thiếu bất cứ một thứ gì. Từ gạo trắng, gạo nếp thơm đến những mặt hàng trưởng gỉa như bàn ghế xa long, tủ lạnh, tủ thờ, tủ quần áo, giường gỗ cẩm, đến chiếu hoa, nệm gấm. Thậm chí có cả những cánh của sổ, cánh cửa ra vào, bàn ghế hay những tấm tôn được hàng ngũ cán bộ ta hỉ hả tháo gỡ ở trường học, trụ sở, hay nhà người dân đã bỏ đi trong những ngày qua, nay họ hân hoan chuyển về quê nhà làm vốn sau chiến chinh. Dĩ nhiên, những chuyến hàng này có cả mặt hàng của những con buôn đưa về bắc với gía cả ngất trời. Lý do, dân ta bên ấy chưa một lần nhìn thấy những món hàng ấy ở trên đời. Cái gì nom cũng lạ, cũng đẹp, cũng nhất.

Sau những chuyến xe ấy, miền bắc đổi đời, ngưòi người mở to đôi mắt ra để nhìn các lãnh đạo Việt cộng lúc trưóc tuyên truyền là miền nam đói khổ, dân ta phải nhịn ăn viện trợ cho miền nam. Nhưng nay, xe chở hàng về cho cán suốt ngày đêm, trên ấy không còn  thiếu một thứ gì. Nhiều đến nỗi, họ chuyền tai nhau, truyền đến từng ngõ ngách trong làng quê, đường phố là trong ấy chẳng thiếu một thứ gì trên đời. Ti vi, tủ lạnh, cà rem… chạy đầy đường.

Nhắc đến  gạo, nếp, có lẽ không một ai quên được câu chuyện người ta truyền tai nhau từ đường phố lên tới tận đèo cao rừng gìa là: Một sáng khi ra chợ sau ngày gọi là “giải phóng miền nam”, bạn chợ, bạn hàng cùng ngưòi đi chợ ở ngoài bắc nhìn nhau, nhìn đến nổ đom đóm mắt khi thấy những thúng gạo, thúng nếp trắng tinh đang bày bán giữa chợ. Thấy lạ, không một ngưòi nào không ghé qua đôi mắt. Hơn thế, muốn biết sự tình ra sao?

  • Ở đâu ra mà bà có gạo trắng để bán thế này?
  • Từ nam tải ra đấy.
  • Thật thế à?
  • Thật với gỉa gì, qúy hóa gì? Ba cái thứ này ở trong nam họ đổ cho lợn ăn còn không hết. 

Nghe thế, bà mẹ mang danh hiệu mẹ chiến sỹ anh hùng nóng mắt, đứng tung váy lên nhập cuộc sau khi hỏi lại cho rõ câu chuyện:

– Tổ cha nhà chúng nó chứ. Chuyện thật như thế mà chúng nó dám lừa bà mấy chục năm nay rằng trong ấy đói khổ, hạt gạo ta phải cắn làm bốn mà viện trợ cho nam.  Chủi xong, bà gọi giời: Hỡi Giời ơi là giời! Giời về đây mà xem,  cả nước tôi đã bị chúng nó lừa.

– Lạy bà, khẽ chứ kẻo họa lại vào thân!

– Còn khoan với khẽ gì nửa. Tôi là mẹ chiến sỹ anh h ùng, tôi không tung váy lên chủi chúng nó, chủi những thằng lãnh đạo ở đây thì chủi ai? Chửi chị à?

– Con lạy bà nói nhỏ thôi. Tiếng bà gìa càng vang xa:

– Đây, tôi đây, người mẹ chiến sỹ kiên cường đây. Chúng không thích nghe chủi thì cứ đem tôi ra mà đấu tố…

B. Đổi tiền, độc kế hốt bạc.

Ít lâu sau, khi những chuyến hàng vừa giảm, cán cộng lại mở trò chơi mới. Tuy nhiên, không một trò chơi nào của chúng mà không đem đến sự khốn cùng cho người dân trên cả hai miền. Trò chơi trong chiến tranh bắt đầu từ câu tuyên bố  lẫy lừng của Lê Duẩn: “ ta đánh miền nam là đánh cho Liên Sô đánh cho Trung Quốc”. Nay đến chuyện trong hòa bình, Y cao giọng: “Tiền, sao lại sợ thiếu tiền? Thiếu thì in ra. Nước ta là nước xã hội chủ nghĩa làm sao lại có thể bị lạm phạt như bọn tư bản được. In, in ra…”.

Kết qủa xã hội chủ nghĩa do Y lãnh đạo trước sau kinh qua ba cuộc đổi tiền.

  1. Lần thứ nhất:

Lúc 2 giờ ngày 22.09.1975, đài VC loan tin về quy định đổi tiền. Tệ hơn, nó chỉ bắt đầu vào lúc 11 cho đến 23 giờ cùng ngày. Theo đó, nó chỉ có vỏn vẹn 12 giờ để hoàn thành việc thu và đổi tiền. Việc đổi tính theo thể thức và hối xuất như sau:

500 đồng Việt Nam Cộng Hòa = 1 đồng Cộng hòa Miền Nam (giải phóng). Tương đương $0,75 UD Dollas.- Mỗi gia đình chỉ được đổi 100.000 đồng cũ ra thành 200 đồng mới để tiêu dùng. Phần còn lại, gủi nhà nước giữ … dùm!

  • Đổi tiền ngày 03/5/1978

Sau khi tự gõ trống gọi là thống nhất đất nước vào năm 1976, Việt cộng quyết định cho xã hội chủ nghĩa tiến lên. Kỳ đổi tiền 1978 được quyết định bởi sắc lệnh số 88 CP ngày 25.04.1978 và khai triển ngày 03.05.1978. Lần này tiền được quy định như sau: Ở miền Bắc, một đồng mới trị giá bằng một đồng cũ, (loại tiền được phát hành từ năm 1958). Riêng ở trong Nam, 1 đồng tiền phát hành năm 1975 đổi đươc  $0.80 tiền mới.

Dân sống ở thành phố và phụ cận được đổi tối đa 100 đồng cho mỗi hộ 1 người; 200 đồng cho mỗi hộ 2 người. Hộ trên 2 người thì từ người thứ 3 trở đi được đổi 50 đồng/người. Mức tối đa cho một hộ ở thành phố bất kể số người là 500 đồng…. Tối đa cho mỗi hộ ở vùng quê, bất kể số người, là 300 đồng. Số tiền có trên mức tối đa phải khai nộp và ký thác vào ngân hàng. Khi cần dùng có lý do chính đáng thì có thể làm đơn xin rút.

  • Đổi tiền lần thứ ba ngày 14.9.1985

Ngày 12-9-1985, báo Tuổi Trẻ vênh váo trên trang nhất: ‘Bẻ gãy thủ đoạn tung tin đổi tiền của gian thương’. Chuyện chưa khỏi 24 giờ, sáng 14.09.1985, hệ thống loa đường phố loan tin đổi tiền. Chính Phan Văn Khải, sau đó biện giải là: “Đổi tiền là vì lợi ích của nhân dân lao động”.  Và tỷ gía tiền được quy định như sau:

 –  1 đồng mới ăn 10 đồng cũ.

 –   Mỗi gia đình chỉ được đổi 20.000 đồng cũ lấy 2.000 đồng mới

–         Hộ độc thân chỉ được đổi 15.000 đồng cũ lấy 1.500 đồng mới

–         Hộ kinh doanh công thương nghiệp thì được đổi 50.000 đồng cũ lấy 5.000 đồng mới.

Nếu có tiền nhiều hơn mức ấn định thì người đổi vẫn phải nộp số tiền thặng dư và chỉ được nhận lại giấy biên nhận. Khoản tiền quá lượng nhà nước sẽ giữ lại  và sẽ được xét khi có đơn xin… Và nay, tin về cuộc cướp lần thừ bốn đang thập thò. Hỏi xem, khi nào đây? Nếu không có, hẳn nhiên là bà con ta đang chờ ngày vất tiền Hồ vào thùng rác chăng?

Như thế từ sau 30-4-1974, đồng tiền tại Việt Nam trải qua những thăng trầm sau: Vào khoảng tháng 10/ 1975 một đồng “giải phong” bằng $0.75 US Dollars. Và nay khoảng 24.000 tiền Hồ bằng 1US Dollars.

  1. Phản ứng của người miền nam sau 30-4-1975?

Bạn ạ, không có điều kiện cho kẻ chiến bại đâu. Nó như một quy luật của chiến tranh, nên ngay khi thấy con em mình thất trận trở về, người miền nam đã chờ một cuộc đổi đời từ sống biến thành chết. Họ chờ vì đã biết rất rõ mức độ bạo tạn của Việt cộng trong mùa đấu tố đồng bào miền bắc từ 1953-56 với hơn 172000 ngàn chủ gia đình bị giết chết và tất cả các gia đình này đều tan nát sau đó. Riêng tài sản của họ thì rơi vào tay Hồ chí Minh. Theo đó, vào lúc này người ở miền nam tự biết và đang nhìn đời bằng đôi mắt trắng, sinh mạng của họ có thể bị ngắt đi vào bất cứ lúc nào.

Kết cục, họ đã qua từng đêm trắng mắt. Sau khi mở vòng tay ra ôm lại đứa con, người chồng vừa trở về sau ngày tàn cuộc chiến. Họ lại run rẩy, nấu cho chồng bát cơm, đưa cho con manh áo đem theo khi nghe cái lệnh tập trung cải tạo của nhà nước VC vừa ban ra. Dĩ nhiên, chuyện chưa chấm dứt với chuyến đi cải tạo được gọi là năm bẩy ngày lương thực ăn đường ấy. Bởi vì, sau khi họ ôm gói lên đường, vợ con của họ cũng được lệnh bao, túi lên vai đi vùng kinh tế mới… Trời ơi, tha cắt cổ, chúng mổ bụng. Đến nay, xem ra là chẳng còn một nghiệt ngã nào mà không theo chữ gỉải phóng đổ xuống trên tấm thân của người miền nam. Tiếng súng, tiếng pháo trong chiến tranh hôm nào nghe đã buốt tim. Nay cái lệnh phải đi kinh tế mới còn kinh hoàng hơn thế trăm lần. Hỏi xem, người dân nam làm gì để sống dưới cái ách cộng sản của Hồ chí Minh đây?

Lao ra biển! Phải, họ kéo nhau lao ra biển, bước qua cõi chết mà tìm cái sống hoặc là ngồi tù. Lúc ấy ai cũng mơ đến cái khoảng thời gian 300 ngày của hiệp định Genève xưa. Phải chi hôm nay chỉ có được một trăm ngày thôi thì Duyên Anh có cơ là một… tiên tri lớn với câu nói: “ đến cái cột đèn nếu biết đi nó cũng không ở lại với Việt cộng, chứ nói chi đến vài con chó!

Trong gian khổ là thế, người miền nam đã quyết chi ra đi. Nhà tù rồi cũng quen, nếu trời còn thương, hết tù ta lại đi. Cùng với trào lưu ra biển, ngoài bắc cũng có ngưòi nhanh chân, nhanh trí tìm đường ra đi từ Hải Phòng  Tuyên Quang… Nay nhìn lại, tất cả những chuyến đi này đều bắt nguồn từ chuyến đi tìm Tự Do của người miền bắc vào 1954. Nó đã đưa con người vào sống trong một khung cảnh nên người với những con người.

Rồi trong lúc người miền nam tìm mọi cách để ra khơi, thì cái hàm răng bừa của Phạm văn Đồng lại có dịp nhô cao lên: “ đó chỉ là bọn đĩ điếm theo chân đế quốc.”. Nghe thế, có người bảo, khéo lại phải nhờ đến bà bắc kỳ năm xưa kéo quần lên mà cho nó một trận no.  Bởi vì, chỉ sau đó mấy năm, sau khi tắm rửa nhận cái chức thủ tướng của nhà nước Việt cộng, Võ văn Kiệt, xem ra đã biết lẽ hay, điều phải khi đặt bàn hương án lên khấn vái, cầu trời đất phù hộ và mong mỏi những “Việt kiều yêu nước” là những người Việt Nam bỏ nước ra đi năm nào, nay xin hãy trở về thăm quê hương và góp bàn tay vào kiến tạo lại đất nước. Hỏi xem, khi nói thế là Y thành thật hay gỉa dối. Và  hỏi xem, nếu họ là người Việt Nam yêu nước Nam thì đảng cộng sản, Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng là người yêu… cái gì, yêu nước nào khi chúng tàn sát dân Việt Nam?

  • Thay lời tâm sự

Bạn than mến,

Trên đây chỉ là đôi ba nét nét chấm, phẩy về bức tranh của một Việt Nam trong 45 năm qua đã phải chịu, phải vác vì cái tai ách cộng sản đè xuống trên đất nước này mà thôi. Hỏi xem, ai là người có thể tháo gỡ được cái ách này cho dân Việt Nam đây? Hẳn nhiên trách nhiệm này là ở trong tay bạn, trong tay tất cả chúng ta, những người cùng một gốc Việt mà sinh ra, nên ta phải bằng mọi gía bảo vệ lấy cơ nghiêp của tìền nhân.

Hơn thế, hôm nay các bạn đã trưởng thành rồi, các bạn đã biết lẽ hay, điều phải. Các bạn đã hiểu và biết ý nghĩa của chữ Tự Do, Công Lý và Độc Lập nó cần thiết trong cuộc sống của dân tộc mình ra sao.  Từ đó, tôi tin rằng, các bạn đã nhận thức được đúng sai, biết lẽ hay điều phải thì chính các bạn phải là những người mạnh tiến trên bước đường tương lai vì tổ quốc, vì dân tộc Việt Nam để người khác cùng nối gót theo.

Và cách riêng nơi đây, tôi thành thật thưa với các bạn rằng : Đừng bao giờ, không bao giờ bước đi theo lối  mòn bán nước giết dân Việt như Hồ chí Minh và tập đoàn cộng sản của Y. Thay vào đó, các bạn hãy nhìn đến công lao dựng nước và cứu nước của các tiền nhân ta như hai bà Trưng, của Hưng Đạo Vương, của Lê Lợi, của Quang Trung mà tiến bước. Hoặc gỉa, “thà làm qủy nước Nam còn hơn làm vương đất bắc” như Trần bình Trọng. Và nếu chuyện lớn ta chưa đủ thời cơ,  đừng bao giờ phí hoài tuổi sanh và tri thức của bạn để theo bước chân giặc Hồ. Đã tủi cho nhà, còn nhục cho nước nữa.

Thân ái.

Bảo Giang

01-5-2020

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Chuyện Bán Đất Nhà Người

Chuyện Bán Đất Nhà Người

Nhân kỷ niệm ngày tang thương 30-4-1975, tôi ghi lại chuyện này. BG.

Bán đất nhà người, chuyện nghe ra rất lạ, nhưng thật ra không lạ một tý nào. Đặc biệt, khi sống ở trong các nước cộng sản, người ta sẽ hiểu việc “ bán đất nhà người”, được các nhà nước cộng sản quy định và thực hiện sách lược chủ yếu này ra sao:

  1. Đối nội:  Thường thì nhà nước cướp  những thứ mình không có bằng phương cách “cưỡng chế”, hay “quy hoạch” để thu tóm tài sản, ruộng vườn, nhà cửa của người dân vào tay giai cấp thống tri.
  • Đối ngoại: Khi đủ mạnh thì đi chiếm đoạt, chế ngự, tước đoạt chủ quyền của các nước cộng sản nhỏ láng giềng. Hai sách lược này là bất di bất dịch, đời đời không bao giờ thay đổi trong cơ chế của CS!

Thật vậy, khi cộng sản Sô Viết chưa sụp đổ, tất cả các nước láng giềng của Liên Sô như Ba Lan, Hungary, Romania…  Nói chung là khối Đông Âu, trên danh nghĩa là những quốc gia có chủ quyền riêng biệt, nhưng thực tế, họ lại không được hành sử cái quyền có chủ quyền thuộc quốc gia của mình. Trái lại, mọi sách lược, đường lối của các nước này phải tuyệt đối thi hành theo chủ trương của Liên Sô đề ra.

Khi Ba Lan, Hungary, Romania muốn ngắm nghé nhìn qua tây phương (dù là mua miếng bánh mỳ) là Liên Sô tự cho mình cái quyền trịch thượng. Đưa quân đội tràn qua chiếm đóng và lập lại cái thế cộng sản thuần thành theo ý của Liên Sô. Việc làm của Liên sô, một mặt là chà đạp chủ quyền của các nước cộng sản trong khối, mặt khác là nghênh ngang thách đố cái sức mạnh và lý lẽ nhân bản của tây phương. Ta đưa quân đi chiếm đóng Ba Lan, Rumani… đấy, ai làm gì được ta nào? Trước cảnh hung hãn này của Liên Sô, Tây phương đứng nhìn cho vui, và các nước cộng sản khác thì như con chuột đã nằm trong vòng tay con mèo đói.

Tuy thế, trong suốt 80 năm “môi hở răng lạnh” của cộng sản, thế giới lại không được chứng kiến cảnh “cưỡng chế” hay “quy hoạch” được Liên Sô đem ra áp dụng với Trung cộng. Và dĩ nhiên, Mao Trạch Đông cũng… ngại, không dám đè lên chủ quyền của Liên Sô. Lý do thật dể hiểu. Cả hai tên cộng sản này đều ” tám lạng nửa cân”, không bên nào khả dĩ đấm gục đối phương, nên tự nhiên là phải cắn răng lại mà giữ lấy hòa khí! Nay Liên sô đã không còn, CSVN không còn cách đu giây giữa Liên Sô và Trung cộng. Theo đó, việc CSVN bị Trung cộng tước đoạt chủ quyền chỉ là chuyện trong sớm tối, phải đến!

Đó là chuyện “đối ngoại” thuộc khối cộng sản quốc tế. Phần mỗi quốc gia bị cộng sản chiếm đóng thì tự hành xử ra sao?

Rõ ràng ai cũng biết, từng chi tiết, từng bước nhảy vọt lớn, nhỏ trong sách lược cưỡng chế, quy hoạch, tịch thu ruộng đất tài sản của nhân dân thuộc các nước cộng sản hầu như đều giống nhau, nên tôi không viết lại ở đây nữa. Riêng ở Việt Nam, ngoài chuyện quy hoạch, cưỡng chế, người người đều biết, nhà nhà đều hay (biết đây là nhìn tận mắt, nghe tận tai, sờ tận tay chứ không phải bằng những bài viết trên báo chí của nhà nước), tất cả mọi người Việt Nam còn biết rõ việc chúng rất tài tình trong cách đứng ra “bán đất nhà người” như thế nào.

Trước hết, Hiệp định Geneve ký vào ngày 20-7-1954 như một nhát dao, hơn là một hiệp định buồn thảm đã phân chia nước Việt Nam ra làm hai phần đất riêng biệt. Từ đó, tổ quốc Việt Nam vừa thoát nạn Pháp đô hộ, nay đã phải bị chia cắt ra thành hai quốc gia với nền hành chánh, pháp lý và chế độ chính trị hoàn toàn khác nhau. Một bên buộc theo khối cộng sản. Một bên đứng về phía Tự Do.

Từ đây, theo căn bản của Công Pháp Quốc Tế, đây là hai quốc gia riêng biệt, không nước nào được xâm phạm chủ quyền về lãnh thổ và cai trị của đối phương. Giống như Đông và Tây Đức. Ngoại trừ trường hợp cả hai chính phủ và người dân cả hai bên cùng tự tổ chức trưng cầu Thống Nhất để hợp thức hóa hệ thống chính trị và địa dư chung. Sở dĩ có điều khoản này là vì hệ thống pháp lý của đôi bên hoan toàn khác biệt, nếu như không muốn nói là chống đối nhau:

  1.  Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Phần lãnh thổ, lãnh hải và dân số của Việt Nam ở phía bắc, từ ải Nam Quan đến bờ bắc sông Bến Hải, nằm trên vĩ tuyến 17, do Hồ Chí Minh và CS xử lý. Từ đây, Việt Minh (tên gọi cộng sản VN lúc bấy giờ) đã xây dựng cơ sở, đặt các hệ thống công quyền theo chế độ cộng sản trên phần đất này và được gọi là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

  •  Nước Việt Nam Cộng Hòa.

Nửa phần lãnh thổ, lãnh hải và dân số của Việt Nam nằm từ phía nam bờ sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu, do ông Ngô Đình Diệm lãnh đạo. Tại phía nam bờ sông Bến Hải này, ông Ngô đình Diệm và quân dân miền Nam đã kiến nghiệp và xây đựng đất nước theo thể chế Cộng Hòa. Trước hết, chính phủ đã thu hồi chủ quyền của đất nước bao gồm phần đất liền, cũng như các hải đảo từ tay của thực dân Pháp, trong đó bao gồm cả hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, nằm cách bờ đất liền khoảng 200 hải lý. Thứ hai, bãi bỏ hoàn toàn chế độ phong kiến còn di truyền tại miền nam. Từ đó, miền nam Việt Nam trên trường Quốc Tế là một quốc gia Độc Lập với tên gọi chính thức là nước Việt Nam Cộng Hòa. với sự nhìn nhận và ngoại giao với 91 nước trên thế giới. Trong khi đó phía nhìn nhận bắc Viêt như một quôc gia không qúa 50.

Trong thời phân tranh này, cả hai nước đều giữ tên gốc chung là Việt Nam. Mỗi bên đều được một số quốc gia trên thế giới xác minh, công nhận là một quốc gia có chủ quyền, tự trị, độc lập, để họ giao thương với. Tuy nhiên, vào thời điẻm ấy, cả hai đều không phải là thành viên của tổ chức Liên Hiệp Quốc, dù cả hai đã xin tư cách thành viên nhiều lần. Miền nam Việt Nam được nhiều nưóc trên thế giới công nhận hơn, nhưng vẫn không có tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc vì bị Nga và Tàu là thành viên thường trực của tổ chức chống đối việc gia nhập của Việt Nam Cộng Hòa. Phía miền bắc cũng không có ngoại lệ đối với các nước trong khối Tự Do.

Qua việc phân định lằn ranh tạm thời như thế, không cần phải nói thêm, mọi người đều biết, tất cả những gì thuộc về bờ phía bắc sông Bến Hải ra đến ải Nam Quan là bờ cõi của Việt Nam mà tạm thời đảng CSVN đang trấn đóng. Dĩ nhiên, nhất thời họ cũng có trách nhiệm phải bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc và bảo vệ người dân Việt Nam trên phần đất này (nếu họ muốn). Hoặc giả, họ cũng có thể đem bán tống, bán tháo phần đất ấy cho cộng sản quốc tế theo cái thuyết Tam vô mà họ đã theo đuổi.

Ở trong trường hợp họ mang bán đi, chưa chắc gì người miền Nam làm gì được họ (thực tế đã chứng minh như thế), bởi lẽ, cái bản hiệp định kia đã trao cho họ cái quyền quản lý trên phần đất ấy. Và họ đang có trong tay những con dao mã tấu hảo hạng của Nga –  Tàu đè ấn xuống trên cổ người dân đất bắc, là những người có công quyền làm việc đó, để không một ai dám phản kháng.

Thật vây, sợ biến, Hồ chí Minh đã ra tay trước. Y mở cuộc tổng đấu tố Phú Nông Địa Hào, vừa chiếm đoạt được toàn bộ đất đai, tài sản của người dân, lại đè bẹp được mọi yêu cầu về nhân quyền và công lý của họ. Từ đây người dân sống trên đất bắc không còn dám biết đến chữ phản kháng việc cướp của giết người của Hồ chí Minh và tập đoàn cộng sản nữa. Trái lại, phải đi theo  hiệu lệnh của cái mã tấu trong tay chúng. Cũng từ đây, chữ có thuộc về Hồ và tập đoàn của nó. Chữ không, chữ trắng tay, trắng mắt thuộc về người dân trên đất bắc. Đã tồi tệ như thế, tập đoàn cộng phỉ Hồ chí Minh còn thi hành những sách lược sau:

  1. Bán đất nhà người.

Trước hết, sau khi nắm được công quyền, Hồ Chí Minh, qua Phạm Văn Đồng, đóng vai thủ tướng, rồi Ung gia Khiêm, thứ trưởng ngoại giao, vai đi đêm, của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã ký công hàm xác nhận hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam trực thuộc chủ quyền của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa là của Trung cộng vào ngày 15-8-1958.

Người nhận là Trung cộng đã tỏ ra cực kỳ thỏa mãn, dù biết rất rõ lý lịch của phần đất và biển trời này không thuộc chủ quyền và trách nhiệm quản lý của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Mặc, họ cũng không cần biết đến lý do như là trả nợ trước, mong được giúp đỡ hoặc là, cả cuộc lừa dối của đối tác. Hoặc giả, Trung cộng còn biết rõ ý đồ của Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng khi ký giấy công nhận chủ quyền của Trung cộng trên phần đất, hải đảo của Việt Nam do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam bảo quản với ít nhất hai chủ đích sau:

  1.  “Tôi bán đất của người ta cho chú ba, chú có giỏi thì ra đấy mà lấy”. Hoặc giả, giúp tôi đánh úp nó rồi sau ra đấy mà nhận!
  • Nếu chú ba không dám đánh úp chúng mà lấy thì… huề nhá. Tôi chẳng lấy gì mà giả ơn được!

Biết rất rõ ý định tồi bại của những tên gian manh Hồ chí Minh, Phạm văn Đồng, Lê Duẫn… nhưng có trong tay tên Trường Chinh, Ung văn Khiêm…  được coi như con nuôi của Tàu trong việc chúng muốn phỉ bang Chữ Quốc Ngữ và kêu gọi dân chúng học lấy tiếng Tầu để làm nô lệ cho Tàu, nên Trung cộng vẫn mua. Mua để chờ thời, mua  để thách đố, hay bằng cưỡng chế như Liên Sô đã thực hiện tại Đông Âu! Và mua để cho chúng trừ nợ qua những chuyến hàng gọi là viện trợ cho nươc xã hội chủ nghĩa anh em. Trong khi đó, tập thể VC Hà Nội lại  mừng lớn vì tin rằng Tàu sập bẫy… mua đất nhà người của chúng.

II. Khí thế của kẻ theo voi:

Chuyện là thế, nhưng chẳng bao lâu sau, cuộc sụp đổ đồng bộ của cộng sản Đông Âu xảy ra, trong đó có cả đế quốc Liên Sô làm tập đoàn CSVN tại Hà Nội, không còn chỗ bám tựa, không còn phương cách đu giây. Nay nếu còn muốn giữ lại cái chế độ cộng sản gian trá ấy, Việt cộng không còn cách nào khác ngoài việc phải bám víu vào Trung cộng. Trước hét,  muốn sống còn theo lý luận của Nguyễn văn Linh và Đỗ Mười do Phạm văn Đồng làm cố vấn thì họ phải quy thuộc địa dư vào với Trung cộng. Chính Nguyễn văn Linh đã công bố trong dịp quy thuận, nhượng địa đó là: “Tôi vẫn biết đi với Trung cộng là mất nước, nhưng thà mất nước còn hơn là mất đảng”. Từ đó, Việt cộng đã chính thức quy phục Tàu theo thỏa thuận Thành Đô. Chỉ tiếc, đến nay những chi tiết về việc quy phục này vẫn chưa được công khai.

Rõ ràng, nhờ cuộc mua bán và quy phục này, Việt cộng còn sống đến hôm nay. Tuy nhiên, chúng không bao giờ có thể thoát ra khỏi cái vòng quy hoạch, cái cưỡng chế, như các nước nằm ở trong khối cộng sản Đông Âu trước kia. Nghĩa là, quyền chủ quyền trên diện địa VN, quyền lợi kinh tế và chính trị của nhà nước CSVN đã nằm gọn vào tay Trung cộng ngay từ khi Đông Âu xụp đổ. Và từ đây, hang ngũ gọi là lãnh đạo đảng và nhà nước của cái nhà nước gọi là CHXHCNVN, chẳng qua chỉ là những kẻ được chỉ định từ Trung cộng mà thôi.

Vì biết rõ vị thế của chính mình nay còn, mai bị đuổi việc.  Và biết rất rõ, những phần đất béo bở  ở trên đất nước này, nếu không bán tháo, bán đổ cho TC, cho các lái buôn của họ thì mai mốt cũng lọt vào tay chúng. Tứ đó,  cái gọi là tập đoàn nhà nước Việt cộng đều có một chủ trương giống nhau. Chúng theo nhau dùng vị thế, sức mạnh để chiếm đoạt, cưỡng ép, chiếm lấy những phần đất lợi thế của người dân hay, quy hoạch khoanh vùng, đem đất đai của tổ quốc Việt Nam, chứ không phải của CSVN, bán cho Trung cộng để chia nhau quyền lợi, danh vọng. Kết quả, những tờ Hiệp thương, Hiệp định biên giới do Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Nguyễn Mạnh Cầm, Phan Văn Khải, Võ Văn Kiệt… thực hiện với Trung cộng vào các năm 1999 và năm 2000 đều nằm trong chiều hướng này để nhận tiền riêng.

Kế đến, nếu những kẻ đi trước “bán đất của người” được lợi nhuận cao, được hanh thông danh vọng, chẳng lẽ những người kế vị không có khả năng này? Đó là lý luận và cơ sở của tập đoàn lãnh đạo cộng sản Hà Nội hôm nay. Kết quả là những “khế ước” khai thác Bauxite Cao Nguyên, là những cưỡng chế, quy hoạch, là những khế ước cho thuê rừng đầu nguồn, cửa biển của Việt Nam do tập đoàn Dũng, Mạnh, Triết, Trọng… và các quan cán cộng sau này thi nhau thực hiện để lấy tiền vào túi riêng.

Rồi nay ai cũng biết, dưới sự lãnh đạo tài tình của nhà nước Việt cộng, đất đai, biển đảo của tổ quốc Việt Nam rơi dần vào tay ngoại bang, nhưng xem ra chưa có dấu ngừng lại. Trái lại, càng lúc càng trở nên như một phong trào thi đua trong đảng CSVN. Họ đem bán đi những phần đất của non sông, những tài nguyên của đất nước chỉ vì một mục đích duy nhất, xin cho mình và phe cánh được làm những tên nô lệ cho kẻ thù truyền kiếp của dân tộc ở ngay trên quê hương của mình. Đã bất lương như thế, chúng còn vỗ ngực hỏi rằng, ai làm gì được ta nào?

   III. Bác thang lên hỏi ông trời.

Nay nhìn lại chuyện đã qua, xem ra không một người Việt Nam nào không biết rất rõ cái dã nhân của tập đoàn CS Hồ chí Minh. Vì muốn được danh vọng, cướp được đất đai của Việt Nam, chúng dã không ngần  ngại rước kẻ thù truyền kiếp của dân tộc vào đất nước này.  Và còn tệ hại hơn cả Lê chiêu Thống xưa, chúng thi đua nhau bán dốc tài sản, đất  đai của Việt Nam cho Tàu cộng bằng nhiều phương cách khác nhau.

Trước hết, chuyện VC xác nhận “Hoàng Sa Trường Sa“ theo ý muốn của Trung cộng để đổi lấy viện trợ, để mong chiếm đoạt luôn miền nam Việt Nam những tưởng lừa được Nó,  ai ngờ chuyện ấy biến không thành có. Biển ảo thành thực.

Khi ký Công hàm xác nhận Hoàng Sa, Trường Sa nằm dười vĩ tuyến 17, thuộc quyền sở hữu chủ của Việt Nam Cộng Hòa, là đảo của Tàu vào năm 1958, tập đoàn CS bán nước Minh, Đồng, Khiêm… đã toan tính những lật lừa. Chúng mưu cầu đem “bán đất của người” cho TC để hưởng lợi mà không hề biết  đến cái hậu  qủa thảm khóc mai sau. Tuy nhiên, Tàu cộng là những bậc thầy gian trá của chúng, nên Tàu sẵn sàng dùng tiền viện trợ để mua rồi chờ thời, chờ ngày biến không thành có. Kết qủa, chuyện ảo thành sự thật. Chúng nắm trong tay khế ước gọi là  Công Hàm 1958 của Phạm văn Đồng nên vào cuối cuộc chiến ở Việt Nam, Tàu đã hốt lấy Hoàng Sa. Sau đó vào 1978 chúng hốt thêm quần đảo Trường Sa. Phần Việt cộng, hoàn toàn trắng mắt, trắng tay trong mọi lý luận, kiện cáo.

Bởi lẽ, đây là một phương thức mua bản áo như chuyện  mua, bán cổ phần chứng khoán  trên thị trường. Người mua trả tiền thật để lấy mảnh giấy với những con số ảo. Mua bán kiểu này nhiều khi mất trắng tay, có khi tiền vào đầy túi.

Cũng thế, chuyện giao bán hàng Hoàng Sa, Trường Sa trước kia do Phạm văn Đồng thực hiện chẳng qua chỉ là mua bán ảo (đất của miền nam Việt Nam). Nhưng sau 30-4-1975, Việt cộng cướp được đất của miền nam, thì dĩ nhiên cái vùng Trường Sa, Hoàng Sa kia cũng thuộc về Việt cộng. Khốn thay, theo cái Công Hàm của Phạm văn Đồng đã ký trước kia, và nay (1978) Y vẫn còn sống, thì đó chính là tài sản đã được Y trong vai thủ tướng của cái nhà nước gọi là VNDCCH đã ấn ký, xác nhận là của Trung cộng ngay từ 1958. Theo đó, đi đến bất cứ nơi đâu,  Tàu cũng thắng vì nó có văn bản. Việt cộng trắng tay, không thể tháo gỡ. Trừ khi… trả miền nam lại cho ngưòi miền nam trước kia!

Nếu tập đoàn Việt cộng khăng khăng lý luận. Tôi có trao đâu, Tàu đã đánh cướp từ chính phủ miền nam mà?

Phải, chuyện là như thế, và Tàu sẽ trả lời gọn nhẹ là: Chúng tôi chỉ lấy được Hoàng Sa vào lúc đó, và chờ nhà nước CHXHCNVN giao trả thêm Trường Sa như đã được ghi nhận theo Công ước 1958, nhưng chờ mãi Công ưóc không được thi hành, buộc  chúng tôi phải tự thi hành Công Ứơc với quần đảo Trường Sa vào năm 1978. Như thế, đây chỉ là phương cách buộc chúng tôi phải thi hành khế ước đã ký kết mà thôi. Đó không phải là một cuộc xâm lấn.

Hơn thế, “ chúng tôi” còn nhớ, vào lúc ấy chính các đồng chí lãnh đạo ở Hà Nội cũng như dân chúng còn hả hê chạy ra đường mừng chiến thắng của Trung quốc trước miền Nam Việt Nam. Rõ ràng nhà nước Việt Nam đã ra mừng vì Khế ước 1958 với Trung cộng đã được thực hiện. Mừng vì đã trả được một phần nợ. Riêng chuyện Trường Sa thì do Lê đức Anh hiểu biết, nên đã ra lệnh cho bộ đội miền bắc không được nổ súng khi binh đoàn TQ tiến vào để thi hành giai đoạn hai của Công Hàm 1958 mà thôi. Nếu nhà nước TC chỉ lý luận như thế, hỏi xem, nhà nước Việt cộng có tư cách gì nói đến hai quần đảo ấy ?

Kế đến, là chuyện những thành phần vô văn hóa ở trên đất bắc đã tạo ra cuộc chiến ở miền nam VN từ 1955-1975 và tạo ra ngôn từ mang tính phỉ báng đối phương là “ Nguy Quân, Ngụy Quyền” nay đã không còn. Những thành phần mới, hy vọng có đôi chút học thức thì cũng nên bảo nhau từ bỏ hẳn những ngôn từ ấy đi khi nói về miền nam.  Bởi lẽ, nếu họ tiếp tục vô thức mà gọi quân dân miền nam bằng ngôn từ ấy thì đây chính là một mắt xích khác nối giáo cho Tàu vững mạnh chứng minh là hai quần đảo này trực thuộc Bắc Việt khi Phạm văn Đồng đương quyền thủ tướng của Việt cộng, ký xác minh là của Trung cộng là  chuẩn xác, không thể chối cãi. Bởi lẽ, “ ngụy quân, ngụy quyền” thì làm gì có tư cách sở hữu đất đai của Việt Nam. Khi ấy Việt cộng chắc không thể mở mồm được nữa và chắc cũng chẳng còn cái răng nào!

     IV. Làm sao Việt Nam có thể lấy lại Hoàng Sa, Trường Sa đây?

Câu nói dứt khoát đầu tiên ai cũng biết là, còn Việt cộng đời đời không bao giờ Việt Nam lấy lại được Hoàng Sa, Trường Sa. Tệ hơn thế, ngay cái tên Việt Nam trong phần đất liền cũng chỉ trong sớm tối sẽ là phần đất nằm trong khối Tàu cộng như là Tân Cương, Nội Mông…   mà thôi.

Theo đó, bất cứ ai trong hàng ngũ Việt cộng còn có ý nghĩ muốn đòi lại mảnh đất của cha ông, xem ra phải đi theo hướng đi mới: Đứng dậy, buộc nhà nước của cái gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Xả hội chũ Nghĩa Việt cộng phải công khai xác nhận cuộc xâm lăng miền nam Việt Nam vào năm 1975 là vi phạm Hiệp Ứơc đình chiến về Việt Nam ký ngày 20-7-1954 tại Geneve. Đồng thời lên án cuộc chiến tranh vào  miền Nam do Hồ chí Minh và Phạm văn Đồng, Lê Duần và Trường Chinh chủ chiến là trái công pháp, là trái ngược với y định chung sống hòa bình của người dân miền bắc.

Từ căn bản pháp lý này, Việt Nam ngày mai và miền nam trước đây có nhiều cơ duyên chung tay tìm được cơ bản của pháp lý trong việc bảo vệ chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa  khỏi tay Trung cộng. Bởi lẽ: Việc làm can đảm, dũng mãnh này có hai ý nghĩa chính:

  1. Đạt nguyện vọng của toàn thể dân tộc,
  2. Bảo vệ trọn vẹn được lịch sử, dân tộc và đất đai của  cha ông để lại. Đây mới chính là những người đi làm lại lịch sử của non sông Việt nam

Nhìn chung, đây chỉ là một vài ý tưởng. Nhưng ngôn từ là tâm điểm của lịch sử mà mọi thế hệ sẽ biết rõ. Bởi vì, khi dân ta biết được lịch sử thật của mình thì sẽ nhận thức được cái sai trái của tập thể Việt cộng. Cũng thế, khi Việt cộng biết được cái sai của tập thể mình theo thì chính họ cũng có thể sửa lại cái sai ấy bằng cách đi dưới ngọn cờ của dân tộc.

Như thế, Ta có đứng dậy được hay không, có lấy lại được biển đảo hay không, không chỉ tùy thuộc vào người Việt Nam ở hải ngoại hay người tay không ở trong nước. Nhưng còn tùy thuộc một phần lớn vào những kẻ đã lừa dối và chém giết dân tộc này trước kia nữa. Nếu nay khai lối, đổi hướng, họ trở về với dân tộc và cùng với dân tộc đứng dậy triệt cộng sản, viết lại lịch sử của quê hương thì họ chẳng mất gì mà Hoàng Sa, Trường Sa sẽ chẳng phải rời đất mẹ Việt Nam… Mong lắm thay.

Bảo Giang. 7/2012.

Mùa Quốc Hận 30-4-2020.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này

Việt Nam ngày mai

Việt Nam ngày mai,

Đi và về đâu?

Chỉ còn vài giờ nữa, chúng ta bước vào kỷ nguyên mới bắt đầu bằng hàng số 01-01-2020. Bạn đang nghĩ gì và rồi, bạn sẽ có, sẽ làm những gì cho bạn, cho gia đình bạn và  cho quê hương Việt Nam trong kỷ nguyên này?

Thoáng qua, đây chỉ là vài câu hỏi ngắn thôi, nhưng xem ra nó có khả năng đè hay chất nặng trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta và buộc ta phải trả lời. Rằng tất cả sẽ đến trong hân hoan của bạn và của toàn dân Việt hay sẽ trôi qua trong tiếc nối, ngậm ngùi sau đó?

Nói thế có nghĩa là, đêm nay ngoài hình ảnh của chính mình và gia đình của mình, bạn còn nhớ đến Việt Nam chắc bạn phải thực sự một lần nhìn lại bản đồ của Việt Nam quê ta vào trước ngày 2-9-1945, rồi sau đó là ngày 20-7-1954 ra sao? Kế đến, rà soát xem sau 19-01-1974 và sau 1999- 2000 với hội nghị Thành Đô ta đã mất những gì?  Và nay, sau 2019 với thế đứng của Trung cộng trên đất Việt theo kế hoạch được trải thảm từ Hồ chí Minh đến hàng ngũ Việt cộng nâng khăn, từ bắc đến nam không một nơi nào thiếu dấu chân quan cán thời Tống Hán. Như thế, bạn hãy hỏi xem, Việt Nam đi về đâu?

Về đâu và ra sao thì chưa ai nhìn thấy, nơi đây tôi xin ghi lại những dấu chân xưa.  Hy vọng từ đó chúng ta nhìn ra một con đường cho quê ta trong  ngày mai.

Bạn hãy nhìn xem, Cửa ngõ biên giới Việt -Trung đã mở toang để mời khách Tàu tự do ra vào, rồi tiền Mao được tự do tiêu dùng, trao đổi ở Việt Nam trong lúc trẻ em Việt Nam phải bắt đầu bài vỡ lòng với… “dát, dị. xám” thay vì A,B,C ngay khi vừa đến nhà trẻ, học đường. Đã thế, nay lại đến lượt các đoàn gọi là múa rối, nhưng thực chất là những cán bộ chính huấn tuyên truyền của chúng tràn vào Việt Nam, tự do đến các hội trường từ tỉnh biên giới đến nội địa, để ca múa, tuyên truyền về văn hóa của mẫu quốc cho lệ thuộc bang phương nam học hỏi. Bạn hãy hỏi xem,, chủ quyền về tiền tệ và văn hóa của ta có còn hay không?

Thêm vào đó, chuyện rừng đầu nguồn, Bauxite Tây Nguyên, Formosa… chưa lặng sóng, nay lại đến 3 đặc khu Vân Đồn, Phú Quốc, và Bắc Vân Phong với phi trường riêng đã mở đầu cho cuộc thống trị mới của bá quyền phương bắc đè xuống trên cổ Việt Nam ta. Bạn có bao giờ hỏi xem Việt Nam còn hay mất và rồi sẽ đi về đâu hay không? Nếu chưa thì đêm nay hãy tự hỏi lấy một lần đi, kẻo không còn cơ hội.

Đến đây, thật lòng, tôi muốn viết cho bạn một bức thư tâm tình, nhân ngày cuối năm và trước khi quê hương ta phải khoác cái áo Tàu do tập đoàn bán nước Hồ chí Minh và Việt cộng đem vào thay vì bài sáo rỗng, đóng khung theo thể nghị luận, chứng minh. Với ý định này, tôi chỉ đưa ra cho bạn thấy những hình ảnh thật trước mắt để bạn thấy và hỏi xem là nó sẽ dẫn chúng ta và dân tộc Việt Nam về đâu?

Với hướng đi này, trước hết bạn hãy nhìn xem, điều cha ông ta đã dạy từ xưa “Đồng tiền liền khúc ruột” có ý nghĩa gì? Và nay, tiền Hồ, tiền Mao, hay tiền Mỹ sẽ liền với khúc ruột của Việt Nam đây?

Không phải chỉ có bạn, nhưng mọi người đều muốn có hàng trăm, hàng ngàn đồng Dollars Mỹ để thủ trong người. Tuy thế, nó chỉ là ngoại tệ qúy, không thể trực tiếp trong công việc tiêu dùng của người Việt Nam trên đất Việt. Ấy là chưa kể đến chuyện, lâu lâu lại bị Việt cộng tìm cách cướp dựt. Chúng chiếm đoạt vì chúng có thể mở trương mục ở ngoại quốc để cất giữ. Hơn thế, để gỡi hàng triệu Dollars từ việc chiếm đoạt hay bán đất Việt cho Tàu, phần bạn thì tuyệt đối không thể. Theo đó, dân ta nếu có ít đồng Dollars thì giữ lấy làm vốn, tuyệt đối không thể dùng nó trong sinh hoạt thường nhật. Đã khó khăn thế, Dollars lại không là dòng tiến để cho người Việt Nam tiêu dùng thường nhật. Do đó, Dollars không thể liền với khúc ruột Việt Nam dẫu trân qúy.

Hiện nay, loại tiền này vẫn còn được coi là dòng sinh hoạt chính ở trong nước. Nó là một loại tiền mạt hạng trên thế giới. Theo thứ hạng, tiền Hồ đứng chót bảng, chỉ may mắn đứng trên một Iran mà thôi. Bạn có muốn trữ hàng triệu, hay hàng tỷ tiền Việt cộng ở trong nhà không?

Rõ ràng dân ta nếu có tiền như thế thì cũng không ai giữ nó ở trong nhà, nhưng sẽ gủi vào ngân hàng của nhà nước Việt cộng, hoặc mua lấy ít Đollars cất thủ ở trong nhà phòng khi cần đến. Nhưng tập đoàn cán bộ nhớn thì không. Chúng sẽ giúp nhau chuyên đổi sang Dollars và chuyển gởi vào trong các trương mục ở ngoại quốc. Tại sao chúng không gởi ở ngân hàng Việt trong nước? Dễ hiểu thôi, chúng sẵn sàng bỏ chạy bất cứ lúc nào . Đã thế, đồng tiền ấy đã sẵn sàng trở thành tiền rác ngay trong một sớm một chiều, và bạn sẽ trắng tay trong khi quan cán nhớn không thể bị cái cảnh này chi phối.

Nếu thế, ta đi mua vàng để cất giữ chăng? Ý kiến hay đấy, nhưng trong nhà bạn có thể cất giữ được mấy ký lô vàng trong khi cướp cạn từ quan cán luôn có mặt chung quanh nhà bạn? Tóm lại, bạn có tiền tỷ nhưng có thể trắng tay sau đó một ngày, hay sau một vài giờ. Như thế,  điều bạn có thể làm là theo một trong hai cach sau: mua Dollars Mỹ, Vàng hay Mao tệ để phòng thân! Tiền Hồ tự nhiên bị loại bỏ khỏi sự cất dấu!

Bây giờ nó chưa nở rộ đâu, theo những nhà quan sát hiện nay, trong khoảng một năm nữa, vị thế của nó hoàn toàn khác, không phải chỉ ở trong lòng bạn, nhưng trong lòng mọi người dân Việt. Lý do: Tiền Mỹ bạn không thể mua bán công khai, nếu có thì dấu lén lút cũng chẳng là bao. Nhưng tiền Mao lúc nào cũng có sẵn trong sinh hoạt và lại có thể bỏ vào nhà Banks nơi bạn cư trú. Khi đó, đồng tiền Hồ tự  nhiên mất gía trị tín dụng. Hỏi xem, bạn sẽ lo thủ và trữ tiền nào? Tiền Hồ hay tiền Mao?

Câu trả lời ngắn gọn là tiền Mao. Bạn giữ tiền của chủ chứ không muốn giữ đồng tiền của đầy tớ, đó là lẽ tự nhiên. Sau câu trả lời này là ta mất nước đúng theo cái tính toán của nhà nước Tàu. Đất của ta chúng đã chiếm, cơ sở, đường xá chúng giữ bản quyền thu thuế. Đường biên giới của ta, Việt cộng mở cửa cho chúng ra vào tự nhiên, nay tới đồng tiền liền khúc ruột lại có hình Mao thì tương lai đất nước này thuộc về ai? Thuộc về vài ba cái thằng Việt cộng nhãi làm thái thú ư? Không, tuyệt đối không. Nó sẽ thuộc về Tàu.

Về đời sống, dĩ nhiên bạn và con cháu bạn phải cố bám, ở lại đó cho đến hết đời này sang đời khác dẫu phải đeo vào cổ cái bảng nô lệ, trong lúc hàng quan cán cộng từ cấp trung hay lớn chúng đã tìm cách co chân chạy từ lâu rồi. Nếu còn ở lại chúng cũng đeo phẩm hàm cấp bậc của bầy nô lệ ở trên bạn. Khi ấy, có lẽ bạn cũng không nên buồn nữa. Bởi vì bạn và tôi, chúng ta đã không biết lo cho tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta trước kia. Nên không thể trách ai! Đã thế, vào lúc ấy bạn cũng chả nên trách quan cán Việt trong hàng ngũ Tàu sao mà  thất đức ác nhân với ngưòi mình như thế! Bởi lẽ, bạn đã biết rõ lòng chúng từ khi có cái tên Hồ – Mao trên đất Việt rồi.

Rồi Bạn cũng không thể trách Cụ Diệm, bọn ăn cháo đá bát làm đảo chánh hay Ô Thiệu nữa. Bởi lẽ, Bạn cũng như chúng ta đều có khối óc, có lương tri về tổ quốc, nhưng chúng ta không dùng và lo cho dân cho nước, cho tương lai con cháu chúng ta. Trong khi đó, không có một quan cán cộng nào mà không lạm dụng thời cơ để kiếm tiền, đục khoét tài sản quốc gia, lo cho con cháu của chúng ra ngoại quốc gọi là đi du học, xin định cư chờ ngày chúng cắp gói đi theo. Chúng làm cán bộ CS nhưng lòng trí ở bên Tây. Phần chúng ta, sự lo toan lại rất hạn chế vì nhiều lý do. Bạn có khả năng đẩy con cái đi dọn đường cho bạn như tập đoàn Việt cộng bán nước hay không? Tôi đoán tuyệt đại đa số chúng ta có chữ không dẫn đường.

Đến đây, tôi sẽ kê ra cho bạn thấy một vài cái mục đích của tập đoàn CS ác độc kia đang hướng đến.

Thứ nhất, nếu chưa mất nước, chúng sẽ tìm cách cho con cháu chúng đi và ở lại ngoại quốc bằng tiền của những cuộc buôn bán chủ quyền và đất đai của Việt Nam cho Tàu. Phần chúng, sẽ tùy cơ ra đi sau khi đã vơ vét tại Việt Nam. Trường hợp, nếu con chúng không thể ở lại, buộc phải về, thì cha truyền con nối, chúng sẽ trở thành một lớp cán bộ bán dân cho Tàu trong tương lai. Phần người dân Việt sẽ được đưa vào danh sách một cổ hai tròng.

Thứ hai, khi Tàu đã nhập nội, thì chỉ có bạn và con cháu chúng ta trở thành những tôi tớ như nô lệ, một cổ hai tròng và chờ ngày bị tận diệt như dân Mông Cổ, Tân Cương mà thôi.  Phần con cháu chúng thì đã thay tên đổi họ để có họ mới và trở thành lớp cán bộ nô lệ để trị dân nô lệ quy Tàu rồi.  Con đường này, có thể sẽ sớm đến với Việt Nam sau nhiệm kỳ thứ hai của TT Trump, nếu như không xảy ra cuộc đấm đá giữa hai cường quốc này. Bởi lẽ, con đường vanh đai sẽ tái xuất hiện một cách mạnh mẽ và nó sẽ khởi đầu từ tên nô lệ mang tên Việt cộng tại giải đất hình chữ S mang tên Việt Nam trước hết.

Bạn hỏi tôi là, nếu như thế, tại sao họ không đưa con sang Tàu du học. Câu trả lời có sẵn đây. Trước hết, họ đã không muốn, hoặc gỉa, không được lựa chọn. Hơn thế, lúc này chúng cũng muốn tỏ ra cho bạn thấy là chúng cũng theo tây để lừa bạn và không bị chống đối chăng? Đã thế, sự lựa chọn sẽ còn do hưóng bắc chỉ đạo. Theo đó, những đứa con cưng được nhận du học từ bên Tàu sẽ về ngồi trên đầu trên cổ những kẻ đi du học từ bên Tây trở về. Lý do, Mao đã từng bảo : “trí thức ấy không bằng cục phân”. Đã thế, Tàu muốn xóa sổ Việt chứ không phải muốn Việt lưu danh và tồn tại, nên chúng không thể trọng dụng thành phần theo Tây học.

Người Việt Nam còn ở trong nước sẽ vào vòng kim cô  theo quy lệ ở trên, người Việt ở hải ngoại ra sao?

Những người này, từ quân tới dân, họ nghe biết về cộng sản, lo sợ cộng sản và bỏ lại tất cả mà đi. Nhưng tuyệt nhiên họ không có kinh nghiệm sống với cộng sản. Họ lên máy bay ra khơi vì sợ cộng sản vào. Họ ra đi như kẻ lưu lạc để trốn chạy CS hơn là đi để định vị cho một bước đường mai sau. Theo đó, chuyện trở về của họ sau đó tưởng không nên bàn đến.

Những người ra đi với hai từ “ Thuyền Nhân” làm rúng động lương tâm thế giới và những ngươì đã nằm trong lao tù cộng sản lại hoàn toàn khác biệt với dạng A. Trước hết họ là người với:

     Hầu như tất cả những người thuộc diện này đều ra đi với lòng căm thù cao độ chế độ cộng sản. Lý do, người bị chúng vùi dập trong chốn lao tù. Kẻ khác thì bị chúng trù dập bằng muôn ngàn cách từ việc không kiếm được công ăn việc làm đến đi kinh tế mới, hoặc gỉa bị trù dập trong đời sống hằng ngày qua những cái loa phường với những ngôn từ không được giáo dục, không có học của tập đoàn CS. Đã thế, lại bị đẩy vào cuộc sống bi thương không có công ăn việc làm và những chiêu trò đổi tiền, trấn lột của cộng sản qua hợp tác xã, các tổ hợp sản xuất, biên chế ngành nghề… với chủ đích kiểm soát đời sống của từng người từng nhà.

Trước những điêu linh thống khổ này, mọi người, kể cả

cộng sản tép, đều muốn bỏ nước ra đi. Họ chẳng màng gì đến cái từ bánh vẽ Độc Lập, Tự Do, Hòa Bình đầy hôi tanh do CS tuyên truyền qua cái loa phường. Họ xuống thuyền, ra khơi. May thì được cứu vớt, tới bến, đổi đời. Rủi thì vào lòng biển hay nhà tù của Việt cộng.

Khi đi, nhiều người chừng như coi nhẹ cái chết, hoặc là chấp nhận một vận mệnh may rủi trên chiếc thuyền mong manh vượt biển. Họ biết, khi đi thiếu cả cơm ăn, nước uống. (người viết bài này cũng không có ngoại lệ). Hơn thế, dám đem chính mạng sống của mình ra thách đố với biển khơi.  Khi đi, họ hy vọng từ nơi xa xôi kia, họ sẽ tìm được chốn dung thân, thoát xa cái loa phường của tập đoàn vô văn hóa và nhất là, hy vọng con cái của họ có được ngày mai khá hơn là kiếp sống bị đoạ đày dưới cái dép râu của tên Tàu hoạn Hồ chí Minh.

Nay sau những ngày họ hăng say theo đuổi lý tưởng tranh đấu cho quê hương, cho đất nước dưới sự hò hét, chiêng khua trống gõ của nhiều kẻ có thể bị ghép vào tội bội phản, phỉnh lừa đồng bào… Nhưng lòng họ vẫn một lòng vì Tổ Quốc Việt Nam. Người ra đi hôm nào hăng say thế, nay bầu nhiệt huyết dù chưa vơi cạn, nhưng xem ra, họ đành phải chấp nhận một định phận tha phương. Ngày về sống với quê hương càng lúc càng xa tầm tay với.

Nhớ lại, sau chuyến đi, họ vẫn còn bên mình những tiếng kêu cứu từ cha mẹ, anh em ruột thịt từ quê nhà dưới gông cùm cộng sản. Họ đành phải muối mặt, cắn môi, để cho lũ khỉ rừng mang tên Việt cộng kia ký vào tấm thẻ Hộ chiếu của họ khi về lại Việt Nam mà thăm gia đình. Quả là một nỗi đau và cũng là nỗi nhục lớn đây.

Tuy thế, sau chuyến đi đầy thao thức, cuộc trở về như được mời mọc và bị cám dỗ bởi một cuộc sống phơi bày, gía nhẹ tênh nơi quê nhà. Từ đó, những chuyến đi về thành thòi quen khó chừa. Khi về, ai cũng biết 1à nhờ đồng tiền của người xa quê gời về cho thân nhân, hay những tiêu pha trong chuyến về ấy đã làm cho tập đoàn cộng sản tại Việt Nam từ từ hồi sinh, nhưng họ lại không thể dừng bước. Kết qủa, cộng sản lại lớn lên và trở thành mạnh mẽ để trấn áp ngay cả những người mang tiền về biếu, dâng cho chúng. Xem ra, chúng ta lại thua đau đớn thêm lần thứ hai.

Nay sau 40 năm, những chuyến về và những chuyện gởi tiền về VN trở thành nguồn sống mạnh cho tập đoàn cộng sản nơi quê nhà. Người về đã vô tình nối cánh tay của mình với Trung cộng để tiêu hao sinh lực của người ở trong nước, đồng thời phá nát khát vọng của một Việt Nam Tự Do, Độc Lập và công Lý. Tại sao ư?

Người về mang của cải về cho thân nhân của họ, tập đoàn CS kia ngu gì chịu lép vế. Chúng một tay đưa ra móc tiền kẻ về, hay kẻ đầu tư nhà đất. Thêm một tay khác móc ngoặc, chia nhau phương cách bán đất đai, cơ sở cho chủ nhân Tàu. Tệ hơn, bán bờ biển, báo đảo,  chia rừng, chia phố… cho chủ nhân Tàu chiếm giữ, để chúng thu về lợi nhuận lớn cho cá nhân, cho bè phái.

Kết quả, sau cuộc bán đất, chia phần, Trung cộng tự nhiên là kẻ hưởng lợi, thu về đất đai, cơ sở và kiểm soát toàn bộ hàng ngũ tập đoàn CS Việt Nam từ trên xuống dưới. Chúng giao cho mỗi cấp một cái vòng kim cô. Chúng bảo dạ, không một tên nào dám ho. Chúng bắt qùy, không một đảng viên VC nào dám đứng. Tất cả đều phải theo định lệ, quy chế của cái vòng chúng mang trên đầu hay cái thòng lọng trong cổ. Cuối cùng, chúng ngồi thu thuế, hưởng lợi, hưởng đất. Không một  tên VC nào dám kháng cự.

Ở một góc tối khác, Cán cộng theo nhau, giới thiệu nhau rồi dạy nhau lạy Tàu. Sau những lần qùy bái, dập đầu trước cái bệ Tàu kia, chúng lủi thủi bước trở ra. Nhưng ngay lập tức, sắc diện đổi, ngôn ngữ đổi và vẻ mặt bỗng đỏ như vang. Mặc sức mà hò mà hét, hoặc gỉa, tàn sát người dân, đè, kẹp nhóm khác, để tự lập công dâng chủ Tàu mà giữ lấy ngôi vị thái thú. Thế là ta tan nhà, mất nước, phần dân chết ly tan theo phận Mãn, Mông!

Nếu ai đã theo cộng, theo Tàu thì xin đừng vờ hỏi câu này nữa. Bởi lẽ, nếu không có Việt cộng, không có Hồ, Việt Nam đâu có khôn nạn như ngày hôm nay và cũng không bao giờ dân tộc Việt Nam phải nhìn thấy mặt tập đoàn VC nâng bô mang tên Hồ chí Minh. Riêng với người dân trong cuộc sống lầm than, vào đường cùng, xem ra có dến hai ước muốn lạ đời:

Trước hết, xem ra Mỹ là một loại con buôn giỏi. Nó chẳng cần phải diệt Việt cộng vẫn có đủ  mọi thứ hoa lợi vào túi nó. Bởi lẽ, bao lâu còn Tàu, thì bấy lâu Mỹ không mất phần lợi nhuận. Nghĩa là, nếu Trung cộng có “ xơi tái” Việt Nam, có lập đường tơ lụa, đông tây nam bắc, hoặc gỉa biến Việt Nam thành cơ sở nô lệ thì Mỹ vẫn có đủ tiền hoa lợi mà chẳng mất công sức gì, đã thế, tuyệt  đối không hề thiệt hại gì.

Theo đó, Mỹ không bao giờ nhưng không diệt Việt cộng, oánh Tàu cho dân Việt Nam. Nhưng nếu người Việt Nam vì đất nước của mình mà ra tay thì Hoa Kỳ có thể hỗ trợ xa xa. Hỗ trợ bằng cách này hay cách khác khi họ đã nhìn thấy kết qủa. Họ tuyệt đối không phải là thành phần con buôn thả mồi bắt bóng. Nhưng là làm ăn thực tế và thu lợi nhuận. Chính Tàu cũng đã là những kẻ phải chấp nhận cái kiểu hành xử kẻ cả của Hoa Kỳ, mà chẳng lời kêu than.

Ai là kẻ đứng ra biếu? Bạn hay là tôi, hoặc gỉa, người dân Việt? Hỏi thế thôi. Bạn và tôi hay người dân Việt sẽ chẳng bao giờ có cái cơ hội mà dâng biếu Việt Nam cho chúng. Bởi lẽ, chúng đã nuôi nấng Hồ chí Minh và tập thể thờ Tàu ở trên phần đất ấy lâu rồi. Chúng đã có đủ số liệu cùng nhửng tên tuổi của từng cấp, lớp do chính chúng đào tạo theo hệ thống nô lệ từ mấy chục năm nay rồi. Theo đó, bạn và người dân Việt nên chuẩn bị làm nô lệ thì hợp lý hơn là tính đến chuyện bán nước, tranh ăn với chúng.

Lý do: Chúng không muốn chi cho qúa nhiều người, chỉ cần năm ba tên được chúng tuyển chọn mà thôi. Nói cách khác, bạn và người dân Việt chả nên nghĩ đến chuyện bán nước cho Tàu để hưởng lợi. Bởi chúng đã có danh sách do Hồ chí Minh, Lê Duẩn, Đặng xuân Khu và Phạm văn Đồng dâng biểu rồi. Bạn cứ an tâm chờ đeo vòng kim cô mà hưởng lộc!

Bạn đang ngủ gật, hay đang nằm mơ đấy. Chuyện này   đâu phải đến hôm nay mới lộ ra ngoài, Nhưng chúng đã thu xếp và công khai hóa ngay từ khi Hồ cướp chính quyền của Việt Nam vào ngày 2-9-1945. Chính Hồ kẻ đã dâng thư xác định với Mao trước khi đến Việt Nam.

Chính Hồ chí Minh đã khẳng định với Chu Ân Lai trước khi vào Việt Nam là: “Việt Nam và Trung  Quốc tuy hai mà một… Nếu giúp chúng tôi thắng Pháp, thắng Nhật, thắng tất cả bọn tư bản vùng Đông Nam Á, nắm được chính quyền, thì nợ viện trợ sẽ hoàn trả dưới mọi hình thức, kể cả cắt đất, cắt đảo, lùi biên giới nhượng lại cho Trung Quốc, chúng tôi cũng làm, để đền ơn đáp nghĩa….” Đó là một trong những lý do Hồ Hẹ  tuyên bố:“Mấy cái đảo hoang ngoài khơi đó của ai thì tôi không rõ lắm, nhưng cũng chỉ là mấy cồn đá hoang toàn phân chim ỉa. Nếu các đồng chí Trung Quốc muốn thì cứ cho họ đi.” (Hồ Chí Minh, trong HCM toàn tập).

Sau đó, Lê Duẩn đã xác nhận thực tế này khi qùy trước Mao và tuyên thề rằng: “ chúng tôi đánh miền nam là đánh cho Trung quốc, Liên Sô”. Từ đó, chuyện Hoàng Sa, Trương Sa theo văn bản của Phạm văn Đồng chỉ là một văn thư hành chánh xác định cho rõ sự việc mà thôi. Hơn thế, Việt cộng còn sửa soạn cả một kế sách lớn về văn hóa, chữ viết, để xin làm nô lệ cho Tàu cộng qua văn thư của Trường Chinh kêu gọi người Việt Nam bỏ chữ Quốc Ngữ mà học lấy chử Tàu từ đâu thập niên 1950.  Theo đó, chuyện Việt Nam trở thành phiên thuộc cho Tàu đâu có phải là nay mới bắt đầu! Nhưng nó đã khởi sự ngay từ khi Hồ Hẹ đặt chân vào phần đất của Việt Nam.

Chuyện là thế, nhưng bạn hãy hỏi xem, trong số 95 triệu ngườì dân Việt Nam hôm nay có bao nhiêu ngưòi đã đọc, nhớ và hiểu rành rẽ về là thư Trường Chinh thay mặt dân Việt Nam xin được làm nô lệ, phiên bang cho Tàu?

Bạn đừng bao giờ cho rằng cái thư ấy đã lỗi thời, đã lâu năm rồi, nó không có gía trị nhá. Thay vào đó, bạn nên nhớ rằng, đảng cộng sản mà Trường Chinh làm bí thư thứ nhất hồi đó cũng chính là đảng cộng sản mà Trường chinh đã làm Tổng bí thư kiêm trưởng ban tuyên huấn TU từ tháng 5- 1941. Rồi vào năm 1951 trong lần thứ hai mở đại hội của đảng cộng (đổi thành đảng Lao Dộng Việt Nam) Đăng xuân Khu lại được bầu làm TBT đảng cộng cho đến tháng 10-1956. Lần cuối lại giữ chân TBT rồi chủ tịch nước, từ 14-7-1986 đến 14-7-1987. Với các vai tuồng của Y như thế, cái văn bản khi xưa không khả dĩ vất vào xọt rác đâu.

Trái lại, nó còn được tập thể CS đương thời đặt lại vấn đề để đưa chữ Tàu, văn hóa Tàu vào học đường hôm nay do Phạm vũ Luận, ( bộ trưởng giáo dụcvà đào tạo của Việt cộng giai đoạn 2010-20160) nghiêm chỉnh thi hành .Và thêm tên cẩu nô tài Buì Hiền đã theo lệnh Tàu mà điều chỉnh, sửa và đổi chữ quốc ngữ của Việt Nam theo âm Tàu ngọng. Hỏi xem, Y tự ý làm hay theo lệnh từ nhà nước Tàu đây? Tôi không tin những kẻ này vì cơ đồ văn hóa Việt Nam, nhưng chúng chính là những tay sai của Tàu muốn tàn phá văn hóa và chữ viết riêng của Việt Nam chúng ta mà thôi.

Tôi cho rằng chỉ có một phương cách duy nhất. Nếu tất cả mọi người Việt Nam muốn phá tan cái ách Tàu cộng này thì chúng ta chỉ có một phương cách duy nhất. Tất cả cùng đứng dậy, nắm chặt lấy tay nhau mà đi. Máu sẽ đổ, nhưng chúng ta sẽ đạp đổ chế độ cộng sản này xuống. Từ đó, một nhà Việt Nam mới trong Công Lý và Hoà Bình sẽ được thiết lập. Chúng ta sẽ có Tự Do, đất nưóc này vĩnh viễn được bảo toàn trong Độc Lập và nền tảng Dân Chủ sẽ triển nở trên phần đất di sản của cha ông ta để lại cho chúng ta và con cháu chúng ta. Ngoài ra, nên theo con trẻ mà “ dắt dị xám….” đi là vừa.

Để kết.

Bạn đừng trách tôi, chiều cuối năm rồi mà tại sao tôi vẽ ra một bức tranh không một phấn khởi? Thưa bạn, thực tế sẽ là như thế đó. Nơi đó không cho chúng ta một chỉ dẫn nào khác. Trái lại, tất cả những sự kiện hiện hửu đều cho chúng ta thấy tương lai của Việt Nam là như thế hoặc tương đương, nên thật khó để nhìn thấy một chiều hướng khác. Buộc tôi phải viết ra một cái thực tế đáng quan ngại này. Chỉ còn hy vọng nhờ vào hồn thiêng sông núi mà thôi.

Tuy thế, tôi viết ra không để khóc, nhưng để mọi người cùng thấy, hoặc giả, cùng mạnh dạn giải quyết, chứ không phải để ủ rủ, chờ nó phủ ụp xuống trên đời chúng ta và con cháu chúng ta. Nghĩa là, chúng ta có thể thoát được tai ách này hay không là do chính chúng ta chung tay tự quyết lấy hôm nay. Không ai có thể làm thay chúng ta đâu.

Bạn ạ, Giờ của năm cũ sắp qua. Ngày mới đang tới. Cầu mong hồn thiêng và anh linh của các bậc tiền nhân cùng về đây giúp dân ta giải cái ách nô lệ CS này, để ngàn năm sau, giòng giống Việt Nam vẫn làm chủ trong ngôi nhà do tiền dân gầy dựng và để lại cho cháu con hôm nay.

Bảo Giang.

chiều 31-12-2019.

Đăng tải tại Uncategorized | Bình luận về bài viết này