Các Chuyện Ngắn

 

 

 

Đi Trong Nước Mắt.

 

 

 

Con qùy xuống trên mảnh đất tha hương này,

Hướng về Nam cúi lạy Cha Mẹ,

Xin cha mẹ thương tha tội bất hiếu cho con.

Bùi xuân Vũ

 

 

 

Chuông gọi về quê đã điểm rồi,

Trần gian  tiễn biệt mẹ, cha ơi,

Đàn con nheo nhóc không nơi tựa,

Lũ cháu bơ vơ khóc đứng ngồi

Chín sáu Người đi tròn Phúc Đức

Trăm năm Trung Tín, Nghĩa soi đời,

Hiền Nhân mở lối vào miên viễn.

Để lại dương gian một nụ cười.

 

Viết cho một ghi nhớ trong gia đình tôi.

 

Ông Thìn hết đứng trên hè, lại bước ra sân. Cảnh  chiều êm ả ở miên quê Thái Bình bỗng dưng gieo vào lòng ông những âm vang khác lạ. Ông ngước nhìn quanh, ngoài đường vẫn có năm ba bóng hình quen thuộc gồng gánh với đôi chân mỏi. Trên cao, trời không xanh, thay vào đó là những đám mây xám như vội vã uốn mình gọi nhau làm mưa. Rồi gió về cho đọt lá, hàng cây trước nhà thêm nghiêng ngả. Cho những cánh chim vội vã tìm nơi trú ẩn. Thường thì cảnh chiều như thế chẳng mấy khi đem đến cho ông một lo nghĩ gì thêm ngoài việc tính toán cho công việc của ngày mùa. Nhưng hôm nay, trên nét mặt của người đàn ông ngoài bốn mươi bỗng có thêm nhiều nếp nhăn. Nếp nhăn không do ngày tháng tạo ra, nhưng do những biến động của thời cuộc. Ông đang phải đối diện với một câu hỏi không dễ trả lời: Sẽ đưa gia đình di cư vào nam hay ở lại với mảnh vườn của tổ tiên?

 

Thật ra câu hỏi này lúc đầu chỉ làm cho ông giật mình, nhưng càng lúc càng đẩy ông vào trong yên lặng, khó nghĩ. Ông yên lặng ngay trước những tiếng cười đùa của lũ con. Thấy vậy bà Thìn bước ra sân:

 

-Ông lo lắng làm gì cho nó nhọc trí. Dân làng đã quyết định đi thì mình cũng đi!

Ông quay lại, đáp chậm rãi:

– Ai chả biết là như thế, nhưng tay xách nách mang lấy gì mà nuôi chúng nó lớn lên đây?

– Giời sinh voi, giời sinh cỏ ông ạ. Có lo cũng chẳng đi đến đâu. Đã thế, chỉ làm khổ chính mình.

 

Ông Thìn nhìn vợ khá lâu rồi bước quay vào. Trong những bước quay vào ấy, ông đã hiểu rõ được lòng của người bạn đời. Bà muốn gia nhập vào đoàn người di cư vào nam tìm tự do thay vì ở lại. Ông chấp nhận, rồi bụng bảo dạ, chuyện đến đâu thì hay đến đó.

 

Theo quyết định này, ông Thìn đã từ giã Thái Bình, nơi ông đã được sinh ra và lớn lên. Lúc lớn lên ông đã gia nhập vào đoàn quân tự vệ giữ làng giữ nước, giữ lấy quê hương Việt Nam. Dĩ nhiên, trong đó có cả ý hướng là giữ lấy phần mồ mả, sản nghiệp của tổ tiên. Nói là phần sản nghiệp của tổ tiên cho nó có tiếng vậy,  trong thực tế, phần gia sản riêng ấy chẳng lấy gì làm to tát cho lắm. Ngoài phần mộ mang tính cách thiêng liêng của cha ông truyền lại,  gia sản của ông lúc bấy giờ chỉ bao gồm vài mẫu ruộng, vàì con trâu, hai bàn máy may công nghệ hiệu Singer, và căn nhà năm gian làm bằng gỗ lim, mái ngói đỏ. Tuy thế, khi nghĩ đến chuyện phải ra đi, ông  thấy như đứt ra từng khúc ruột, và nước mắt của ông đã nhỏ xuống khi ông bước qua cái ngưỡng cửa căn nhà đầy yêu thương mà không hẹn được ngày trở về.

 

Rồi trên mảnh đất mới tại Xuân Lộc, ông cùng bao người dân di cư khác đã bắt đầu vươn lên trong cuộc sống mới. Khi những người cùng trang lứa với ông đứng vững, thì những thế hệ trước đã bắt đầu nằm xuống trong lòng đất mới. Đất mới này lại biến thành quê hương  của ông và những thế hệ đến sau nhận làm nơi chôn nhau cắt rốn. Cứ thế, chuyện đời cứ nối tiếp theo nhau. Theo nhau nhiều khi lại không ưng ý. Mà ưng ý thế nào được khi những chuyến đi của thế hệ trước đã phải chôn vào lòng đất với họ một giấc mơ nhỏ bé. Giấc mơ được một lần trở lại thăm  quê xưa! Két qủa, chí có tiếng dặn con cho ngày về. Phần họ, chuyện ấy là không. Riêng lớp tuổi như ông Thìn, vẫn hy vọng rằng đời mình may ra  có được cái may mắn ấy trước khi qúa trễ chăng?

 

Tuy nhiên, đó chỉ là mộng. Bởi vì, lòng ông đang có một giao động lớn! Ông lặng yên một lúc thật lâu rồi bảo ngưòi con lớn:

 

– Vào quân đội thì chẳng mấy người muốn, nhưng trong thời chiến thì đây là một bổn phận chẳng trừ ai. Thôi, con cứ đi đi…

Nghe ông nói thế, bà Thìn nhổm người lên:

– Ông nói hay nhỉ, đã không lo chạy chữa cho nó, còn bảo nó đi là nghĩa lý gi?

Ông  thở  ra một hơi thật dài:

– Ai cũng tính đến chuyện gởi con gởi cháu, tính đến việc trốn tránh nhiệm vụ. Khi chúng đã vào đến đây thì chạy đi đâu, lên thiên đàng chăng?

Ông chưa dứt lời,  bà Thìn đâm ra gắt gỏng:

– Ộng cứ ngồi ở đấy mà vẽ chuyện. Phải… bà kéo cái giọng nói cho dài ra: Quốc gia hưng vong thì thất phu hữu trách. Sách ấy thì ai chả thuộc. Nhưng chỉ có hàng thất phu, hạng không quan không quyền, hạng nông dân áo vải, hạng không có tiền bạc, không thân không thế như mình mới phải có trách nhiệm thôi. Còn những kẻ ăn trên ngồi tróc thì … miễn.  Ông không mở mắt ra mà xem, bọn con quan quyền kia, có đứa nào phải ra trận không? Ông không muốn lo cho nó thì để tôi lo!

 

Nói xong, bà giận dỗi bỏ đi. Phần ông, ông ngồi lặng thinh trên ghế, quên cả việc đưa mắt nhìn theo dáng đứa con lớn của ông vừa đứng dậy.

 

Đến sau khi thằng lớn đã vào quân đội, chuyện bà Thìn giận ông cũng bằng thừa. Bởi lẽ, chẳng bao lâu sau đến phiên thằng kế.  Ông lại lặng lẽ để con lên đường. Khi tin thằng em bị thương về đến nhà, bà Thìn khóc như nó đã mặc áo phủ màu cờ. Lúc ấy, bà không quên ra lời trách cứ ông. Ông Thìn vẫn lặng yên…

 

Đến khi đứa lớn, đứa nhỏ  kéo nhau trở về tay không. Ông Thìn chỉ còn lại đôi mắt trắng và những đêm mất ngủ. Lúc ấy, bà cũng quên luôn tiếng cười, nhỏ nhẹ hỏi ông:

– Bây giờ mình tính làm sao hả ông?

– Còn tính với toán gì nữa. Tổ đã vỡ làm sao tránh được trứng bể. Cuộc trả thù rửa hận này chắc chẳng bao lâu sẽ đến.

 

Đã vỡ mật, nghe được câu lý giải của chồng, hai hàm răng bà Thìn đánh vào nhau nghe cầm cập.

 

Gặp lúc hạn, cỏ đồng khô, hồ  cạn nước, con ông lại được Việt cộng ưu ái đón vào tù mà chúng hoa mỹ gọi là học tập cải tạo. Đến lúc ấy, bà Thìn mới thật sự dở khóc dở cười. Lúc trước, bà cũng khóc khi tiễn con ra chiến trường. Nhưng trong nước mắt ấy còn có niềm hy vọng được ôm lại đàn con trong vòng tay. Lúc này, chỉ còn là nước mắt thống khổ. Bởi vì con của bà bị giao vào tay bọn Hồ ly Việt cộng thì biết ngày nào ra. Riêng ông, ông lại cho rằng đây vẫn chưa phải là cái tai họa cuối mà Hồ ly giáng xuống cho người dân trong thời lá đỏ.

 

Kịp đến ngày 02-8-1977, mặt trời như đi ngủ sớm vì mây giăng làm mưa. Cảnh trời buồn, khó tìm được niềm vui. Nhưng trong nhà ông Thìn bỗng có tiếng cười nói xôn sao khác với vài tuần lễ nay. Lý do, ông Thìn đã bình phục chứng sơ gan và trở về nhà sau hơn hai tuần lễ nằm điều trị tại bệnh viện Sùng Chính, Sài Gòn. Lúc ông về, bà  mừng ra mặt, lũ con huyên thuyên bên mâm cơm trong chiều đoàn tụ.

 

Ông Thìn ngồi xuống cái ghế quen thuộc của ông đặt ở đầu bàn ăn. Bên tay trái của ông là Bà Thìn, tay mặt ông là đứa con trai út, kế đó là mấy người con gái của ông đang lo sắp chén bát, hoặc bày thức ăn lên trên bàn.

 

– Nhà này có mấy người. Tất cả ngồi im. Không ai được di chuyển. Trái lệnh, bắn tại chỗ!

 

Lao vụt vào trong nhà theo cái giọng lạnh lùng, dao cắt ấy là những bóng hình chao đảo dưới ánh đèn đêm nom như những bóng ma. Nhưng sự thật đó không phải là những bóng ma. Chúng là Việt cộng,  là công an, là bộ đội của Hồ chí Minh được trang bị dưới mỹ từ  “cách mạng”, “giải phóng” lao vào nhà dân mà không cấn gõ cửa đấy. Viết về chúng, dĩ nhiên, chả cần phải giải thích thêm về cụm từ giải phóng, cách mạng của chúng làm gì. Bởi vì, từ mấy chục năm nay, người dân Việt Nam đã từng nhìn thấy và biết rõ kết quả sau khi cán cộng xuất hiện.  Không có một nhà nào, nơi nào còn được vẹn toàn, bình yên sau khi chúng đến và đi.  Bởi thế người đời có câu:

 

Nơi nào cờ đỏ vẽ sao,

Người dân khốn khổ lao đao bỏ đời.

 

Đêm nay, đêm 02-8-1977 tại tư gia ông Thìn thuộc quận Xuân Lộc cũng không có ngoại lệ. Bọn Hồ ly  Việt cộng lăm lăm những cây súng của bọn Nga, Tàu trên tay và dí xát vào từng người có mặt trong căn phòng ăn. Chỉ trong thoáng mắt, căn phòng chật ních những nhân sự gọi là đoàn quân giải phóng nhân dân của Việt cộng. Sau đó chúng hô hóan nhau, tỏa ra khắp nhà. Từ sân trước đến sân sau, cả trong nhà bếp, không còn một chỗ trống.

 

Riêng cái sân rộng trước nhà cũng có vấn đề. Vài con chó vẫn thường hiên ngang, to mồm chiếm giữ như là phần đất riêng. Trước đây, chúng luôn tranh thắng khi có người khách lạ vào thăm gia chủ. Lúc này đụng phải… anh em, bạn nối khố của Hồ chí Minh, bầy chó  hoảng vía, vỡ mật. Chúng  kêu không thành tiếng, tán loạn bỏ chạy và nhường khu đất của chúng lại cho người anh em Việt cộng mạnh thế hơn chiếm giữ.

 

Trong khi đó, quanh mâm cơm chiều trong phòng ăn chỉ còn những đôi mắt trắng nhìn nhau với hơi thở không đều nhịp. Chẳng ai dự đoán được chuyện gì sẽ xảy ra. Ông bà Thìn và các con đều đổ dồn đôi mắt lên người con trai út. Lo âu:

– Anh này là ai, tên gì?

Giọng nói lạnh, xé vỡ toang sự yên lặng ghê rợn vừa phát ra tứ  một khuôn mặt đen đủi. Tôi yên lặng, bà Thìn trả lời thay con:

– Nó là con tôi.

– Yêu cầu anh đứng lên nghe đọc pháp lệnh nhà nước.

Như một bánh xe xì hơi, tôi nhìn quanh, bủn rủn chống tay lên mặt bàn, đứng dậy. Cùng lúc ấy, Tấn một tên công an Việt cộng nổi tiếng hắc đạo khác ở quận Xuân Lộc, kẻ mà tôi đã từng biết mặt, gặp gỡ vài lần, vội lao vào, hỏi như hét:

– Chìa khóa chiếc xe Toyota đâu?

Tôi quay nhìn nó, đáp gọn:

– Để ở trên bàn của tôi.

Chưa nghe dứt câu trả lời, Tấn đã vào căn buồng riêng của tôi, chộp lấy chùm chìa khóa nhà, trong đó có chìa khóa chiếc xe Toyota của ông Thìn, nó cười như một kẻ chiến thắng. Không thêm không bớt một lời, nó ra khỏi nhà và lái chiếc xe đi như là chủ nhân của chiếc xe. Từ đó chiếc xe không bao giờ còn được trở lại với gia đình ông nữa.

 

Cùng với diễn tiến đột xuất và nhanh chóng của Tấn, kẻ hỏi tên tôi lúc trước, hắng dặng, vào đề:

– Tôi là Vũ hồng Thống, cán bộ chấp pháp huyện Xuân lộc, thay mặt công an tỉnh Đồng Nai, đại diện công an thành phố và chính quyên nhân dân sẽ long trọng đọc pháp lệnh của nhà nước, yêu cầu anh nghe và nghiêm chỉnh chấp hành. Đề nghị đồng chí Côn, chủ tịch khu xóm đứng làm chứng trong vụ việc này.

 

“Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam .

 Độc lập tự do ấm no hạnh phúc.

Pháp lệnh.

 

Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truyền lệnh khám xét và bắt giam khẩn cấp ông Bùi văn Thìn 64 tuổi hiện ngụ tại khu,  ầp, xã, huyện Xuân Lộc Tỉnh Đồng Nai  về tội chứa chấp người và làm cơ sở chỉ đạo Phong Tráo Cách Mạng Dân Tộc với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Lệnh khám xét và bắt giam khẩn cấp này phải được thi hành ngay lập tức.

Sở Công an thành phố. ấn ký.

 

Gió rừng Xuân Lộc vốn lạnh vào những ngày tháng tám, khi đứng nghe Thống đọc bản văn mà những đường chân tóc tôi nghe rờn rợn hơn. Đôi mắt tôi bỗng đổ ụp xuống trên người cha già. Cùng lúc ấy, bà Thìn hoảng hốt , bật khóc, ôm chặt lấy chồng. Các cô con gái của ông cùng làm theo mẹ. Ông Thìn rũ người xuống, đầu gối trên cánh tay để trên mặt bàn.

 

Phần tôi trong nỗi uất nghẹn, nước mắt cũng tuôn rơi trên mặt. Nhưng thật nhanh, tôi hiểu được toàn bộ vấn đề. Việt cộng bắt ba tôi, có nghĩa là những liên hệ của gia đình này vào tổ chức bị đánh giá rất nhẹ. Chúng chỉ muốn cướp những chiếc xe của gia đình ông hơn là biết rõ về mặt tổ chức. Tôi nhìn Côn, đôi mắt Côn không cho câu trả lời. Hơn thế, người trưởng khu xóm này hoàn toàn bị động. Nghĩa là anh ta cũng không biết gì khác ngoài việc làm hướng dẫn viên cho Việt cộng đến nhà ông Thìn vào buổi tối hôm ấy.

 

–        Anh đi theo tôi để thi hành lệnh khám xét nhà. Đề nghị anh trưởng khóm cùng đi để lập biên bản tại chỗ.

 

Bảo đứng dậy như cái xác không hồn, bà Thìn kéo tay con dặn. Con để ý cái vali của mẹ. Bảo hiểu ý, gật đầu. Ngoài trời chỉ còn lại bóng đêm. Trong nhà, mấy cái đèn được thắp lên, nhưng dĩ nhiên, không đủ sáng để ngăn những kẻ đi ăn cướp đêm hành nghề. Bảo quay lại nói với Côn:

– Anh đi theo tôi, và nhớ bảo quản tài sản cho giai đình tôi.

– Được, anh cứ yên trí.

Như thêm vững bụng, tôi đứng lại,  bảo Thống:

– Vì trời quá tối, đề nghị nhân viên của anh không được tư tiện đi lại trong nhà. Tôi chỉ chấp nhận những gì anh khám xét thấy khi có mặt tôi và anh chủ ấp mà thôi.

Chẳng hiểu nghĩ gì, hắn quay lại bảo lũ lâu la:

-Các đồng chí có phận sự khám xét đi theo tôi, các đồng chí khác bảo vệ an toàn bên ngoài.

 

Cuộc khám xét nhà chấm dứt vào khoảng 11 giờ đêm. Những bạn cố tri của Hồ chí Minh lùi lũi ra khỏi nhà như những bóng ma đêm với một xấp giấy tờ cá nhân của Bảo. Nó bao gồm học bạ, bằng cấp từ tiểu học đến Đại Học, cả bản chính và bản phiên dịch ra ngoại ngữ đều được chúng nghiêm trọng bảo vệ. Lý do, chúng tin chắc rằng đây là những tài liệu tối mật của CIA còn để lại, mà gia đình ông Thìn có bổn phận phải phát tán và cất giữ.

 

Khi có lệnh của Thống đưa ông Thìn ra xe thì ông đã nằm bất động như cái xác không hồn ở trên giường. Da mặt ông tái nhợt dưới ánh đèn mờ với hơi thở yếu và mệt nhọc. Nói cho ngay, sau vài tuần nằm viện mấy ai trở về nhà mà khỏe lại ngay. Đã thế, lại rơi vào trường hợp như ông Thìn đêm nay, nếu ông có… đi luôn trong đêm ấy cũng là chuyện vẫn có thể xảy ra. Theo đó, bà Thìn rồi lũ con quỳ xụp xuống quanh chiếc giường ông đang nằm như để nghe lời trăn trối của ông. Riêng Thống, gã vẫn đứng bất động  trước cảnh tượng này. Bảo liều lĩnh đề nghị:

 

– Anh Thống,  anh có cách nào giúp. Ba tôi ở viện mới về, chén cháo chiều chưa kịp ăn…Nếu anh ra lệnh khiêng ba tôi ra xe, tôi e rằng …

– Anh thôi phát..

– Hay là… tôi xin đi thay ba tôi được không?

– Nhà nước không ra lệnh bắt anh.

– Nhưng ba tôi yếu qúa. Anh cho ba tôi qua  đêm ở nhà được không?

Thống trừng mắt nhìn Bảo:

– Ông ấy trốn đi thì tôi thế mạng à?

– Anh Thống, anh nghĩ ba tôi sẽ đi đâu? Ông ngồi dậy không nổi mà còn lo trốn đi đâu? Hơn thế tôi đây, mẹ và cả các em tôi còn đây.

Thấy Thống im lặng, bà Thìn nói chen vào.

– Anh Côn, xin anh nói giúp bác vài nhời…

Côn gật đầu, kéo Thống ra ngoài nói chuyện khoảng chừng dứt điếu thuốc, gã quay vào:

– Anh có bảo đảm bằng tính mệnh là ba anh không bỏ trốn đi hay không?

– Tôi xin bảo đảm và đi thế cho ba tôi.

– Nhà nước bắt bố anh chứ không phải ra lệnh bắt anh. Ngưng lại một chút, gã tiếp, Anh chủ ấp có đám bảo không?

– Báo cáo anh, tôi đảm bảo

– Ông ấy trốn đi là anh đi thế đấy?

– Báo cáo rõ..

Một lát sau,  Thống lạnh lùng:

– Anh có dám làm giấy bảo lãnh cho bố anh qua đêm không?

– Tôi, mẹ tôi và các em tôi đây xin đem sinh mạng ra mà trao đổi.

– Được, anh làm giấy đi.

Bảo mừng rỡ, viết vội tờ bảo chứng. Thống cầm tờ giấy bảo lãnh có ba chữ ký  rồi kéo nhau ra khỏi nhà ông Thìn…

.

Đêm đã xuống thật lâu. Ông Thìn như tỉnh dần lại. Ông gượng dậy ăn mấy thìa cháo. Ông chỉ nhìn vợ và các con thay cho lời nói. Một lúc sau, Bảo quỳ phục xuống chỗ ông ngồi, nắm lấy tay ông.

– Ba, con xin ba một điều được không?

Ông nhìn con, một lúc sau, gật đầu,

– Con muốn nói gì”

– Khi ba phải ra đồn công an, con chỉ xin ba một điều duy nhất, ba khai với chúng là ba không biết đọc không biết viết thôi, được không ba?

Chẳng hiểu đứa con tính toán ra sao, nhưng ông gật đầu bảo:

– Được, cái ấy thì làm được.

– Con xin cám on ba. Ba cứ yên tâm giữ gìn sức khỏe, mọi chuyện ở nhà con sẽ phụ giúp với mẹ và các em. Và mẹ, các em nữa, phải nhớ rõ một điều là chỉ có chú Tư ở nhà minh thôi. Nhớ là không có ông Linh Mục Nguyễn Huy Chương nào hết.

Chừng nghe con nói thế, ông Thìn nắm lấy tay con.

–        Chả còn cách nào hơn!

Đêm ấy, gia đình ông quây quần bên nhau chờ trời sáng và sắp sẵn nhiều phương hướng dự trù cho cả nhà.

 

Sáng hôm sau, chín giờ sáng Bảo và ông Thìn ra đến đồn công an Xuân Lộc trên chiếc xe Lambretta ba bánh, là  chiếc xe mà gia đình dùng làm phương tiện sinh sống từ nhiều năm qua trong việc  chuyên chở hàng hóa và hành khách đi chợ. Chẳng ai ngờ, hôm nay ngày 3-8-1977, chiếc xe Lambretta 750 này lại  biến thành chiếc xe đưa ông vào tù. Trên chuyến xe đưa ông Thìn vào tù hôm đó còn có Linh, cháu của ông, làm tài xế chiếc xe.

 

Tiễn chân ông Thìn ra tận chiếc xe của gia đình là bà Thìn và các con cháu của ông và một số thân nhân, lối xóm. Mấy đứa con ông đòi lên xe theo cha, nhưng ông, rồi Bảo đều khuyên họ nên ở nhà. Dĩ nhiên, tất cả những người có mặt tại hiện trường đều không ai cầm được nước mắt. Hơn thế, chẳng một ai hiểu được lý do tại sao ông lại vị bắt. Riêng người anh rể của ông, vì qúa thương em mà quay ra trách ông:

 

– Đã bảo rồi, chúng nó đã về thì lo bán bớt xe cộ đi, cũng không nghe, bây giờ thì  rước họa vào ngùơi. Nói xong, ông dấu lệ quay vào. …

 

Vũ hồng Thống đón Bào và ông Thìn bằng cái nhìn rất khó hiểu. Nó đi quanh chiếc xe Lambretta một vòng rồi lấy cái bàn chân có dính đôi dép râu Hồ chí Minh đạp vào cái  bánh xe một cái:

– Chiếc xe này chuyên dùng để chở tài liệu và  vũ khí chống cách mạng đây!

Những người có mặt chưa hiểu Thống muốn nói gi. Nó hất cằm ra lệnh:

– Anh đưa chìa khóa xe cho tôi. Bảo vệ đâu, đưa ông này vào trong.

Bảo ngỡ ngàng ôm chặt lấy ông Thìn:

– Ba… ba giữ gìn sức khỏe nha.

Linh thì khóc òa lên:

– Con cầu cho ông được khỏe mạnh và trở về với chúng con.

Ông gật đầu nắm lấy tay Linh:

– Cám ơn các anh. Ông sẽ về mà…

Khi  bóng ông Thìn khuất sau cánh của tù. Thống quay gót:

– Anh về đi, chiếc xe này tạm thời phải được giữ lại để làm điều tra.

Bảo nhìn gã:

– Trong pháp lệnh bắt ba tôi, không có lệnh giữ tài sản, yêu cầu anh trả chìa khóa chiếc xe này và cả chiếc xe Toyota lại cho tôi. Tôi yêu cầu anh trả tất cả những giấy tờ tuỳ thân của tôi lại cho tôi.

Nó cười mất dạy như Việt cộng:

– Muốn lấy lại tang vật à? Vào trong trong tù mà lấy!

 

Nghe thế, Linh kéo Bảo ra khỏi đồn công an Xuân Lộc:

– Đi đi chú, tiếc làm gì những thứ ấy nữa…

 

Khoảng mười giờ sáng ngày 8-8-1977 khi được dẫn từ phòng cải hối đến nhà vệ sinh công cộng ở khu trại giam, Bảo trông thấy ông Thìn ở gần đó. Ông không ở trong trại giam, nhưng Thống cho ông ở chung dãy nhà với mấy anh em thuộc đội anh nuôi (đã viết trong Lá Đổi Mùa). Thấy ông, Bảo gật nhẹ đầu. Ông hiểu ý đứng lên. Rồi cả hai, người trước ngưòi sau  đi vào khu nhà vệ sinh làm dã chiến ở ngoài trời.  Ngồi cách nhau một tấm tre đan.

– Ba có khỏe không ba?

Ông Thìn nhìn con, Bảo tiếp:

– Ba ăn được không?

– Cũng được một chút đỉnh. Nó cũng bắt con rồi à?

– Vâng, đã bốn hôm rồi. Chú Tư và  nhiều người khác cũng đã bị bắt.

 

Chú Tư là tên gọi Linh Mục Nguyễn Huy Chương trong lúc Ngài sống tại nhà ông Thìn. LM Chương là cha sở Bình Đông, còn gọi là Bốn Chương, người thư ký của Đức Cha Lê Hữu Từ, một cánh tay của Đức Cha Lê trong tổng bộ chỉ huy tự vệ Bùi Chu, Phú Nhai. Ngài là cựu dân biểu thời Đệ Nhất Cộng Hòa, và cũng là thành viên đồng sáng lập và lãnh đạo Phong Trào Thanh Niên Lam Sơn, tiền thân của Lực Lượng Đại Đoàn Kết với Linh Mục Hoàng Quỳnh.

 

LM Hoàng Quỳnh và LM Nguyễn Huy Chương đều từ chối bỏ giáo xứ và bỏ con chiên để di tản, dù rằng có ít nhất hai chuyến trực thăng đáp xuống ngay trước sân nhà thờ vào những ngày cuối tháng tư năm 1975. Nhưng cả hai đã phải trốn và bỏ lại giáo xứ và con chiên sau vụ nhà thờ Quang Minh.

 

Linh Mục Hoàng Quỳnh bị bắt trươc  LM Chương khoảng 8 tháng, Ngài đã chết trong trại tù Chí Hòa, (tôi không rõ ngày tháng) vì không chịu nổi những hành hình trấn áp của Việt cộng. Cùng bị bắt chung một lươt với Linh Mục Nguyễn Huy Chương là quý Linh Mục Nguyễn Võ Trang, Chánh xứ nhà thờ Thánh Giuse Hố Nai, Linh Mục Đinh Công Huỳnh, phó xứ Bình An. Linh Mục Mai văn Bộ, Trung Tâm Fatima Bình Lợi… Ngoài ra còn có Bác Sỹ Nguyễn tấn Chức, Trưởng Phong Trào Pax Romana Việt Nam, một số luật gia, thầy giáo và  mấy người con trai của ông Bùi văn Thìn. Một ngươi là cựu quân nhân QLVNCH, anh đã chết vào năm 1989 sau khi ra khỏi tù đươc ít năm. Linh Mục Nguyễn huy Chương bị kết án khổ sai chung thân, và Ngài đã chết ở trong trại tù Phú Khánh, Phú Yên. Linh Mục Nguyễn Huy Chương và ông Bùi văn Thìn không có quan hệ trước năm 75, nhưng ông biết và có liên hệ khá thân với Linh Mục Nguyễn võ Trang là cháu ruột Linh Mục Nguyễn huy Chương. Ông Bùi văn Thìn nhận lời gởi gắm của LM Trang, và đón LM Nguyễn Huy Chương về sống trong gia đình ông như là anh em ở ngoài Bắc vào thăm. Sau một thời gian dài, việc hoạt động của Ngài bại lộ và  gia đình ông Thìn bị vạ lây vào tối ngày 02-8-1977.

 

Khi nghe kể, ông Thìn thở dài. Ông nhìn lơ đãng lên không  như để chấp nhận một sự thật phũ phàng hơn là những hy vọng của ông trong mấy ngày qua. Nói cho ngay, mấy ngày qua, không phải là ông Thìn không lo. Tuy nhiên, ông vẫn hy vọng LM Chương sẽ thoát vòng lao ly. Kế đến, nếu Bảo không bị bắt thì ông cũng trút được một phần gánh nặng từ gia đình. Riêng chứng bệnh của ông thì gởi cho trời liệu định.

 

Tưởng cũng nên mở dấu ngoặc về cảnh sống rất đặc biệt của ông Thìn ở trong tù. Sau khi giải giao ông Thìn vào trại giam, chẳng hiểu nghĩ gì, Vũ hồng Thống để cho ông ở chung  với mấy nhân viên bảo vệ trại và anh nuôi ở  trong một dãy nhà thật rộng rãi ngay trước dãy nhà dùng làm trại giam, thay vì tống ông vào trại giam chật ních người tù. Ở đây, nhờ có không khí thoáng mát, và nhờ mấy người bảo vệ trẻ, mà  đa số thành Việt cộng vì gia đình có liên hệ với tổ chức này hơn là do bản thân họ tham gia trước kia. Theo đó, họ chưa thành những tên sát thủ nợ máu với nhân dân như Việt cộng. Đã thế, họ được lớn lên trong sự giáo hóa của miền nam, bản tính lương thiện trong người hãy còn, nên chưa thể một sớm một chiều thay áo, đổi lốt thành những Hồ ly Việt cộng. Đặc biệt, có đến bốn, năm  người trong nhóm bảo vệ này vẫn thường ra vào nhà ông Thìn trước kia để mua hàng hóa, trái cây. Lúc đầu họ e dè trong giao tiếp, nhưng ít lâu sau là tận tình giúp ông từ miếng ăn đến giấc ngủ. Có người về tận nhà ông để lấy đồ tiếp tế và thuốc uống cho ông. Nhờ đó, ông cũng nguôi ngoai phần nào nỗi buồn. Nhưng nay nhìn thấy con đã ở trong tù, lại nghe tin dữ, nỗi thất vọng hoàn toàn chiếm lấy ông:

 

– Vậy thì hỏng . Mẹ con và mấy đứa nhỏ cũng khó mà tránh vạ lây.

Dĩ nhiên là Bảo không thể trả lời đựơc câu hỏi này, anh đành nói với ông:

– Thôi, ba cứ ráng giữ gìn lấy sức khỏe của ba. Chuyện ở nhà có mẹ và các em con. Chuyện trong này thì phó thác cho giời đất vậy. Muốn đến đâu thì đến. Nếu chúng hỏi gì, ba cứ bảo là không biết kể cả việc không biết đọc không biết viết là xong. Việc chú Tư ba cứ nhận là có cho chú ấy ở nhờ dưỡng bệnh, nhưng không hề biết ông ta là Linh Mục. Bởi vì  con của ông đưa về,  bảo là thày dạy của nó bị bệnh muốn nhờ nơi yên tịnh để dưỡng bịnh mấy hôm. Nhìn thấy cảnh đáng thương thì ba cho ở nhờ mà chữa bệnh.

 

Ông gật đầu:

– Đành vậy!

Bảo chưa nói xong câu chuyện, người bảo vệ đến dục:

– Anh làm gì lâu thế, yêu cầu trở về phòng.

Bảo vội nói với ông Thìn.

– Ba nhớ giữ gìn sức khỏe nhá.

Ông gật đầu và nhìn con đi theo người bảo vệ về cải hối.( phòng biệt giam)

 

Sau hơn một tháng bị biệt giam (ăn, ngủ, ị tại chỗ) Bảo được chuyển về B5, Biên Hòa, ông Thìn không một hay biết. Mãi sau này một người bảo vệ có nhiệm vụ mang cơm, nước cho  phòng biệt giam báo cho ông biết tin. Từ đó, bước chân ông thêm lẻ loi và đếm ngày một thêm dài ra. Nhưng bất ngờ, khoảng giữa tháng mười một, Vũ Hồng Thống lại gọi ôngg lên:

– Ông không biết đọc, không biết viết thật à?

– Ơ hay, tôi nói dối các ông làm gì?

Nghe thế, Thống bước hẳn vào phòng hỏi cung, ra lệnh:

– Thôi được, đọc cho ông ta nghe bản tự thú và yêu cầu ông ta lăn tay vào đấy!

– Ông nghe rõ rồi đấy. Cán bộ chấp pháp đã lệnh thế thì tôi đọc đây, ông liệu mà nghe cho rõ vào. Đây là bản ghi chép những tội trạng mà ông đã cung khai, tôi đọc cho ông nghe lần nữa và yêu cầu ông lăn tay vào đây cho tôi.

Ông Thìn bảo Vũ hồng Thống:

– Việc ấy thì e rằng không làm được các ông ạ. Không phải là tôi không tin ông, nhưng chữ nghĩa không biết thì nó khổ thế đấy. Hay là ông cho gọi con tôi ra và bảo nó đọc cho tôi nghe thì có lẽ tôi mới dám lăn tay vào đấy.

 

Thống trợn ngược đôi mắt lên, gã bước ra khỏi phòng  và để  mặc ông Thìn ngồi đó với chồng giấy  trước mặt. Sáng hôm sau, nhà ông Thìn lại lên cơn sốt, mẹ con bà Thìn ôm lấy nhau mà khóc khi Vũ hồng Thống sai bảo vệ đem xe deep vào tận nhà ông Thìn chở hai người con gái của ông ra đồn công an. Vì không được thông báo lý do, mẹ con bà Thìn tưởng rằng, chúng theo kế hoạch sẽ lần lượt bắt từng người, từng người trong gia đình bà. Bà kêu trời, than đất, trong lúc vài đứa em nhỏ lại vội vàng vơ lấy vài ba cái quần áo cho hai chị mang vào tù. Mãi đến khi gặp ông Thìn, biết rõ lý do được mời ra đồn công an, hai người con gái của ông Thìn vẫn còn run quýnh cả tay chân.

 

Sau vài câu hỏi thăm, Thống ra lệnh cho Lan đọc bản tự khai của ông Thìn, trong lúc cô em khác ngồi ôm chặt lấy cánh tay ông.  Sau mỗi trang, Thống cho đánh dấu, ghi tên người đọc và ông Thìn lăn tay vào đó. Qua trưa, xe công an lại chở hai người con ông trở về. Mẹ con bà lại òa lên khóc. Đầu tháng 12-1977 ông được trả tự do, trong nước mắt ngập tràn của bà  Thìn…

 

Rồi hơn năm sau khi gặp lại con, ông Thìn vui, nhưng vẫn lặng lẽ. Cuối cùng ông bảo:

– Con liệu lấy đường mà đi thì hơn!

– Ý ba như thế à?

– Có lẽ không còn cách nào hay hơn. Anh con còn ở trong tù, ngày về chưa có. Con có ở nhà, có muốn sống với mảnh đất và cái nghề nông này cũng không yên. Theo ba, con nên tìm lấy con đường khác thì hay hơn.

 

Biết không thể ở lại,  và theo lời ông, Bảo quyết định ra đi. Đầu năm 81, Bảo đi. Nhưng người yêu dấu lâu rồi không gặp, lại cũng không có dịp giải thìch lý do. Hờn dỗi, đứng trong hàng rào. Nàng ở lại, làm cuộc chia ly thêm nước mắt. Năm 1990, bà Thìn bỏ ông  mà vào cõi vô tận. Mười năm sau, sau khi bà Thìn ra đi, ông Thìn lại làm một chuyến đi không bao giờ có trong ý định của ông. Ông đi du lịch để thăm con. Trong đêm tái ngộ, Bảo đã hỏi ông:

 

– Ba có muốn ở lại đây với con luôn không?

– Không, ba đi thăm con thế này là đủ rồi. Ba đả thỏa ước nguyện của Mẹ con khi ba gặp  các con rồi. Ở đây với con ít ngày rồi ba sẽ trở về nhà. Ba sẽ sống và chết với mảnh đất ấy.

– Ba có tiếc và ân hận về việc nuôi chú Tư (LM Nguyen Huy Chương) ở trong nhà mình một thời gian để ba vướng vào cái họa tù đày hay không?

– Thật lòng là ba không thấy hối hận về chuyện ấy. Ba chỉ tội cho chú ấy, vì việc chung mà phải gục ngã trong lao tù. Và tiếc là ngày chú ấy chết, ba không biết và không thể đi đưa tiễn thôi.

– Con cám ơn ba. Ngày mẹ con đi, con không về, xin ba tha thứ cho con.

Ông nói:

– Con không về được cũng không phải là một cái tội. Con có xem hình rồi,  ba có cho để năm cái tang  lên quan tài của mẹ con.

– Ba… con cám ơn ba đã thương con. Nhưng nếu… một ngày nào đó con vẫn chưa thể về thì sao? Ba có trách con không?

Nhìn con một lúc, ông nói:

–  Ba tưởng rằng con đã có chút khôn lớn, trưởng thành, biết phân tích nặng nhẹ, ai ngờ, cũng vẫn thói thế nhân thường tình!

Bảo gục đầu vào trong vòng tay của ông…

 

Ba tháng sau, ông Thìn lại quay về chốn xưa. Rồi nắng mưa mỗi ngày thêm đè nặng xuống thân tre già.Tuổi đời như nùi khổ tiếp tục đổ xuống trên đôi vai ông. Tre như trụi là mà ngày chờ một  dài. Ông vẫn chưa gặp lại đứa con nơi hải ngoại tại quê nhà. Điều an ủi cho ông, đứa cháu nội nơi tha hương đã vài lần về thăm ông thay cho bố nó. Nhìn thấy cháu, lòng ông lại quăn đau. Ông ôm nó vào lòng mà không nói nên câu. Ông bước vào tuổi 94. Trong ngày mừng Đại Thượng Thọ, gần như đủ mặt con cháu quy tụ bên ông. Ông thêm vui vì đứa cháu nội từ hải ngoại thay bố về chúc tuổi ông.  Với một niềm tin chưa giảm. Ông sẽ còn đủ sức chờ con về trong ngày hoan ca của đất nước, và rồi ông sẽ đi tảo mộ cho chú Tư. Ông bảo thế.

 

Nhưng mỗi ngày qua đi là một ngày Bảo thấy bất an. Những cuộc điện thoại viễn liên không đủ an lòng đứa con xa nhà. Có những đêm, Bảo giật mình choàng dậy vì tiếng điện thoại. Vội vàng chạy lao ra cầm lấy cái ông nghe. Khi nhấc lên, chuông reo đã tắt. Muốn cắt điện thoại trong đêm thì lại sợ. Kết qủa, có những đêm như kẻ điên, Bảo chửi toáng lên ở trong ống nghe khi đầu giây bên kia đã xin lỗi vì lộn số. Đêm thì thế, ngày cũng chăng an. Thôi thì quên được ngày nào thì hay ngày đó.

 

Mùng ba tết Mậu Tý, 2008, Bảo lại hỏi ông:

– Ba … năm nay cháu Ân không về, ba có nhớ nó không? Ba muốn chúng con về thăm ba không?

– Muốn thì ai chả muốn. Nhưng mẹ con đi rồi, ba không đi thăm nuôi con được nữa đâu!

– Ba…. Ba tha thứ cho con nhá!

– Lớn rồi thì nên làm những việc đáng làm… Ba đã vào cuối đời rồi… con ơi!  Lửa đèn nào mà không tắt… Các con hãy bảo nhau mà sống cho nên người là ba mừng rồi.  Nhớ lấy đấy,  nếu có dịp, con hãy về đắp mộ cho chú Tư thay cho ba nhá…

 

– Vâng…

 

Cho đến trưa nay, ngày thứ sáu 29-02-2008, nhằm ngày 23 tháng giêng, lúc 1giờ 15 phút, điện thoại lại réo vang

 

-…  Anh ơi…. Ba … Ba đã bỏ con cháu rồi… Anh ơi!

 

Chỉ bấy nhiêu thôi, nước mắt đã tràn xuống trên mặt tôi.

 

Đêm Vĩnh Biệt Cha.

 

 

………………………………………………………………………………………………………………

***************************************************************

 

Thăm con ngày xuân

 

 

Cuối cùng, ông Thịnh gật đầu bảo con gái:

– Nếu vậy, ba sẽ đi một chuyến. Con liệu đánh thư sang báo tin cho anh con biết.

Điệp tươi nét mặt, lấy bút giấy để lên bàn:

– Con viết thư báo tin đây, nhưng ba đừng đổi ý nhá?

– Ừ viết đi, nhớ dặn kỹ anh con là ba chỉ sang chơi mấy ngày thôi đấy!

Điệp cười hỏi lại ông Thịnh:

– Ba đi có mấy ngày thôi à?

– Vậy thôi, chứ đi làm gì lâu?

 

Nói thế là ông Thịnh đã mở hết khúc ruột ra, ông muốn cho con ông hiểu rằng đây là một chuyến đi chẳng đặng đừng. Nó như buộc ông vào cái thế không thể làm khác hơn được, nên ông phải đi.

 

Nhớ lại, hơn mười năm trước đây, vào một ngày cuối đông gần tắt nắng, ông Thịnh cũng đã một mình thẫn thờ bên khóm Mai gìa rụng lá với nỗi lòng khó giải. Tết nhất đã kề, hai thằng con trong cải tạo chưa một hy vọng trở về, lại thêm một thằng nhấp nhổm ra đi. Đứng trước cảnh giở khóc giở mếu này, ông Thịnh không biết sử trí ra sao nên đành phó mặc cho vận mệnh và cho một mình bà Thịnh soay trở. Một mặt, bà đôn thúc con cái làm đồ tiếp tế cho vài người con còn ở trong tù, Việt công gọi là trại cải tạo. Một mặt ngấm ngầm hỗ trợ chuyến ra đi của thằng con út. Đến khi mọi việc bước vào phút cuối, ông Thịnh lòng tan nát bước quay vào thay vì đứng trước cửa nhìn bóng con khuất dần nơi đầu ngõ.

 

– Đi thế này là… hết!

Bà Thịnh xót ruột nhìn con và nhìn ông bằng đôi mắt đỏ. Khi ấy, tự bà biết rõ điều than thở trong lòng ông có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, thay vì khóc cho khúc ruột chia lìa bà lại gạt dòng nước mắt trong hy vọng. Hy vọng từ chuyến đi này, con của bà có được một ngày mai khá hơn là cuộc sống với cái bi đát hiện tại. Trời đã không phụ niềm mong ước thầm kín của bà. Con bà đã có ngày mai, tuy nhiên, bà có thể phải trả một gía qúa đắt. Chả bao giờ bà còn nhìn thấy mặt nó nữa.

 

Chẳng bao lâu sau, Việt cộng lâm vào bước đường khốn cùng. Trên trường quốc tế, không một người bạn. Nhìn lại những đồng chí, chúng thấy toàn những kẻ thù. Từ sự kiện này chúng phải chấm dứt cảnh rình rập, tìm bắt người vượt biên, vượt biển. Thay vào đó là tận dụng mọi ngôn ngữ như lời tạ tội, để mở ra cái gọi là đổi mới và mở ra một chương trình không bao giờ có ở trong những cái đầu bằng gỗ ở Hà Nội: Đánh bóng Việt kiều là những người mà chúng đã to mồm kết tội, bắt bớ lúc họ tìm đường vượt biên, vượt biển trước kia như là những người con lỗi lạc của tổ quốc ở ngoài ngàn dặm. Sau đó, thiết tha khẩn khoản mời lớp người này về thăm quê hương, cũng như khuyến khích thân nhân của họ đi thăm khúc ruột ở ngoài vạn dặm xa.

 

Khi nghe câu chuyện đánh bóng, chả ai không bật cười. Bật cười vì cái thế lưỡi vốn dĩ không sương, lại thêm giống như cái đuôi bò, đuôi trâu phe phẩy đập ruồi, đập phân của nhà nước  Việt cộng. Tuy nhiên, đã có một số người về lại quê xưa để thăm cha mẹ bà con thân thuộc, lại cũng có người ra ngoại quốc để thăm con thăm cháu. Những chuyến đi này, dĩ nhiên, được hiểu và đánh gía là tình yêu thương của người Việt Nam trổi vượt hơn hẳn mọi sự gian nguy gỉa trả. Nó thách đố và thắng lướt hẳn cái cuồng bạo man rợ của việt cộng hơn là chuyện mắc mưu chúng.

 

Gia đình ông Thịnh không ngoại lệ, khi Vũ ra đi, những tưởng là miên viễn mất nhau. Không ngờ, đất trời còn ngoảnh mặt lại nên gia đình ông không tránh khỏi những nỗi bồn chồn, giao động. Đặc biệt, lúc bà Thịnh lâm bệnh nặng, không phải chỉ một mình bà mơ ước được nhìn thấy mặt đứa con trai út, nhưng toàn thể gia đình ông đã cầu mong được một lần sum họp vẹn toàn trước lúc bà ra đi. Kết qủa, có hai giải khăn tang đặt trên quan tài của bà thay thế cho hai người con vắng mặt. Một còn trong tù và một ở phía bên kia vòng bán cầu.

 

Sau khi bà Thịnh ra đi, ông Thịnh xuống nom thấy. Chiều chiều, ông thường thơ thẩn một mình trong quãng vắng lặng nhìn trời để đếm tháng năm qua. Nhưng tháng năm cứ như núi khổ tiếp tục đổ ập mối sầu xuống trên tuổi đời của ông. Ông không rằng không nói, ông kéo cái ghế dựa ra ngay trước cửa, rồi đặt vào một vị trí thuận tiện nhất. Ông muốn ngồi ở đó để nhìn ra đầu ngõ. Và ông đã ngồi ở đó bất kể ngày hay đêm. Thấy ông cứ một mình âm thầm lặng lẽ đợi chờ, Điệp, cô con gái của ông đã có lần bạo dạn bảo ông:

– Hay là ba sang bên chỗ anh chị ấy một chuyến.

Ông Thịnh nhìn vào cuối chân trời, không mấy hứng khởi:

– Ba đã gần 80 rồi. Còn vui thú gì nữa mà đi? Hơn nữa, đường xá xa xôi lắm!

– Vẫn biết đường xa, nhưng anh con không thể về, ba cứ ngồi ở nhà mà lo thì cũng chẳng đến đâu. Con nghĩ ba nên đi một lần cho biết. Trước là cha con gặp nhau, chuyện trò cho thỏa nỗi niềm nhớ thương, thắc mắc. Sau là có dịp nhìn ngắm xem cái xứ người nó tròn méo ra sao.

 

Nghe Điệp nói, ông Thịnh gỡ cặp kiếng để xuống trên mặt bàn và đưa mắt nhìn con. Ông biết nó muốn ông đi xa một chuyến cho khuây khỏa nỗi buồn, nhưng lại phải nói tránh đi một nẻo khác. Ông chả trách con, bởi vì chúng không thể hiểu được ông. Bước vào tuổi đời như ông, mọi người đều thấy mỏi gối chồn chân. Họ muốn đi ra đi vào nhìn căn nhà của mình hơn là việc đi đây đi đó. Ông Thịnh cũng không ngoại lệ. Hơn thế, mỗi lần ông định bước ra khỏi nhà là một lần lòng ông chùng xuống, rồi nao nao nhớ về chuyến đi của mấy mươi năm về trước. Hôm ấy, vào lúc nửa đêm ông đã lặng lẽ tay bồng tay bế, dắt díu bốn đứa con trai một cô con gái và bà vợ bụng mang dạ chửa rời xa miền đất Thái Bình, xuống tầu há mồm vào nam tìm Tự Do.

 

Sau khi xuôi nam, ông đến Xuân Lộc nhận nơi đây là quê hương thứ hai của ông. Ông đã đổ mồ hôi, đổ nước mắt xuống trên khu rừng khỉ ho cò gáy. Đổi lao nhọc lấy miếng cơm manh áo cho vợ con. Ông những tưởng, đây sẽ là phần đất sum họp của cha con ông lúc ông về chiều. Ông chả khi nào nghĩ rằng. Chuyện phải bỏ cha bỏ mẹ, bỏ của chạy lấy người kia sẽ có một ngày lại tái diễn với đám con cháu của ông. Kết cuộc, ông đã nhầm! Nhầm vì Việt Cộng nó tính toán khác với cái tính toán của ông. Ông muốn an vui, chúng muốn khuấy động. Ông muốn thấy thanh bình, chúng muốn máu đổ thịt rơi. Rồi ông muốn có độc lập tự do, chúng lại muốn làm thân nô lệ, khiến cả nước ngập tang thương, và gia đình ông không tránh được tai vạ. Đứa vào tù, đứa phải bỏ nhà ra đi.

 

Đã tang thương như thế, bà Thịnh, người đã từng chia ngọt sẻ bùi với ông qua mấy chục năm trời, người đã cùng ông nửa khuya bồng con bồng cháu chạy bỏ quê hương miền bắc trước kia, rồi cũng là người cùng ông, gồng gánh, vượt rừng lội xuối đi thăm lũ con trong ngục tù cải tạo vào những năm gần đây, đột ngột bỏ ông mà đi. Bà ra đi, để lại cho ông bức cảnh gà trống cục cục bên lũ con. Bà ra đi, mang theo cả phần đời ước nguyện của ông. Ước được về thăm lại Thái Bình quê xưa với bà. Giờ bà đã khuất núi, còn vui thú gì nữa mà ông đi? Đã thế, lúc bà ra đi, bà còn di lại cho ông một lời trăn trối khá gay: Ông nhớ gặp lại hết lũ con rồi hãy đi! Từ đó, ông cứ suy đi tính lại lời trăn trối của bà. Có lẽ, vì lời trăn trối ấy mà ông Thịnh đành phải làm một chuyến đi ngoài dự trù của ông:

– Nói rõ cho anh con biết. Ba chỉ sang thăm nó mấy ngày thôi. Ba không thể đi lâu được!

Điệp mỉm cười nhìn ông:

– Con đã viết rõ trong thư rồi. Là anh chị không được giữ ba ở lại qúa vài ba…năm!

Ông Thịnh dừng bước chân, nhướng cao mí mắt:

– Làm gì mà những vài ba năm?

 

Trong khi đó, ở Vũ cũng có những nỗi niềm riêng. Khi ra đi thì mong cho thoát khỏi tay giặc cộng. Đến khi lên được bến bờ tự do thì lại ngoảnh mặt về nam cho dòng nước mắt tuôn rơi! Việc được gặp lại người thân, chyện có ngày trở về quê xưa chỉ như một giấc chiêm bao. Nên ngay khi đặt chân lên đất Úc, Vũ làm đơn bảo lãnh đoàn tụ cho gia đình. Nhưng ông bà Thịnh đã dứt khoát bác bỏ đề nghị ấy. Ông bảo:

– Ông gìa rồi, ông không muốn đi đâu. Hơn nữa, ông không muốn bỏ xác ở nước ngoài!    Chết ở ngoại quốc làm gì có nhang có khói!

 

Sau khi biết rõ ý kiến của ông Thịnh, Vũ cho lá đơn vào góc tủ, cất giữ nó như một kỷ niệm buồn. Chẳng bao lâu sau, trong lúc bạn bè lần lượt báo tin mừng đoàn tụ thì Vũ nhận được bản tin xét đánh: Người anh kế, sau khi ra khỏi tù việt cộng đã phát bạo bệnh mà chết. Như thế, mười khúc ruột trước sau đã đứt mất hai. Rồi ngay trong lúc đôi mắt chưa hết đỏ, nửa đêm choàng tỉnh giấc như vẫn còn thấy nhau, tim gan Vũ lại đứt rời ra từng đoạn, từng khúc khi nhận tin về bà Thịnh. Bản tin đọc chưa dứt, tấm giấy báo đã rơi xuống trên mặt bàn, hứng trọn lấy những giọt nước mắt đau thương, ly biệt hôm nào:

– Mẹ, mẹ… cho con vào thúng đi.

Bà Thịnh áo đẫm mồ hôi, chân không ngừng bước, nắm chặt lấy tay Vũ, khuyến dục con:

– Đi nhanh lên con, đi nhanh lên mẹ giắt. Để mẹ nghỉ một lúc rồi mẹ lại gánh con.

 

Thằng Vũ mới vài ba tuổi đầu, đi chưa được mấy bước, lại réo gọi bà bằng cái âm thanh như lần trước. Bà lại để đôi quang xuống trên đường, dồn bớt đồ qua một bên thúng, còn một bên dành cho con ngồi. Đôi quang càng lúc càng võng nặng xuống trên đôi vai bà. Cứ thế, vừa đi vừa đổi, cuối cùng bà cũng đưa được lũ con rời Thái Bình đến Ninh Giang, rồi xuống tàu há mõm vào nam. Rồi mới đây lại cũng chính bà lau nước mắt cho con, dục nó phải trốn chạy việt cộng lần thứ hai. Nhưng lần này nó phải chạy xa qúa và mẹ con bà chả khi nào còn nhìn thấy nhau, dù mãi mười năm sau bà mới qua đời…

 

Từ sau ngày nhận được tin bà Thịnh mất, mỗi lần ra mở hộp thơ là một lần Vũ nơm nớp lo sợ. Sợ một bản tin thứ hai sẽ đến thay vì được gặp lại ông Thịnh. Thấy vậy, có người bảo Vũ:

– Anh nên nghe tôi mà về một chuyến thì hơn là chuyện ngồi đắn đo. Người đi, sẽ có đủ trăm ngàn lý lẽ riêng. Kẻ về, có khi nào không kiếm nổi cái lý do? Ở trường hợp anh, ngày không còn nhiều, anh không về đắp mộ cho mẹ, không về thăm cụ một lần còn chờ đến bao giờ?

 

Sự thật, không phải là Vũ không biết câu chuyện ngọn đèn trước gio. Tuy nhiên, anh cũng có những nỗi khổ riêng. Về cũng dở, không về cũng dở. Cuối cùng Vũ liều theo một bài tính cố hữu. Bởi lẽ, nước mắt bao giờ cũng chảy suôi. Sau ngày Việt cộng vào thành phố, chả mấy gia đình trong nam thoát cảnh bố gìa chống gậy, khập khiễng chân cao chân thấp đi thăm nuôi con trong tù. Cũng chẳng thiếu gì cảnh mẹ gìa tóc bạc, vượt suối băng rừng đến trại tập trung cải tạo thăm con. Bà đến, phần vì thương con và một phần lớn là muốn cho con được nhìn thấy mùa xuân là sự sống trong người của bà còn hiện diện, hơn là cái phần qùa bà cho con.

 

Cũng thế, ông bà Thịnh rất thương con cái. Ông bà đã bỏ quê hương đất bắc để vào nam tìm tự do vì lũ con. Rồi những lúc gần đây, ông bà lại tiếp tục rủ nhau gồng gánh, lội ngược đi xuôi lên B5, ra Khánh Dương, A3, Hàm Tân… để thăm nuôi anh em Vũ. Tình thương ấy chả bao giờ vơi cạn. Đã không vơi cạn, thế nào ông cũng đi thêm một chuyến vượt trùng dương?

 

Tự nghĩ thế, Vũ nhất định không về và nhận được tin ông Thịnh sẽ sang. Ngày đón ông Thịnh đến Úc, phải được kể là một ngày rộn ràng trong đời sống tỵ nạn của Vũ. Suốt đêm hôm trước hầu như Vũ không hề chợp mắt. Mỗi lần đặt lưng xuống giường là một lần Vũ ngồi bật dậy mong cho trời mau sáng. Đến khi gà chưa gáy, Liên, vợ Vũ đã ra khỏi giường. Nàng thức dậy, một phần vì lo nấu dọn sẵn bữa ăn trưa đón ông Thịnh, phần vì hồi hộp trong lần đầu tiên diện kiến với ông Thịnh. Không biết ông cao thấp, tròn méo với tính tình hiền lành, bẳn gắt ra sao?

 

Sau hơn một tiếng đồng hồ mỏi cổ dòm từng khuôn mặt của hành khách trên chuyến bay Thai Airline đi ra, Vũ bắt đầu sốt ruột ngồi đứng không yên, rồi thêm bực mình to tiếng với người lo giấy tờ, làm thủ tục cho ông Thịnh đang đứng gần đó:

– Anh có chắc là ba tôi đi chuyến này hay không?

Bị hỏi một câu không dự phòng, anh ta mất luôn tự tin:

– Chắc… chắc có ma. Tối hôm qua tôi đã nhận điện thoại báo danh sách từ việt nam, có tên ông cụ ba của anh đây. Nói chưa xong, anh ta xoa đầu gãi tai. Hay là có gì trục trặc vào phút cuối không? Anh chờ thêm một chút xem.

– Chính anh đã bảo với tôi là lo cho ba tôi đi thẳng. Tại sao bây gìơ lại vòng qua ngả Thái Lan là thế nào?

Anh ta đứng nhăn nhó:

– Tại kẹt… kẹt qúa…!

Vũ chưa kịp nói thêm vài câu cho hả, đã nghe có tiếng người nói chen vào:

– Kia rồi… kia rồi, hình như có người mình ra kia rồi…

Vũ bỏ dở câu chuyện, lăng xăng bước tới bước lui đón hỏi hết người khách này đến người khách khác:

– Còn ai nữa không bà? Còn ai ở trong ấy nữa không anh?

Câu hỏi có khi được trả lời có khi không. Nhưng cuối cùng, cũng tới lượt Vũ lính quýnh kêu lên:

– Bố… bố tôi…bố tôi đây rồi!… Đúng bố tôi rồi… em ơi! Bố ra kia rồi!

– Bố… bố ơi…

 

Gọi xong, Vũ chạy thẳng vào trong hành lang cuối phòng đợi, nơi chỉ dành riêng cho hành khách đi ra. Vòng tay nào có thể ôm trọn được những yêu thương? Giọt nước mắt nào sẽ nói lên được là giọt nước mắt reo trong lệ mừng? Lúc ấy cha con ông Thịnh chẳng thấy trời, cũng chẳng thấy đất, chỉ thấy những vòng tay quấn chặt lấy nhau. Một lát sau, ông Thịnh ngẩng đầu lên đúng lúc giọt nước mắt cuối đời lăn tròn trên mặt, rớt xuống người con:

– Con…!

– Bố…!

 

Hình như cái âm thanh huyền diệu ấy đã làm cho gân cốt của cuộc đợi chờ mềm nhũn ra, và câu chuyện từ đó tưởng chừng như không dứt. Lát sau, vợ chồng Vũ đưa ông Thịnh ra xe về nhà. Vừa bước chân vào trong nhà, ông Thịnh đã trịnh trọng móc túi, lấy ra một xấp giấy, đưa cho Vũ:

– Đây là toàn bộ giấy tờ đi đường của ba. Con liệu đem đi trình diện công an khu vực cho khỏi rắc rối về sau.

Vũ ngỡ ngàng, trong lúc một người quen lên tiếng trước:

– Ở đây làm gì có công an mà ông đi trình diện.

Ông Thịnh nhíu đôi chân mày, bán tín bán nghi:

– Các anh còn trẻ nên khéo nói chơi?

 

Vũ chợt hiểu cái khoảng thời gian mười mấy năm, xem chừng như là qúa ngắn nếu đem xo nó với cuộc đời của ông. Ấy thế, nhờ cái bạo tàn của Hồ, nó đã tạo được ở trong lòng ông một thói quen ghê gớm, không thể bỏ. Vũ phải lên tiếng trấn an ông:

– Anh ấy nói thật đó ba ạ. Ở đây làm gì có chuyện phải cầm giấy tờ đi trình diện công an.

Ông Thịnh như người chưa thoát được vòng xích:

– Lạ nhỉ?

Hỏi xong, ông bỏ xấp giấy vào trong cái va ly, dặn Vũ:

– Ba để ở trong này, lúc nào cần thì con cứ việc lấy mà mang đi.

 

Vào những ngày đầu, ông Thịnh hầu như chả có lấy mấy thời giờ để nghỉ ngơi, và cũng chẳng có nhiều thì giờ để quan sát đến hiện tình sinh hoạt trong đời sống của con. Ông bận rộn một phần vì khách khứa ra vào, phần vì câu chuyện của mười năm xa cách với con, cháu. Thêm vào đó là những chuyến đi ông không dự kiến trước. Mãi đến tuần lễ thứ ba, ông Thịnh mới có thì giờ để ý đến sinh hoạt của vợ chồng Vũ.

 

Trước hết, ông nhớ ngay sau ngày đi đón ông, ông ít thấy Liên, người con dâu ông ở nhà. Hầu như ngày nào cũng thế, khi ông vừa thức dậy là nàng dâu của ông nổ máy xe ra đi, và chỉ trở về khi nắng chiều đã ngả về tây. Đã thế, sau bữa cơm chiều, câu trước câu sau là nó vào trong phòng riêng. Hay là nó tránh mặt ông? Chứ ngoài ra làm gì còn lý do nào khác? Tự nghĩ thế, có lần ông đã hỏi Vũ:

– Nhà mày nó đi làm cái gì, mà đi suốt từ sáng đến chiều như vậy?

– Thì đi làm… cu ly cho người ta chứ đi làm gì nữa ba.

Ông Thịnh kinh ngạc, nhướng cao mí mắt. Ông vội hỏi Vũ một câu như có sẵn từ trước khi ông rời Việt Nam:

– Nó đi làm cu ly lao động à? Sao con không bảo nó xin vào ngành… thanh tra cho nhà nước có phải là hơn không?

– Ba nói gì con không hiểu?

 

Ông Thịnh nhăn mặt. Ông muốn mắng vào mặt nó mấy câu cho nó phá cái ngu ra. Ngày xưa ông tốn bao nhiêu công lao cho nó đi ăn học với đời, tưởng rằng cũng được dăm ba chữ. Không ngờ, ông chỉ nói có một câu hỏi ngắn như vậy mà nó cũng không hiểu. Ông lắc đầu, lộ rõ nét thất vọng.

 

Thật tội cho ông, gặp con chưa kịp vui đã hóa ra buồn bã. Ông buồn vì nhớ lại những câu chuyện ông đã nghe từ trước lúc ông đi. Khi ấy, có nhiều người, từ quen biết trong lối xóm đến bà con thân thuộc, và ngay bà cô của Vũ cũng dặn ông:

– Cậu nhớ hỏi xem nó làm cái gì mà cứ kêu bận tối ngày, đến cái thư viết về nhà nó cũng lười, còn nói chi đến cái việc nó sẽ về thăm gia đình thăm quê hương!

 

Chả ai dám trách bà đi nghe người ngoài rồi trách lây thằng cháu lười. Bởi vì mấy lúc gần đây, đi bất cứ nơi đâu người ta đều nghe được những câu chuyện thuộc huyền thoại của lớp Việt kiều đã về thăm quê hương: Nào là cái thằng ấy nom thế mà khá. Lúc trước thì lêu lổng, chữ đực chữ cái, bây giờ cũng đã làm đến giám đốc, chủ nhiệm một hãng sưởng ở ngoại quốc. Lại cái con bé nhà bà năm bán cá ở đầu chợ mới tài. Lúc ở nhà thì đen thủi đèn thui, chưa thấy người đã thấy mùi mà mới đây nó về thăm nhà thì phấn trên phấn dưới, lại phải có cả người thông dịch đi theo nó nữa chư. Nghe đâu nó làm thanh tra gì ở bên đó, lớn lắm. Thiệt là tốt phúc! Công việc đã dễ dàng mà lại có lương bổng lớn. Ông chỉ nghe nói thế, nào ông có biết ngành… thanh tra là ngành ăn trợ cấp xã hội dâu..

 

Dĩ nhiên, ông Thịnh không phải là người dễ tin vào những câu chuyện không đầu không đuôi như thế. Tuy nhiên, một khi cứ phải nghe hoài nghe mãi một câu chuyện, ông đâm ra nghi hoặc. Trong nỗi nghi hoặc của ông có xen lẫn ít tự hào ngấm ngầm về đứa con của mình. Khi đi, nó đã có dăm ba chữ trong đầu có lý nào nó về đây lại tay không? Từ đó, dù không nói ra ông vẫn có ý chờ ngày nó áo gấm về làng để ông được thơm lây. Chờ mãi, ông thất vọng. Ông phải chống gậy đi thăm nó.

 

Đến hôm nay, trong lúc vui câu chuyện ông mới vỡ lẽ là nó chẳng nên cái trò trống gì. Bởi nếu nó khá thì vợ nó chắc không đến đỗi phải đi làm cu ly cho người. Tự nhiên, ông thấy… xệ với người hàng xóm. Ông kín đáo quan sát Vũ rồi giữ im lặng, thay vì hỏi han cho rõ ngọn ngành từ câu chuyện cho đến công việc. Có thể nói, đây là một sự kiện hoàn toàn trái ngược với cái bản tính không bao giờ để bụng của ông. Lát sau, ông hỏi:

– Thế con không đi làm à?

– Có chứ ba, có ba sang thì con xin nghỉ vài tuần. Vài hôm nữa con lại đi làm như thường.

– Đi như thế, nhà cửa bỏ trống, không có ai trông coi à?

– Không ba ạ.

 

Càng nói chuyện với con, ông Thịnh càng thắc mắc và hầu như chả nỗi thắc mắc nào được giải đáp ổn thỏa. Trái lại, nó làm ông thêm bước vào ngõ cụt. Đến khi nhìn lại cảnh sống của con, ông thấy nhiều đổi thay. Hầu như ngày nào cũng vậy, người pha trà, nấu và dọn cơm cho ông ăn, không phải là nàng dâu theo ý nghĩ của ông trước khi ông rời Việt Nam. Nhưng chính là đứa con trai của ông. Lúc đầu, ông không quan tâm lắm bởi vì ai dọn chả thế. Nhưng lúc sau này, ông thấy nó chương chướng làm sao ấy. Kế đến, ông đã có dịp chống mắt lên nhìn nó rửa chén bát, lau nhà. Đây là một công việc không nặng nhọc, nhưng hơn hai mươi năm nó ở với ông có khi nào ông trông thấy nó rửa cái chén cái bát, nói chi đến việc nấu ăn. Lúc này, ngược lại. Nó đã làm một cách rất thuần thục, gọn ghẽ.

– Hôm nay con phải đi làm rồi. Ba ở nhà một mình nhá.

Nghe Vũ nói, ông Thịnh bấm bụng, định trở lại câu chuyện hôm nào bằng câu hỏi: Con đi làm công việc gì, có vất vả không ? Nhưng lại bảo:

– Con đi làm à? Ừ đi đi, để ba coi nhà cho.

– Nhà thì chả cần coi, chỉ sợ ba ở nhà một mình thì thấy nó vắng thôi.

Ông Thịnh nói cứng:

– Có gì mà vắng!

Nói xong, ông đảo mắt nhìn quanh căn nhà một lượt như tạo lấy tự tin. Thấy sâu chìa khóa để trên mặt bàn, ông cầm lên, hỏi:

– Chìa khóa sao để đây, con không mang theo à?

– Không ba ạ. Bộ này con để ở nhà cho ba.

Ông Thịnh lắc lắc chùm chìa hóa trong tay:

– Ba có đi đâu mà cần chìa khóa.

Như không để ý đến điều ông Thịnh vừa nói, Vũ bước đến trước mặt ông, anh mở cái kim băng trong sâu chía khóa ra:

– Ba nhớ gài nó vào trong túi áo như thế này, kẻo quên. Vì khi ra ngoài, vô ý cửa đóng lại, ba không có cách vào lại trong nhà cũng chẳng biết gọi ai.

Ông Thịnh hiểu ý, gật đầu:

– Mấy gìơ con về?

– Con về trời đã tối!

Ông Thịnh đưa mắt nhìn ra sân:

– Con đi bằng cái gì?

– Con đi xe lửa.

– Sở làm gần ga à?

– Vâng, gần lắm ba ạ.

Hình như ông Thịnh không hẳn tin lời giải thích của Vũ. Thay vào đó, ông cho rằng con ông đã… nể vợ qúa đáng. Đã nấu cơm rửa chén quét nhà, còn dành luôn cái xe hơi cho vợ xử dụng. Ông bảo:

– Sao con không bảo nó đi xe lửa, để cái xe hơi ở nhà cho con đi.

– Tại chỗ nhà con làm không có ga xe lửa ba ạ.

Ông Thịnh nhìn con rồi bước trở lại bên cái ghế. Vũ đem ra cho ông mấy cuốn sách ngày xưa ông rất thích và mấy tờ báo:

– Ba đọc hết mấy cuốn sách này là con về tới.

 

Ông Thịnh dửng dưng nhìn mấy cuốn sách trước mặt. Ông hài lòng về sự chu đáo của con, nhưng ông biết nó khó thay thế và lấp kín được khoảng trống khi con ông vắng nhà. Cùng lúc ấy, Vũ trở lại bếp, lấy phần ăn trưa để sẵn vào trong Microway. Anh bấm nút ấn định khoảng thời gian cần thiết để ông Thịnh chỉ cần xử dụng một động tác duy nhất còn lại khi hâm nóng đồ ăn. Xong việc, Vũ viết số điện thoại nơi Vũ và Liên làm đưa cho ông, để khi cần, ông có thể liên lạc được. Đến khi ra khỏi nhà, Vũ dặn ông thêm lần nữa:

– Khoảng trưa ba nhớ bật cái máy lên hâm nóng đồ ăn nhá. Cơm và thức ăn con đã để sẵn trong đó.

Ông Thịnh chống tay đứng dậy, theo bước chân Vũ ra cửa:

– Con đi bây gìơ à?

– Vâng, ba ở nhà, tối con về.

Khi chân trong chân ngoài, Vũ bảo ông:

– Còn điều nữa con quên chưa dặn ba. Khi ba ở nhà, nếu có bất cứ ai đến gọi cửa, dù họ bảo là quen với con, ba nhớ đừng bao gìơ mở cánh cửa xong sắt ở ngoài nhá. Lại nữa, nếu có ai gọi điện thoại đến, ba muốn nhắc lên nghe cũng được mà không nhắc lên cũng chẳng sao. Nhưng khoảng trưa con sẽ gọi về cho ba.

 

Vũ không ngờ, những lời dặn bình thường ấy như đã gieo vào lòng ông Thịnh mối lo âu không cần thiết. Ông đứng bất động trước cánh cửa, đôi mắt trĩu nặng nhìn ra ngoài. Thấy vậy, Vũ lên tiếng trấn an ông:

– Con chỉ dặn phòng hờ như thế thôi. Ở đây những người con quen biết, vào gìơ này họ đều đi làm, chắc không có ai đến và cũng chẳng có ai kêu điện thoại đâu.

Như không để ý đến lời phân trần của Vũ, ông Thịnh hỏi lại:

– Trưa con gọi điện thoại về à?

– Vâng, khoảng trưa con sẽ gọi về cho ba.

 

Nói xong, Vũ bước xuống bậc thềm và ông Thịnh lùi lại vài bước. Khi bóng Vũ khuất khỏi tầm mắt, ông quay vào, do dự một chút rồi quyết định đóng và khóa chặt luôn cả hai cánh cửa lại. Ông cũng cẩn thận làm bấy nhiêu động tác ở cửa phía sau.

 

Đóng cửa xong, ông Thịnh chẳng biết làm gì. Ngồi mãi ông lại đứng lên lững thững đếm từng bước một. Bất chợt, ông đứng lại trước tấm lịch, lẩm nhẩm tính ngày tháng. Lát sau, ông bước ra phía trước, một tay hé mở cánh cửa nhìn ra đường. Ông thấy có vài ba bóng người đi qua lại, ông cho tay vào túi tìm sâu chìa khóa. Khi tay vừa chạm vào sâu chìa khóa, ông do dự dừng lại. Ông dừng lại không phải vì lời dặn của Vũ, cũng không phải vì nghĩ rằng ở đây có nhiều kẻ gian. Nhưng vì biết, phía bên ngoài cái hàng rào kia là một thế giới hoàn toàn khác biệt với ông. Khác biệt từ khuôn mặt đến ánh mắt, nụ cười. Thêm vào đó là một thứ ngôn ngữ bất đồng khó đả thông. Nó không giống như cảnh hàng xóm láng giềng của ông.

 

Nghĩ đến đây, ông Thịnh bật cười thành tiếng. Một ý tưởng ngộ nghĩnh vừa thoáng qua trong trí ông. Như thế này có lẽ ông giống một… tù nhân hơn là một người khách đi du lịch! Tuy nhiên, khi cúi xuống nhìn sâu chìa khóa trong tay, ông lại mỉm cười. Cùng lúc đó, có tiếng điện thoại reo vang. Ông Thịnh cẩn thận nhìn đồng hồ trước khi bước đến nhắc ông nghe để xát lên tai. Ông yên lặng chờ tiếng nói từ đầu giây phía bên kia trước rồi mới trả lời. Khi nghe được tiếng của Vũ qua đường giây, ông Thịnh mừng hẳn lên.

 

Chiều đến, có tiếng xe đậu lại xát bên hiên nhà, ông Thịnh đứng dậy ghé mắt qua khung cửa sổ rồi hăng hái mở toang cánh cửa ra vào. Ông bước ra sân. Chút nắng nhạt, làn gío mát làm ông lấy lại phấn khởi. Ông lộ rõ niềm vui khi Liên về đến. Ông không một ngại ngùng phân biệt nàng dâu hay con gái. Ông luôn miệng cười nói, kể cho Liên nghe hết những ý nghĩ trong ngày của ông. Cuối cùng ông bảo:

– Ngày ở bên đây sao dài qúa. Có lẽ ba không ở lại lâu hơn được!

– Tại ba mới sang thì thấy nó dài. Chúng con ở đây thấy ngày nó mau qua lắm.

Nói xong, nàng bước vào bếp, vừa làm cơm vừa chuyện trò với ông. Đến khoảng bảy gìơ tối, Liên dọn bữa cơm chiều. Nàng trịnh trong xo đũa, đơm cơm vào hai cái chén và mời ông ngồi vào bàn. ông Thịnh vẻ ngạc nhiên, hỏi lại:

– Không chờ nhà con về à?

Hỏi xong, ông Thịnh tưởng tai ông về già đâm ra nghễnh ngãng, không nghe rõ câu trả lời của nàng dâu:

– Không ba ạ. Anh ấy thường về trễ và ăn cơm sau.

Liên ngồi vào bàn, mời ông thêm hai ba lần nữa. Chẳng hiểu nghĩ gì ông Thịnh đáp gọn:

– Con ăn trước đi. Ba chờ nó về rồi ăn sau.

 

Sau một thoáng ngạc nhiên, Liên bỏ chén bát xuống. Phần ông Thịnh, nói như thế không có nghĩa là ông muốn trách cứ nàng dâu, cũng chẳng phải vì ông giận hờn con. Chỉ tại ông đã nhìn sự việc bằng đôi mắt quen: Suốt mấy chục năm qua, cho đến ngày bà Thịnh mất, chả mấy khi ông bà không có mặt chung trong bữa cơm chiều. Theo ông, có như thế mới gọi là tình nghĩa. Dĩ nhiên, chả ai dám phản đối sự suy nghĩ của ông. Bởi lẽ, tại ông chưa biết và chưa thông cảm được với cuộc sống phải vật lộn với kim đồng hồ ở trong các xã hội tây phương. Theo đó, chả có mấy người bỏ phí thì giờ, ngồi đợi chờ nhau hàng gìơ bên mâm cơm giống như ở bên Việt Nam. Sự kiện không chờ nhau này làm ông Thịnh mất vui.

 

Ông bước từng bước chậm rãi trong nhà, ông có ý định chờ con về để nhân cơ hội này ông sẽ có đôi lời chính thức khuyên bảo vợ chồng Vũ trong cách ăn và nếp ơ. Ông cũng sẽ nói cho con cái ông biết, đừng coi thường việc chờ đợi nhau trong bữa cơm chiều. Bởi vì, mới nhìn qua tưởng là một việc nhỏ, chẳng đáng quan tâm. Nhưng thực ra, lâu ngày dày kén, nó thành một cái thông lệ không tốt cho cuộc sống chung. Thay vào đó, phải nhìn bữa cơm chiều như một cuộc sum họp không thể thiếu trong gia đình mỗi ngày. Buổi sum họp ấy chính là mối giây liên kết, ràng buộc lấy nhau, làm cho cuộc sống vơi đi những tẻ nhạt.

 

Ông Thịnh đã sửa soạn tất cả những dự kiện ấy một cách rõ ràng mạch lạc, chỉ chờ con ông về đến nhà, ông sẽ nhân cơ hội bên mâm cơm mà khuyên bảo vợ chồng nó. Kết cuộc, ông hoàn toàn thất vọng. Bởi lẽ, vừa về đến nha và thấy chén bát còn nguyên trên bàn, Vũ đã hỏi vợ:

– Sao em không dọn cơm chiều cho ba ăn trước đi? Chờ anh thì chờ đến bao giờ?

– Em có dọn lên đấy chứ. Nhưng ba bảo chờ anh về ba mới ăn!

Ông Thịnh chưa biết nói sao, Vũ tiếp:

– Ở nhà ba cứ ăn cơm trước đi, đừng chờ con làm gì. Đã đói lại thêm mất thì giờ nghỉ ngơi.

Ông Thịnh bảo:

– Thì ba muốn chờ các con về để cùng ăn chung.

– Chả nên thế ba ạ. Ở đây cuộc sống khác bên nhà nhiều lắm. Giờ giấc nhiều khi không tùy thuộc vào mình, nhưng lệ thuộc vào sở. Hôm nay con về sớm đấy, nếu con làm thêm giờ phụ trội thì về đến nhà đã gần khuya. Làm sao ba chờ được.

 

Nghe Vũ nói, ông Thịnh mất hứng khởi khi ngồi vào bàn ăn. Nó đã nói như thế thì ông còn khuyên với lơn gì được nữa! Đến những ngày kế tiếp, ông Thịnh cảm thấy buồn và cô đơn hơn. Suốt từ sáng đến tối, ngoài việc đọc lại trong tâm trí ông những hình ảnh, những nơi chốn ông đã đi qua từ khi còn thơ ấu cho đến hôm nay. Và ngoài việc ông đứng lặng hàng giờ trước tấm lịch để tính ngày tháng, ông không biết làm gì cho hết ngày. Có cầm đến cuốn sách tờ báo thì chúng lại nặng trĩu và rời ra khỏi tay ông. Đã thế, con tạo lại như trêu gan ông. Tạo cho ông thêm thời gian để thức. Sáng, chưa năm gìơ, mặt trời đã chiếu qua khung cửa. Chiều, gần chín giờ vẫn còn nom rõ mặt người.

 

Thêm vào cảnh trống trải đó. Hai đứa con ông, một đứa ra đi khi trời còn tối, đứa khác về nhà lúc gần nửa đêm. Gặp mùa Noel, ông những tưởng nó phải tưng bừng rộn rã lắm. Không ngờ, trời thì nóng như thiêu đốt và hai đứa con ông được dịp đi cày thêm gìơ. Chúng cày từ sáng đến tối. Chiều về, cơm nước vội vàng, mạnh ai nấy ăn rồi leo lên giường kéo… gỗ. Cứ thế, cuộc sống quay mòng mòng để kiếm tiền trả nợ nhà, trả nợ xe. Gặp ngày cuối tuần, ông tưởng chúng có chút thời giờ rảnh rang. Ai ngờ, chúng lại lao đầu vào công tác làm vệ sinh, giặt gĩu hoặc chợ búa là hết ngày. Nhìn thấy lũ con đầu tắt mặt tối, ông lại nhớ đến những câu chuyện trước khi ra đi. Khi thấy người ta được những việc làm tốt như thanh tra, giám đốc, ông chép miệng than. Sao trời chả bù cho lũ con ông một tý?

 

Đến sau đêm đón chúa ra đời, ông Thịnh đột nhiên hỏi Vũ: – Hôm nay là mấy ta rồi nhỉ?   Liên trả lời thay chồng:

– Khoảng giữa tháng mười một ta rồi ba ạ.

Ông Thịnh bấm chừng trên ngón tay rồi hỏi:

– Con đã liên lạc lấy vé cho ba về chưa?

 

Thấy Vũ ngần ngừ im lặng. Ông biết con ông không có ý định cho ông về sớm, ông dứt khoát bảo:

– Con không nên thế!

Vũ ngập ngừng:

– Ba mới sang được vài tháng…

Ông Thịnh đưa mắt nhìn con:

–  Nếu bảo là dài, là đủ. Cha con có sống bên nhau suốt đời vẫn không thể nói là dài, là đủ. Tuy nhiên, việc cha con ta gặp nhau vài tháng nay, phải coi như đó là cái phúc, cái phần riêng của gia đình. Nếu không, chẳng làm gì có được cuộc xum họp này… Ngưng lại một chút, tiếng ông vẻ xúc động nhưng rõ ràng:

 

– Con nên đi lấy vé cho ba về, không thể để chậm trễ đến sau tết được. Con nên hiểu, không phải là ba không muốn ở lại ăn tết với vợ chồng con. Không phải ba không muốn đem đến cho con mùa xuân khi con lưu lạc ở nơi xứ người. Nhưng ba phải về. Vì hy vọng vào mùa xuân này, sau hơn mười năm trong lao tù anh con sẽ được trả tự do. Ba muốn chính tay ba sẽ đón anh con trong ngày trở về ấy. Thêm vào đó, con cũng biết. Mẹ con cũng cần nén nhang của ba vào ngày đầu năm…

 

Trong lúc vợ chồng Vũ ngồi bất động nhìn nhau. Ông Thịnh tiếp:

 

– Còn một chuyện nữa, ba muốn nói với các con lâu rồi nhưng chưa có dịp. Đến hôm nay ba sắp sửa trở về, nên không thể không nói với các con. Các con đừng bỏ lãng phí thời giờ. Hãy cố gắng tranh thủ học hành thêm đôi chút để xin vào làm… “thanh tra cho các cơ quan” của chính phủ thì hơn. Trước khi sang đây, ba nghe nói con của ông nọ bà kia trong lối xóm mình đều làm thanh tra cả. Nói cho ngay, công việc ấy ra sao, làm lụng thế nào ba không biết, chỉ nghe nói là khá nhàn hạ. Đã thế, số giờ làm mỗi tuần chỉ vài ba tiếng đi gặp cơ quan, lương lại cao, có đâu phải đầu tắt mặt tối như vợ chồng con. Thời nào cũng thế con ạ. Làm công chức cho nhà nước thì an nhàn và chắc chắn hơn làm cho tư nhân ở ngoài. Con liệu hỏi thăm mà xin việc…

 

Bảo Giang

Viết cho một kỷ niệm khó quên.

 

 

…………………………………………………………………………………………………………………………………………

******************************************************************************

 

 

2. Câu Chuyện Bên Chợ Chiều.

 

 

 

Sau khi nép mình vào hẳn bên trong mái che, lão Thụy mới hoàn hồn để biết là trong lúc chạy, cái mũ cối lão đội trên đầu đã đứt giây và bị cơn gío mạnh cuốn đi mất dạng rồi. Phần manh áo vá và cái quần cụt trên người thì như bám xát vào thân hình gầy đét của lão vì ướt mưa. Riêng đôi dép râu, mưa thế, chứ to gấp mười lần thế, nó cũng chẳng vuột ra khỏi đôi chân lão được. Lão bật cười nhìn xuống đôi dép lần nữa, rồi đưa tay lên vuốt mái tóc và khuôn mặt ướt đẫm nước…

 

Đối diện với lão Thụy, phía bên kia hàng hiên chợ có vài con chó đói, gầy trơ xương. Lúc này, chúng thôi gầm gừ, tranh nhau những mẫu xương, nhưng đứng nép vào bên bức vách, rùng mình giũ nước, vẻ hiền lành tội nghiệp. Rồi ngay dưới chân lão, nước mưa thành dòng nước đục đỏ bắt đầu chảy xiết theo đường mương. Nó chảy và cuốn trôi theo những mảnh vụn của lá khô, lá gói bánh, giấy gói hàng, bã mía. Những mảnh vụn, tưởng chừng như làm dơ bẩn cho mặt đất, rất cần có giòng nước chảy cuốn trôi đi. Nào ngờ, con nước vô tình trôi, đã đem đi và chôn vùi cả một mảnh giang sơn, nơi kiếm sống của lũ kiến.

 

Khi đến đây kiếm sống, có lẽ, chúng đã không muốn cạnh tranh với bất kỳ một loài sinh vật nào khác. Chúng chỉ muốn được tự tồn, tự tồn trong phận mình! Chúng có ngờ đâu, chỉ vì thuở trời đất nổi cơn gío bụi. Chúng đã không giữ nổi phần đất tốt, béo bở để mưu sinh. Tệ hơn thế, chúng phải giang tay giang chân, bám cho chặt vào miếng lá, bã miá, như mảnh thuyền trôi nổi, đang lật úp, lộn nhào theo con nước xoáy, để bảo vệ cho mạng sống của chính mình!

 

Bên cạnh cái nghịch cảnh chơi vơi theo giòng nước đó là thân phận những con ruồi ướt cánh, nằm im lìm bất động trên mặt ghế, chân bàn, hay nép mình vào cái cột. Chúng an thân nghỉ ngơi vì tin rằng đã gặp may mắn,  tìm được một chỗ trú thân tốt!

 

Nhìn dòng nước cuốn, lão Thụy chợt thấy mình cô đơn. Cô đơn như cái chợ chiều vẫn vũ dưới cơn mưa. Vào lúc ấy, lão Thụy không thể tìm đâu ra những hình ảnh của một phiên chợ sớm mai. Nghĩa là, lão không nom thấy ông hàng thịt, lăm lăm con dao lớn bản trong tay. Gã làm như đang xẻ thịt cho khách, nhưng sự thật, phố chợ có người, mà hàng thịt chỉ có xương và ít bạc nhạng! Do đó, gã phải vờ đập mạnh sống dao trên mặt thớt, chủ ý gây ra tiếng động, gây sự chú ý cho người qua lại, trong lúc miệng gã không ngừng lời rao khoe thịt ngon, thịt rẻ!

 

Lão Thụy cũng cũng không hình dung ra những hàng tôm, ngồi chiếm nguyên một góc trái của khu chợ. Sau mỗi mủng, người bán hàng không ngừng tay quạt ruồi, rồi chốc chốc lại bốc từng nắm tép trong tay, xòe ra trước mặt mời rao cho người qua lại:

– Tép ngon, tép rẻ, mời bà, mời cô mua nào!

 

Lời thì ngon, gía chẳng ngon! Những lúc gần đây, xem ra khách hàng như đã tập được một thói quen giống nhau. Họ thích đi qua hàng tôm để lấy cái mùi của nó về nấu canh hơn là việc phải mua mớ tôm về đổ… bánh xèo! Đến mấy hàng cá, lẽ nào chịu thua hàng tôm. Khi còn sớm, các hàng theo nhau neo gía. Đến khi, chợ tàn qúa nửa, hàng cá thì đặc những ruồi. Người bán hàng vẫn kiên trì mời rao:

– Cá tươi đây, cá vừa về bến đây! Chậm chân thì hết, nhanh chân thì còn!

 

Lời rao như rót mật vào lòng, người mua chừng như lại quen tai không màng! Bởi lẽ, đã sống trong thời đại của dáo mác, ngồi vào mâm cơm có khi nào thiếu cao lương (việt cộng nó gọi bo bo là cao lương), mỹ vị (củ mì đã chạy chỉ), nên người dân cần chi phải mua tôm với cá! Nếu có đi chợ thì chỉ cần vài ba bó rau là đủ. Bởi vì, cơm không rau như người đau không thuốc! Thuốc có thể thiếu, nhưng rau, chợ không bao giờ thiếu, tội gì không mua! Hơn thế, cả nước đang đau thì chỉ cần bó rau là đủ.

 

Còn chỗ lão đang đứng đây chính là là vị trí của vài xạp hàng xén. Ở đây có bán đủ các mặt hàng nhu yếu phẩm, từ gạo, muối, đường, dầu ăn, đến bánh kẹo và quần áo. Rồi hàng bán chén dĩa, nồi niêu xoong chảo, bát đũa. Hàng bán các dụng cụ cần thiết cho việc nhà nông, con dao, cái cuốc cái xẻng. Tóm lại, dù nhỏ, nó vẫn hội đủ những lệ bộ cho một phiên chợ. Và có đầy những hỷ nộ mời rao của một cuộc khởi đầu!

 

Nhưng lúc này, phố chợ im lìm. Im lìm trong gió bão! Lão Thụy một mình co ro trong cái lạnh bất tường. Lạnh vì nước tạt giăng ngang qua hông chợ, thấm vào người lão. Và lạnh vì mái che nhìn rõ trời, mỗi lúc một đổ thêm nước xuống trên người lão. Lão thở dài, dõi mắt dọc theo hông chợ, lối về nhà. Đoạn đường khá ngắn, nhưng mịt mù, không thấy rõ lối về dưới làn nước đổ. Đã mấy lần nhìn vai áo ướt, lão tự nhủ:

– Về cũng ướt, ở đây cũng ướt! Chi bằng về?

 

Tuy thế, lão không dám xông pha dưới cơn mưa lũ để về nhà. Lão tiếp tục đứng nép mình trong mái che chừng như mỗi lúc bị thu hẹp nhỏ lại vì những ngọn nước tạt ngang. Để tránh những cơn gío mạnh, lão từ từ lùi sâu vào trong lòng chợ. Lát sau, lão ghé mông ngồi lên trên mép một cái bàn xiêu vẹo. Lúc ngồi chưa yên, lão Thụy giật mình khi nhìn thấy một người khác, cùng trong cảnh ngộ tránh mưa như lão. Bốn con mắt cùng mở ra, mở ra để nhận ra nhau. Nhưng sau cái nhìn chợt thấy nhau, một người ngoảnh mặt nhìn đông, kẻ khác lặng lẽ hướng sang tây!

– Họ là những người không quen, không biết mặt nhau?

– Họ mắc chứng bệnh câm điếc?

– Họ là những kẻ tử thù, không thể xích lại gần nhau?

Tất cả những câu hỏi võ đoán này đều sai. Sai vì, hai người đàn ông đang co ro trong căn phố chợ giột nát kia đã biết mặt nhau từ mấy chục năm qua, và chắc chắn cả hai cùng không mắc bệnh câm điếc từ lúc lọt lòng. Hơn thế, cả hai đều là người Việt Nam thuần hậu, có chung một nguồn gốc Việt với đầy đủ những đức tính cơ bản của nòi giống truyền lại: Hiền hoà, hiếu khách, cởi mở và đầy lòng nhân ái vị tha. Nhưng vì sao họ nên nỗi thế?

– Có lẽ, do câu chuyện vào một chiều mưa trước ngày ba mươi tháng tư!

 

Hôm ấy, trong cảnh mưa rơi sập sùi, làng thôn với đôi mắt trắng, tay bồng tay bế, dắt díu nhau bỏ cửa, bỏ nhà ra đi. Họ ra đi như cảnh đàn chim vỡ tổ. Bay thác loạn, bay tứ tán. Ra đi không chờ không đợi, không vẹn toàn. Kẻ đi trước có lỡ đạp mìn, trúng đạn, hay gục xuống vì đường dao giải phóng, người đi sau cũng cứ chùm chúm, dắt díu nhau đi lên! Họ đi trong âu lo, đi trong sợ hãi. Đi trong tiếng khóc và đi trong nỗi chết…

 

Riêng lão Thụy, thay vì nhập cuộc với đoàn người bỏ nhà, bỏ cửa ra đi. Lão mở bừng đôi mắt ếch lên nhìn giời, rồi hân hoan cắm lên trước cửa căn phòng trống, nơi dùng làm tiệm hớt tóc, một kế sinh nhai chính thức của lão trong suốt vài chục năm qua, cái lá cờ của Việt Cộng. Cắm xong, lão giang tay đứng ra giữa đường, cản lối đi của những người chạy giặc:

– Hòa bình rồi, hết chiến tranh rồi, bà con còn muốn chạy đi đâu? Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào, đất nước đã hoàn toàn được giải phóng, mời làng xóm ra chào mừng cách mạng thành công đi!

 

Đoàn người khốn khổ ngơ ngác đứng lại nhìn nhau. Mưa ướt áo không thấm lạnh, mà lòng tự nhiên băng gía. Phút ngỡ ngàng chưa qua, ba thằng trẻ ranh làm du kích, theo lệnh của lão chúng nổ dăm ba phát súng vu vơ. Lão Thụy nhanh tay, dúi vào tay mỗi người chạy giặc một cái lá cờ việt cộng. Lão hiên ngang dẫn đầu một đội ngũ, lên chiếm trụ sở ủy ban hành chánh xã, kề xát bên chợ đã bỏ trống từ chiều hôm trước! Đến nơi, lão kéo lá cờ quốc gia xuống, và thay vào đó bằng lá máu của chúng. Lão kéo lên đúng lúc có tiếng xe cơ giới của giặc thù chạy ngang qua. Lão liền hô hào làng xóm vẫy tay, vẫy cờ chào mừng đoàn quân rừng rú! Sau cái vẫy tay ấy, lão đã vươn lên. Vươn lên trong gió cách mạng. Riêng bà con lối xóm thì theo nhau xuống… thiên đường cộng sản! Và chính trong lúc khốn cùng ấy, làng thôn mới có dịp rỉ tai nhau bàn tán về lão:

 

– Lão Thụy là ai? Lão là Việt Cộng nằm vùng dưới màu áo của anh thợ hót tóc bấy lâu nay? Hay lão là chỉ điểm viên cho những vụ ném lựu đạn vào phố chợ và trụ sở ủy ban trước kia? Hay lão là kẻ trở cờ?

 

Những câu hỏi chưa tìm được câu trả lời, chỉ thấy lão đi, khi thì một tháng, lúc lâu hơn. Riêng cái tiệm hớt tóc của lão giờ đây thôi đón khách. Thay vào đó, nó được trang trí thêm cái hình nhân của tên Hồ cộng nằm bên cạnh đôi dép râu, và cái mũ cối đặt úp trên bàn. Từ đó, những lời thêu dệt về lão càng nhiều. Lão làm lớn, con lão đi tập kết từ lúc mười lăm, mười sáu. Chúng sẽ về, đem vinh quang về cho lão. Như thế, đời lão đã có Hồ, có đảng, có mã tấu, có dép râu, lão cần chi cái tiệm hớt tóc với những món đồ nghề cũ rích kia? Lão chưa quăng nó đi là vì lệnh của trung ương đảng sẽ cho người đến chuyển hết những dụng cụ ấy về viện bảo tàng lịch sử của việt cộng để trưng bày đấy.

Rồi giữa lúc đời lão đang vươn lên trong khói cách mạng Việt cộng, cơn gío lốc đã làm trốc mái che đời lão. Hai thằng con của lão, đi theo tập kết đã chết khô trên Trường Sơn cả mươi năm về trước. Mãi đến nay, nhà nước mới chiếu cố báo tin cho lão khỏi chờ. Khi báo, nhà nước đã… quên không cho lão biết cái ngày chúng chết để cho vợ chồng lão làm giỗ. Hơn thế, còn dấu luôn việc đã xây lăng mộ cho chúng ỏ nghĩa trang liệt sỹ nào! Lão chỉ biết, theo bản văn gởi kèm với cái mảnh bằng liệt sỹ, nhà nước chỉ vỏn vẹn khuyên lão chả nên buồn vì việc con lão bị chết mất xác, bởi nhẽ nó đã thành liệt sỹ rồi. Do đó, vợ chồng lão chẳng cần phải đi tìm mảnh xương tan của chúng nữa.. Riêng việc làm giỗ cũng không cần. Bởi lẽ, con lão và Hồ đã gặp nhau ở âm phủ rồi. Tuy thế, sau khi đọc thư của nhà nước, lão không theo lời khuyên của nhà nước, trái lại, vẫn cố sức đi tìm con. Nhưng khi đi dò hỏi các cơ quan, chẳng cơ quan nào hay biết về việc con lão ăn bom Mỹ hay chết vì đạn của lãnh đạo từ ngày nào. Hỏi đến đơn vị, chả đơn vị nào hay, nên vợ chồng lão chỉ còn bốn con mắt đối kháng nhau.

 

Ít ngày sau, đảng và nhà nước việt cộng tặng thêm cho lão một tấm bảng, trong đó có bốn chữ tổ quốc ghi công, và một cái mảnh bằng hưởng… lộc liệt sỹ để làm vốn. Nhà nước hy vọng, nhờ tấm bảng này. Trước hết, vợ chồng lão không nên oán đảng, hờn bác. Bởi lẽ đã vào chiến đấu là chấp nhận hy sinh! Hơn thế, nếu nó không theo bác đi tập kết thì cò nhẽ chúng cũng ăn bom của Mỹ Nguỵ mà chết. Chết thế thì làm gì có bằng liệt sỹ!. Theo đó, nhà nước chúc lão sẽ được vươn lên trong thiên đàng cộng sản hơn là ngồi tưởng nhớ đàn con! Kế đến, nhờ tấm bảng ấy, gia đình lão sẽ có đủ mười phần vinh dự hơn người!

 

Nhưng không ngờ, khi nhìn tấm bằng làm vốn này, vợ lão đã không biết nghe theo lời bác lời đảng, còn to mồm nhiếc mắng lão ngu dại. Tệ hơn thế, mụ cả gan mắng cả những nhà cách mạng nhớn là loại bất nhơn bất nghĩa. Kết qủa, mụ vợ lão lăn ra mà thác! Thác sau một ngày làm việc với công an thị xã. Bà đã thác trong cơ hàn, cay đắng.

 

Sau khi vợ lão về lòng đất, lão mới vỡ mộng và tự biết về cái gía của một cuộc mong chờ. Nó, trước tiên, không đơn giản như lão từng suy nghĩ. Trái lại, những kẻ đưa lão vào cuộc chiến tương tàn, dẫn con lão vào cuộc lửa đạn khơi máu đồng loại với những khẩu hiệu thật lẫy lừng kia, có lẽ không phải là những con người. Bởi lẽ, người đâu có loại người như thế? Nhưng nghiệt ngã thay, lão thấy lão giống họ hơn là giống người! Tuy nhiên, sau nhiều đêm đôi mắt thao láo, lão thấy có dấu lệ ứa ra hai bên khóe mi. Lão nghi ngờ đưa tay lên lau dấu lệ, rồi cười mừng rỡ như chưa bao giờ được mừng. Lý do, lão biết khóc trở lại, có nghĩa là lão còn có thể cải hóa để trở về với con người. Nên lão đã khóc thương con, thương lão và thương những mảnh thịt, đống xương tan nát dưới sức nổ ép của những qủa lựu đạn, do lão chỉ huy ném vào phố chợ trong ngày lễ, ngày tết năm nào. Những qủa lựu đạn mà lúc trước lão tin rằng, nó sẽ đi vào vinh quanh với Hồ với cộng, thật ra, nó chính là những trái phá, giết chết chính bản thân và gia đình lão…

 

Trong khi đó, ông Vọng, người đang đứng chung một mái che rách nát với lão Thụy, cũng có những nỗi u uẩn riêng.

Trước khi về cái xóm thôn, có chừng vài chục nóc gia này lập nghiệp bằng nghề thổi ống bễ (lò rèn), cách đây mấy chục năm. Ông Vọng, đã mang vào người một vết tích chiến tranh không tài nào tẩy xóa được. Đó là một cái sẹo rất dài, chạy dọc theo bên đùi, xuống tận bắp chân trái. Nó là kết qủa được tạo thành từ tiếng nổ của qủa lựu đạn nội hóa, do Vẹm ném vào đồn của ông trước ngày chia đôi đất nước. Khi vết thương vừa ăn da non, một vết chém khác, tàn nhẫn hơn, chém đứt đôi đất nước của ông ra làm hai. Do đó, ông đã phải dắt vợ con, bỏ mảnh quê hương đất Bắc lại sau lưng, gia nhập vào đoàn người di cư vào Nam.

 

Vào đến đây, ông tạm quên đi chuyện ngày xưa, dồn tất cả sức lực vào đôi tay, cùng vợ con xây lại cuộc đời mới. Từ mảnh đất hoang được cấp phát, ông đổ mồ hôi xuống, kiến tạo thành một mái gia đình khá yên vui.

 

Chẳng bao lâu sau, tiếng súng phá hoại lại đùng, chát, nổi lên bên làng. Ông dù không muốn, câu chuyện chiến tranh, thêm một lần nữa lôi cuốn ông và quyện tròn quanh cái ống bễ. Ông phải ngày đêm, thổi đỏ ống bễ, tạo ra những vũ khí cơ bản cho dân làng dùng trong việc đào hào đắp lũy, vót chông, tự vệ. Những lúc ấy, ánh mắt ông đã sáng lên, đặt vào ánh thép trên đe. Ông tự tin vào một sức mạnh tự tồn của dân tộc!

 

Kết qủa, cuộc chiến mỗi lúc một sôi động, hai người con lớn của ông đã lên đường theo chiến chinh. Phần ông, ánh mắt đợi chờ trên đe, mong có ngày hòa bình không bao giờ vơi cạn. Trong bối cảnh, cùng mơ ước có ngày hòa bình, tự do, độc lập cho quê hương. Lão Thụy, đã trở thành một trong những người bạn lối xóm thân tình của ông. Họ bên nhau trong từng nỗi lo, niềm trông đợi…

 

Nhưng đến khi nghe rõ những tiếng đập cửa vẻ mạnh bạo, dồn dập, ông Vọng đâm ra lo lắng, dục đứa con trai út ra xem khách nào đến. Cánh cửa mở ra, lão Thụy với dung nhan, ngôn từ đổi khác, chân trong chân ngoài hỏi lớn tiếng:

– Hai thằng anh mày về chưa?

Thằng Nam, năm ấy mười lăm tuổi, lúng túng chưa biết trả lời sao. Lão tiếp:

– Chúng theo chân Mỹ, Ngụy giết hại nhân dân. Hôm nay Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào, chúng vẫn chưa về đăng ký với chính quyền cách mạng hay sao?

 

Từ bên trong, ông Vọng như linh cảm được sự bất tường. Vết thương chiến tranh mấy chục năm qua ông mang trên người, nay bỗng dưng trở đau dữ dội. Ông gượng đứng dậy đón khách:

– Kìa ông Thụy, lâu qúa không gặp. Ông khoẻ chứ? Mời ông vào trong nhà uống bát nước.

Lão Thụy chừng như không muốn nghe lời chân tình cũ, lão bảo:

– Nước với non gì. Bọn tàn binh đã đi trình diện, đăng ký cải tạo cả rồi. Riêng hai đứa con của ông trốn ở đâu mà chưa thấy mặt?

– Thật tình, tôi không dám dấu ông. Đến nay, đã tháng ngoài rồi, gia đình tôi trông đứng trông ngồi, mà không có một đứa nào về. Tôi không biết chúng sống chết ra sao!

– Việc sống chết không liên hệ gì đến tôi. Tôi chỉ nhân danh tình hàng xóm, nhắc nhở ông hãy tích cực động viên chúng đi trình diện cải tạo. Trước là được trở nên người mới, trong xã hội mới. Sau là được hưởng nhờ sự khoan hồng của nhà nước. Bằng không, khó tránh đường dao giải phóng!

Nói xong, lão Thụy bỏ đi và cánh cửa nhà ông Vọng từ từ khép lại. Khép lại trong âu lo và cái quan hệ giữa hai người đồng thôn năm nào không thể tồn tại. Chẳng ai qua lại với ai nữa.

 

Nói thì như thế, nhưng thật ra, ông Vọng chưa bao giờ quên được ánh mắt của lão Thụy đã nhìn dán lên người ông trước lúc bỏ đi. Hơn thế, ông cho rằng, khơi nguồn từ ánh mắt của lão đã dẫn đến cái chết của thằng Nam, con ông, trên đất Cam Bốt!

 

Ông Vọng còn nhớ, vào buổi chiều của một ngày tàn thu năm 1975, trong lúc vợ chồng ông đang mỏi mòn, chờ đợi tin tức của con. Một người lính cũ của Trung vội vã đến, rồi đi, sau khi để lại cho ông bản tin xé ruột. Trung Úy Nguyễn Tận Trung đã chết trên đường di tản từ Quảng Trị ra cửa Tư Hiền. Nghe xong bản tin, cả hai vợ chồng ông như thấy trời xa xuống đất. Họ thay nhau, qùy sụp xuống, ôm trọn lấy tấm ảnh bán thân của Trung. Nhưng, không một ai trong gia đình ông dám khóc thành tiếng!

 

Giữa lúc lệ nhòa giăng ngang đôi mắt, ông Vọng lại nhớ đến thằng cả. Không biết nó có kịp đi, hay lại gẫy cánh giữa trời không một ai hay! Kết qủa, vui buồn không rõ nét. Ông nhận được tin của Bắc từ miền đất lạ cùng lúc với bản tin thằng Nam, trúng tuyển vào đoàn thanh niên xung phong! Rồi Nam được gởi chi viện cho chiến trường Cam Pu Chia với một đoạn kết có sẵn. Mảnh đời non trẻ của Nam ngã xuống, nằm trên đất chùa tháp, không về! Những câu chuyện ấy trói buộc vào nhau, nào có khác gì một cơn ác mộng?…

 

Đến hôm nay, hai người hàng xóm một thời, kẻ thù một dạo, bất ngờ gặp nhau. Gặp nhau để thấy rõ phần bất hạnh và nỗi muộn phiền của mỗi bên. Gặp nhau để biết hai cái khổ cùng khổ, nhưng không đồng ngộ!

 

Một bên, hoài đời trong giấc mơ, giấc mơ là một bát cơm của người! Kết qủa, miếng cơm không có và giấc mơ tàn lụi. Suốt một đời theo “cách mạng”  Việt cộng, để mong có được cơm no áo ấm, có được một ngày độc lập, hòa bình tự do cho quê hương. Không ngờ, lão lại bắt gặp cái hòa bình, tự do theo kiểu việt cộng. Đã thế, vào lúc cuối đời, trên thân hình tàn tạ của lão, chỉ còn một manh áo rách, một cái quần cụt tả tơi. Tả tơi như phần đời còn xót lại của đôi dép râu đứt quai, nối cột nhiều lần dưới bàn chân chai, mất cảm giác của lão. Như thế, niềm hạnh phúc, nỗi ước mơ của lão, của dân tộc sẽ không thể đến và tồn tại với đôi dép bình trị và cái mũ cối oan khiên của Hồ của cộng!

 

Nhiều lần, lão trách mình đã khờ khạo, ngu dại để bị lừa dối, để bị mất cả tuổi thanh xuân trong lao tù, để mất cả đàn con. Lão giận lão không có đủ khôn ngoan, để biết trước cái sự thể giải phóng, cách mạng của việt cộng như ngày hôm nay. Nếu biết, lão thà chấp nhận manh áo rách, cái cày cái cuốc với mảnh vườn trong xóm thôn, để có được niềm vui nhỏ với vợ con, với hương thơm ngày mùa hơn là việc tự ở lại làm cơ sở, và gởi hai đứa con đi theo tập kết. Và nếu biết trước, lão đã không mất dân, mất làng, không bị tiếng đời mỉa mai. Nay lão tự nghĩ thế, nhưng có ăn năn, dường như cũng trễ, lão chỉ còn lại một tiếng thở dài thấm thía. Bụi nước bay ngang trước mặt, mà lão tưởng chừng là giọt nước mắt nóng cuối cùng trong đời, lão còn có thể chảy ra.

 

Rồi một bên khác, lửa nguội dần theo ánh thép. Ánh thép không tạo nổi niềm tin! Lúc cuốn mình trong giấc mơ tự do cho quê hương. Ông từ gĩa tuổi thanh xuân theo nghiệp nước. Phần đời của chiến tranh là một vết thương trên thân thể. Vết thương không còn đau, và cũng không có gì để hối hận. Tuy nhiên, mỗi lần thấy nó là một lần thấy toàn bộ niềm đau của đất nước. Dĩ nhiên, lúc ra đi, ông đã không mang theo trong người mộng ước có nhà lầu, xe hơi. Cũng không vui theo bả vinh hoa cho bõ tiếng đời. Nhưng chỉ muốn, có ngày hòa bình, có ngày tự do, có ngày người dân Việt bên nhau xây dựng quê hương. Để từ đó, ít nhất, ông có được một niềm vui trong tự tính dân tộc. Tự tính đã không làm hổ mặt tiền nhân trong việc dựng nước, giữ nước.

 

Rủi thay, vì chểnh mảng, vì cuộc cờ vui qúa chén. Niềm mơ duy nhất còn lại của ông là một nửa quê hương, cũng rơi vào tay Hồ cộng. Để từ đó, cả hai miền cùng chung một nỗi đớn đau, cùng chung một mảnh khăn tang thấm lệ từng đêm. Riêng ông, chịu thêm cái đau của một người mất con trong lúc gần tàn chinh chiến. Tệ hơn thế, mất một đứa khác giữa lúc tiếng súng tương tàn đã thôi nổ trên quê hương, nhưng lại nổ trên đất người vì mộng tham tàn của cộng nô.

 

Ngần ấy nỗi đau đè xuống trên tấm thân gìa. Cộng thêm cảnh mờ đôi mắt chờ đợi tin người con ra đi theo đoàn quân năm nào. Những tưởng có ngày, nó sẽ đem về, không những chỉ cho ông, mà còn cho làng thôn niềm hạnh phúc trong ngày khai hội mới. Nhưng ngày khai hội, mở kèn chừng như không thấy. Chỉ thấy cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược:

“ Trong làng tiếng trống cầm hơi thở,

Ngoài nước khua chiêng khéo tảng lờ!

 

Càng làm cho lòng ông thêm tan nát. Tan nát không phải vì thiếu miếng cơm manh áo. Nhưng vì một sự chờ đợi có lẽ không gặp! Theo đó, ông cũng không dấu nổi tiếng thở dài! Hai tiếng thở dài bên phố chợ bất ngờ gặp nhau, bốn ánh mắt lại mở ra. Mở ra trong muộn phiền. Lão Thụy buột miệng:

– Mưa lớn qúa?

Lời than thở vừa dứt, lão sửng sốt đến độ ngỡ ngàng. Bởi vì lão không ngờ là được nghe thấy lời đáp trả:

– Phải, mưa to lắm!

Không bỏ lỡ cơ hội, lão Thụy xoay hẳn người lại, nhìn người giáp lưng:

– Ông bà có khỏe không?

Ông Vọng ấm ức nhìn mưa rơi, lão Thụy không ngần ngại:

– Tôi biết, trong phần đời của tôi, về mặt tình cảm riêng, tôi có lỗi với ông bà. Và đối với làng thôn, tôi làm thế, thật không phải đạo!

 

Ông Vọng quay lại, nhìn con đường đã được mở ra trước mặt. Con đường duy nhất, ông đã từng nghĩ đến để đi. Như thế, chẳng còn một lý do nào để trói buộc ông vào những thù nghịch, nghi kỵ. Trái lại, hơn lúc nào hết, nó thúc dục ông phải mở đôi mắt bao dung ra. Mở ra, để ông quên niềm đau, quên sự đối nghịch của dĩ vãng. Mở ra, để ông có thể đón nhận người đồng thôn, quay về trong tình tương ái dân tộc:

– Nói cho ngay, chuyện xưa ấy tôi chẳng muốn nhắc lại làm gì nữa. Nhưng mỗi khi nghĩ đến ngày mai, lòng tôi thấy buồn hơn.

Ông Vọng bỏ lửng câu nói, lão Thụy vội tiếp lời:

– Ông nói phải! Con đê đã vỡ, không thể một lúc mà đắp lại được! Tuy thế, ta không thể ngồi nhìn nó tàn phá làng thôn! Không thể ngồi yên, nhìn nhân dân mỗi lúc một thêm cơ hàn, đói khổ dưới cái đe búa liềm. Việc xây dựng lại, ý ông định thế nào, tôi chưa rõ. Phần tôi, dứt khoát phải tháo bỏ cái gông cùm cộng sản cho nhân dân. Tôi, ngoài cái thân xác vô dụng này, không còn gì để mất thêm nữa…

 

Lão chưa dứt tiếng, bốn con mắt của người cùng giao động nhìn nhau. Họ nhìn và như đã thấy nhau. Thấy nhau hơn là bằng lời nói. Ngoài kia, sau cơn mưa một chút sáng nhẹ đã vươn lên trên đường chân trời. Một con gà trống nhảy đứng lên trên hàng rào. Nó xo vai, vỗ đôi cánh ướt cất cao cổ gáy gọi. Cả hai người cùng buột miệng:

– Mưa đã tan rồi ông ạ!

Nói xong, hai người của làng thôn một thời, đối địch một dạo, nhìn nhau. Họ hăm hở, kẻ trước người sau, lần lượt nhảy qua rãnh nước. Khi đi, tay chưa nắm trong tay, nhưng cả hai cùng bước trên con đường trơn trượt về nhà. Nhà chung một hướng dưới nắng Vàng che chở..

 

 

Bảo Giang,

 

 

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

 

 

Đêm chờ sáng.

 

 

Sau khi đặt thêm khúc củi vào lò nấu bánh, ông Vọng đứng dậy, với tay cầm lấy cái cưa nhỏ bước ra sân, định cắt lấy một cành mai kha khá để chưng cho mấy ngày tết. Đến lúc đứng  dưới gốc cây mai già ở phía đầu sân, lòng ông lại lưởng lự, không quyết. Bất chợt, ông buông lỏng tay cưa, vất nó dưới gốc cây rồi lững thững từng bước chậm chạp theo màu nắng chiều trên sân.

 

Thật ra, đây không phải là lần đầu ông bất quyết như thế, nhưng suốt một tuần nay, chả ngày nào mà ông không bị rơi vào cái tâm trạng hụt hẫng, lưng chừng thế này. Cứ mỗi lần muốn cưa một cành Mai là một lần ông như nghe như có tiếng gọi reo vui của con ông:

– Bố  ơi, ra mà xem, cây mai con trồng đã ra hoa rồi này.

Nghe tiếng gọi, ông Vọng bước về phía đầu sân, dừng lại bên cây Mai cao chưa qúa gối. Ở đó, Trung, con ông như ngây ngất, nâng niu đôi cánh hoa vàng khoe sắc lần đầu tiên. Nhìn con lặng lờ  bên cánh hoa màu mới, ông bảo:

– Đẹp, đẹp thật! Sang năm thì chắc nó sẽ nở rộ hơn.

Trung nhìn ông:

– Con cũng nghĩ thế, mà ba có thấy nó tươi thắm giống như màu cờ của đất nước mình hay không hả ba?

Ông Vọng nhìn xững trên mặt con. Ông chưa hiểu ra được ý nghĩ trong câu hỏi của Trung thì câu chuyện bị cắt ngang. Cả hai cha con ông đều đứng bật người dậy, ngoảnh mặt nhìn ra đầu ngõ. Họ ngạc nhiên vì ngoài những tiếng nện thình thịch trên đường là hình ảnh của vô số người quần áo xốc xếch, chạy như là có ma đuổi vừa vụt ngang qua. Óc hiếu kỳ đẩy hai cha con ông lần bước ra ngoài đường thay vì đứng bên gốc Mai. Ra đến nơi, ông Vọng kịp nom thấy bà sáu Cơ ôm quần cao ngang gối chạy trờ tới. Ông vội hỏi:

– Chuyện gì thế chị Sáu? Mới đầu năm, đầu tháng mà sao thấy chị chạy như trời sập vậy?

Người chạy không dừng chân, đáp trả:

– Ông giỏi thì đứng đó mà ngó hoa, ngắm kiểng đi. Ba cái thứ đó không giúp gì được đâu. Bọn Việt cộng đã tràn vào làng, vào xóm rồi. Bộ ông không thấy bà con mình chạy muốn đứt hơi rồi hay sao?

Ông Vọng giật thót người, hỏi lại:

– Bọn nó đã vào làng rồi à? Ai cho tin vậy chị Sáu?

Người chạy, khuất bóng sau con ngõ nhỏ, không kịp trả lời. Kẻ đứng nhìn, thấy lòng rúng động, nhưng chẳng biết gì hơn ngoài cái bản tin ngắn ngủi bà Sáu vừa đưa. Tuy nhiên, kinh nghiệm của thời chiến đã giúp ông mau mắn làm một bài tính gọn nhẹ. Một mặt, ông dục Trung chạy quanh một vòng ra đường, ra phố xem tình hình động tĩnh ra sao. Nếu nó trở về với bản tin nguy kịch, ông và gia đình sẽ khăn gói quả mướp lên vai rồi chạy. Chạy đi đâu, chạy bằng phương cách nào, hoặc chạy về hướng nào, ông chưa biết. Nhưng người chạy thì ta cũng phải chạy. Tuyệt đối là không thể ở lại.

 

Phần ông, sau khi đẩy thằng con đi thám thính tình hình, ông gấp rút trở vào trong nhà, mở cái đài lên để nghe tin tức. Trong lúc nghe bản tin, ông sẽ không quên âm thầm đi kiểm tra lại cái hầm tránh pháo cho gia đình ở trong buồng, xem nó còn khả dụng hay không. Nếu không, ông phải lo liệu cách nào đó cho kịp thời.

 

Sở dĩ ông Vọng phải toan tính thế là vì: Thứ nhất, căn hầm này tuy do đích thân ông và con ông đào, rồi đặt gạch, tráng xi măng, xếp bao cát. Nhìn qua thì khá kiên cố. Tuy thế, nó chỉ có khả năng che chở tạm cho gia đình ông trong trường hợp tránh mũi đạn lằn tên, hoặn né tránh những loại cối nhỏ thôi. Nhưng nghe đâu mấy lúc gần đây, bác đảng Việt cộng không chịu phóng đi những qủa cối loại 60, 61 vào khu dân cư nữa. Bởi lẽ, tiếng nổ không lớn, không đủ khả năng làm vui lòng bác, êm tai đảng. Nên chúng đã thay thế loại cối nhỏ xưa kia bằng những B40, sơn pháo 130, hoặc hỏa tiễn 120 hay 122 gì đó. Loại này nghe tên đã hay mới lạ, mà đến tiếng nổ của nó dễ làm dân chúng… chết giấc hơn! Tả thì như vậy, nhưng sự thật, chả nói ra ông Vọng đã biết, nếu gặp phải loại này trúng… nhầm thì cha con ông chắc chắn không cần phải đào lỗ để chôn nhau nữa.

 

Lý do thứ hai, tuy nói là có hầm trú đạn pháo. Nhưng thật lòng, ông Vọng cũng không dám tin tưởng vào sự kiên cố của căn hầm để cho gia đình ông trú ẩn lâu. Bởi lẽ, nếu tin vào đó mà gia đình ông rung đùi, ngủ kỹ, đến khi tai không còn nghe tiếng đạn pháo qua lại. Ông hồ hởi đưa vợ con ra khỏi hầm ăn tết, lại đụng đầu ba cái thằng Việt cộng đang ngồi kiểu nước lụt ở giữa nhà chờ thời, nói ra thì bảo là dại mồm dại miệng, nhưng chẳng thà chết trước đi còn hơn là phải nom thấy những bản mặt cực vĩ đại ấy. Và đó cũng chính là cái ẩn ý lúc ông dục con ông đi thám thính tình hình bên ngoài để cho ông liệu đúng kế sách!

 

Khi ông vừa mở cái máy thu thanh lên, tiếng người phát ngôn viên đang truyền đi bản tin Việt cộng tấn công nhiều thành phố của miền nam, trong đó có cả cái huyện lỵ ven biên nơi ông đang cư ngụ, làm ông bở vía, rụng rời tay chân. Bản tin vừa dứt là lệnh giới nghiêm 24/24 được nhắc đi nhắc lại. Ông chết lặng, nhìn quanh. Cùng lúc ấy, ông thấy vợ ơng đang thắp nhang đặt lên bàn thờ. Ông cố trấn tĩnh, định bước đến thắp vài nén nhang cho ông bà, và chờ thằng Trung về, ông mới cho cả nhà biết bản tin cũng như những dự kiến cần thiết của ông. Bỗng đâu, ầm ầm hai ba tiếng nổ liên tiếp làm rung chuyển cả mặt đất, tường nhà. Vợ ông hốt hoảng, cây nhang trong tay rơi xuống đất, bà hét lên:

– Chuyện gì thế ông? Chúng nó pháo kích à?

Ông Vọng, mặt không còn một chút máu, lại đâm ra gắt gỏng:

– Bà còn đứng đó làm gì? Thằng Nam, con Hạ đâu, bà không kéo chúng xuống hầm ngay đi!

Theo lệnh của ông, bà Vọng cuống cuồng lôi kéo thằng Nam, và con Hạ vào trong buồng rồi theo nhau chui xuống căn hầm trú đạn pháo. Trong bóng tối bất ngờ, thằng Nam ngã chúi xuống căn hầm, tiếng khóc ré lên. Ông Vọng xốt ruột chạy vào:

 

– Chuyện gì thế, nó có việc gì không? Nhờ có bấy nhiêu việc thôi mà bà làm cũng không xong. Sao mà tối thủi tối thui thế này. Đã bảo đốt cây đèn lên. Hộp quyẹt đây! Thắp cây đèn lên!

 

Tiếng ông Vọng cứ oang oang làm như ông tướng ở mặt trận trong lúc đôi tay run cầm cập, cầm không vững cái hộp quẹt. Lát sau, ngọn lửa bắt cháy trên cái tim đèn bão (loại đèn có quai sách làm móc treo, và có thể dùng để đi ra ngoài khi trời gío lộng). Ông cầm cây đèn quơ qua quơ lại trong lòng hầm:

 

– Bà cầm lấy, treo nó lên cái móc tôi làm sẵn ở phía trong kia kìa. Đấy, cái móc ở ngay phía tay trái của bà đấy. Bà nom thấy nó chưa. Treo lên, rồi xem nó có việc gì không? Đến là khổ!

 

Càng dục, bà Vọng càng rối. Mãi sau bà mới vươn người lên, một tay cầm lấy cây đèn trong tay chồng, còn một tay khác thì đưa qua đưa lại trên nóc hầm để kiếm tìm cái móc theo lời ông chỉ.

 

– Kia kìa, ở ngay phía sau lưng bà đó. Treo nó lên đấy!

 

Giời a, theo lời ông, bà tìm ra cái móc. Nhưng khi vừa đụng tay vào cái móc, tiếng bà vội trả lời:

– Móc ở đâu mà có. Toàn là màng nhền nhện không!

Ông Vọng bực mình, xoay người tụt xuống hầm. Khi chân ông chưa chạm đáy hầm, mùi hôi, mùi ẩm mốc của căn hầm đã thổi thốc vào mũi. Riêng đôi mắt ông thì bắt gặp ánh mắt trắng dã của mẹ con bà Vọng và một vệt máu nhỏ bên khóe mắt Nam. Ông xót ruột:

– Bà xem cái mắt của nó có làm sao không? Đưa cái đèn cho tôi.

Nói chưa dứt câu, ông Vọng trượt chân, ngã lăn xuống lòng hầm. Thấy mình ngã đè lên trên một vật mềm mềm, tròn tròn, Ông hốt hoảng chỗi dậy:

– Đứa nào thế này?

Hỏi xong, ông mới vỡ lẽ, đó là cái bao cát. Cái bao cát này, chính ông đã dùng nó như một vật cần thiết để chặn trên miệng hầm. Nhưng khi giặc chưa đến, vài đứa con nhỏ của ông có lúc đã rủ nhau vào căn hầm này chơi trò trốn tìm nhau. Chúng đã dời vị trí của những bao cát đi, làm ông mất định hướng. Thêm vào đó, từng chập đạn pháo vẫn ì ầm vang dội làm ông Vọng mất hết bình tĩnh, té lộn nhào vào trong hầm. Đến sau khi chống tay chỗi dậy, ông Vọng mới thực biết trong lòng căn hầm nhỏ không những chỉ có vài ba cái bao cát đổ xuống, mà còn rất nhiều những thứ đồ chơi khác của lũ con ông vất ngổn ngang trong hầm. Từ ống loong sữa bò, ve chai, con diều, giây nhợ, đến sách vở, bìa học cũ chẳng thiếu một thứ nào. Ông càu nhàu, gập người xuống thu dọn:

 

– Bố chúng mày, đồ đạc, que gậy, giây nhợ ngổn ngang thế này mà không ngã vỡ đầu ra cũng là chuyện lạ. Bà xem cái mắt của nó làm sao rồi?

 

Miệng nói tay làm. Khi tạm xong, ông nhổm người dậy thì mặt lại vương đầy những màng nhện. Ông thở hắt ra một tiếng, cúi xuống bê bao cát để lên miệng hầm và sửa lại cái bậc lên xuống. Cùng lúc ấy, bà Vọng đưa sát cái đèn vào mặt Nam để nhận diện vết thương:

– Chắc là không sao!

 

Sau khi tìm được cái búa, đóng được cái đinh tạm làm cái móc trong nóc hầm trú ẩn, ông Vọng trở lên, kéo lấy cái chiếu đưa cho vợ, bảo bà yên tâm trải rộng xuống trên nền đất trong hầm cho lũ con tạm nằm nghỉ và chờ ông xuống sau. Nghe ông dặn thế, bà Vọng cùng hai đứa con thu người, trải rộng cái chiếu ra trên sàn hầm. Trải xong, ba mẹ con bà ngồi co ro trên cái chiếu, ôm trọn lấy lo âu!   Phần ông, ông trở ra nhà ngoài, đứng như nép mình bên cánh cửa để đợi Trung về. Từng mỗi tiếng đạn pháo vọng đến là ông nằm phủ phục xuống sàn nhà. Tay ôm chặt lấy đầu, răng đánh bồ cào và đau thót ruột gan. Ông tự trách mình tính kế qúa non. Biết vậy đừng dục nó đi nữa thì hơn!  Bây giờ biết nó đi đâu mà tim. Một lúc sau, Trung hớt hải chạy về nhà, nó vội vàng trong hơi thở đưa cho ông bản tin ngắn:

 

– Chắc nguy rồi bố ạ, ra đường thấy vắng lắm, chả gặp mấy người. Nếu có gặp thì cũng chả ai biết chuyện gì ngoài việc thấy người ta chạy là mình chạy thôi. Nó ngưng lại một chút, tiếp: Con chạy ra khu chợ và trường học thì nghe nói có hai, ba hỏa tiễn loại lớn, rớt nhầm vào đó. Có mấy người chết và chừng mươi người bị thương bố ạ!

 

Ông Vọng nhướng mắt hỏi lại con:

– Những ai thế con?

– Ai cũng lo chạy, nên chả biết ai là ai!

Ông Vọng quay vào, lẩm bẩm một mình:

– Thế thì còn gì là tết với nhất!

Nói xong, một tay ông bưng cái dĩa, trên đó có cái bánh chưng bà Vọng đang bóc dở. Một tay cầm lấy cái máy thu thanh đi vào trong buồng. Khi đi, ông không quên bảo Trung khóa lại cánh cửa, và lấy đũa chén, bình trà, hộp mứt, đem theo xuống hầm!

 

Căn hần không rộng hơn cái chiếu trải rộng. Phải một lúc khá lâu, ông Vọng và vợ con mới tạm ổn định được chỗ ngồi. Khi cái bánh chưng, hộp mứt, bình trà đặt trên chiếu bắt đầu rõ nét trước ngọn đèn mờ, cả nhà ông Vọng mới bàng hoàng nhìn nhau. Họ không ngờ, phải ăn một bữa ăn đầu tiên của một năm trong căn hầm tạm trú với đủ mọi lo âu, cộng chung với những mùi hôi, mùi ẩm mốc của hơi đất xông lên này. Biết cảnh không vui, nhưng họ bằng lòng với số vận. Bởi lẽ, họ còn nhau trong căn hầm, hơn là cùng trên một mâm cỗ đầu xuân với một qủa B40 của Hồ nhân nổ tung giữa bàn!

 

Trong lúc ngồi dưới hầm, bụng ông Vọng cứ đánh lô tô. Không biết là dân làng cùng xuống hầm như ông, hay họ đã bỏ chạy cả rồi. Tự lo thế, mấy lần ông tính dục con ra khỏi hầm nghe ngóng, nhưng lại sợ con ăn nhầm phải B40 của bác, nên lại thôi. Qua trưa, tiếng đạn pháo lắng xuống, Ông Vọng rồi Trung ra khỏi căn hầm. Lát sau, bà Vọng và đứa con nhỏ cũng lên theo. Họ bỗng nhìn nhau bật cười. Những bộ quần áo mới, một năm tưởng mới có dịp mặc một lần. Lúc này, chả còn một chỗ nào mang màu vải, nhưng tất cả đều lem luốc một màu đất! Để tranh thủ thời gian tạm yên, ông Vọng dục bà làm sẵn bữa ăn. Ăn xong, họ lại kéo nhau xuống căn hầm tạm trú. Đêm ấy, những cái giường của nhà ông Vọng đều để trống. Rất may là không có mảnh đạn nào ghim vào…

 

Rồi chiều nay, mùa Xuân của đất trời lại trở về, và ông Vọng vẫn còn sống để lẩn thẩn đếm từng bước mỏi mòn trên cái sân vắng. Lúc đi, miệng ông lẩm nhẩm, tay ông tính toán. Chóng thế, mới đó mà cái ngày chạy giặc ấy đã xảy ra cách nay ngót ba mươi năm rồi. Thật chỉ vừa kịp chớp mắt một cái đã qua thêm ngần ấy tuổi đời. Bất giác, lòng ông dâng lên tiếng thở dài khi nhìn nắng chiều đang đổ xuống trên gốc mai. Mai còn mà người đâu không thấy?

 

Trung, Nguyễn tận Trung con ông, năm ấy đang học những năm cuối của bậc trung học. Nó là một đứa trẻ rất gan dạ và say mê môn lịch sử. Đến khi nó vừa bước chân vào ngưỡng cửa đại học thì chiến tranh mở rộng. Trung theo gương người xưa, xếp bút nghiên mà theo việc kiếm cung. Kết qủa, giữa tháng ba năm 75, Trung đã ra người thiên cổ tại cửa Tư Hiền trong lúc cố gắng đưa toán quân của anh xuống tàu di tản về nam. Khi ấy, Trung vừa 25 và tròn năm tuổi lính!

 

Ngày Trung về lòng đất, không một người đưa, không hàng quân bồng súng tiễn biệt, chỉ có tiếng thét gào của đàn chim vỡ tổ! Lúc Trung nằm xuống, giấc mơ của anh chưa tận và anh chưa chết trong lòng người dân Việt thiết tha vì quê hương. Nhưng mỉa mai thay, quê hương của anh từ đó không còn lẽ sống, không còn tự do, không có hòa bình, không có độc lập, không có cơm no áo ấm, mà chỉ có nón cối dép râu, và hình hài, miêu duệ của loài Hồ nhân múa rối! Riêng người lính, khi ra đi thì vì nghiệp nước, đến khi nước mất thì lại về đất cho cây rừng thêm xanh một chút lá!

 

Đoạn đường cũ chưa vơi niềm khổ đau, đất mới lại thêm cỏ úa mầu. Chuyện thằng bé ngã chúi xuống căn hầm trong ngày chạy giặc vào mùa xuân Mậu Thân năm nào, vẫn là câu chuyện không bao giờ mờ đi trong tâm trí của một người gìa như ông Vọng. Bởi lẽ, cứ một lần tết đến là một lần ông hình dung lại toàn bộ những hình ảnh vào buổi sáng hôm ấy. Nó đến với ông chẳng khác nào bánh chưng với ngày tết. Cứ ngó thấy cặp bánh chưng là ông nhớ đến cái tết Mậu Thân.

 

Bởi đến sau ngày người ta gọi là giải phóng, thằng bé ngã dúi xuống căn hầm chạy giặc năm nào kia, được bác đảng Việt cộng… ưu ái, tuyển vào đoàn thanh niên xung phong. Tuổi đời nó vừa chớm, lưng mất chỗ tựa. Nam, Nguyễn Việt Nam được trao tay cho chiến trường Cam Bốt năm 79. Nam ngã xuống như một định luật khắt khe có từ trước khi đi. Nó đã không trở về với cha với mẹ. Không trở về với quê hương Việt!

 

Sau hai lần nhận được tin con tử biệt, nhưng không một lần được nhìn thấy mặt, không được đưa tiễn, cũng không có lấy một nấm mồ yên nghỉ, cánh cửa nhà ông Vọng đã đóng lại. Thời gian không còn là một hạnh phúc, không còn là phút nhiệm màu chờ đợi. Trái lại, nó như biển đắng, đổ sầu xuống trên mớ tóc bạc của bà. Nó như núi khổ, đổ đá xuống đôi vai mỏi của ông! Và cũng từ đó, tên của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, không còn sống, không còn gợi nhớ trong ông. Cái tết, đêm ba mươi, đến với ông chỉ như một tưởng nhớ, như một tập tục buồn:

 

– Tết đến mà lòng thấy ngẩn ngơ,

Ba mươi sắp hết chẳng ai chờ!

Khói nhang vắng lặng nơi đền miếu,

Rêu mốc tường xưa, dấu phủ mờ!

Đâu phút linh thiêng đổi cũ mới?

Đây giờ khắc khoải đĩn giao mùa.

Đì đùng dăm tiếng đâu ngoài ngõ,

Lẹt đẹt đôi nơi tiếng pháo hờ.

 

Ông Vọng ngước mắt lên cao, trời trong xanh mà lòng ông thổn thức. Gịot nước mắt gìa bỗng dưng rơi, nhỏ xuống trên cái cưa ông đặt trên thân cây Mai. Riêng con nắng chiều thì vội vàng lịm chết phía bên kia đường!

 

Trong lúc đó, vợ ông lo làm cơm chiều. Bà không để ý gì đến những nỗi niềm riêng của ông. Đến khi nhìn cây Mai đứng giữa nhà, ngọn nó cao gần chạm nóc, bà mới hỏi:

– Sao ông chặt cành Mai lớn thế?

Ông Vọng thản nhiên ngồi xuống trên cái ghế, mắt không rời cành Mai:

– Vạn thiên niên kỷ, mỗi năm đều có một lần Xuân. Mình không chờ, Xuân vẫn đến. Như thế, năm nay tôi sẽ chờ!

Bà chưa hiểu ý ông muốn nói gì. Mãi đến khi thấy ông mở ngăm kéo, lấy lá thơ của Nguyễn Phương Bắc ra, rồi trịnh trọng treo lá thơ lên thân cành Mai thay vì những thiệp chúc tết của nhân gian thường tình, bà mới chợt hiểu cái nguyên do chờ xuân của ông. Bởi lẽ, trong lá thơ ấy có đoạn Bắc viết: ”Con biết, hai mươi năm xa cách là hai mươi năm cha mòn mỏi chờ tin con. Hai mươi mùa Xuân qua, là hai mươi lần mẹ vò võ trong bóng đêm… Phần con, trên đất người cũng chưa bao giờ có một lần Xuân! Con rất muốn về bên gối mẹ cha, nhưng chưa thể về. Cha mẹ tha thứ cho con… Riêng mùa Xuân này, con sẽ cho nhà con và hai cháu Trung, Nam về thăm nội…”

 

Lá thơ ngắn, nhưng đủ làm cho ông bà Vọng thay đổi cuộc sống. Ông đã đi ra xa ngoài đầu ngõ, chuyện trò qua lại với hàng xóm hơn là đứng ủ rũ chờ chết trong sân như những năm tháng trước. Riêng cội Mai trước ngõ, có đến mấy năm nay ông không màng chi đến nó. Bỗng lúc gần đây, ông trở lại chăm bón, vun tưới và đặc biệt tính ngày vặt lá cho nó trổ bông. Bấy nhiêu vẫn chưa đủ, ông còn dặn dò bà nhớ ra chợ, mua thêm thúng nếp về cho ông gói nồi bánh chưng chờ giao thừa. Khi nghe ông nói toàn những câu chuyện khác với thói thường, bà Vọng đâm lo. Lo vì biết đâu nó là cái đềm gở! Mãi đến lúc gần đây, bà mới dám tin đó là cuộc hồi sinh của ông. Bởi vì, có lần chính ông đã đưa ra đề nghị:

 

– Hay là mình bao một cái xe đi đón chúng nó hả bà?

Bà bật cười nhìn ông:

– Ông đến là lẩn thẩn, có biết mặt mũi chúng nó ra sao đâu mà đi với đón!

Ông Vọng không chịu nhường bà:

– Thì mình cứ mang theo tấm hình này đi mà đón.  Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Chả lẽ mình nhận ra, chúng lại không?

Bà Vọng thấy chồng có lý, nhưng lại trả lời:

– Ông không nghe con nó viết về đấy à? Thầy mẹ không nên đi đón, để tự nhà con thuê xe đưa các cháu về thăm nội! Như thế, tôi đề nghị là ông nên sửa soạn lại cái căn buồng, kê lại vài cái giường cho chúng về đỡ lưng thì hơn. Phần tôi, tôi sẽ mua thêm cặp chiếu mới là được.

Ông Vọng gật gù mỉm cười, chịu bà giỏi tính. Đến khi ngồi quanh mâm cơm giỗ chiều ba mươi, ông Vọng tỏ rõ sự nôn nóng:

– Chỉ còn mấy giờ nữa là trời sáng và lũ con cũng sắp về tới rồi đấy bà ạ!

Bà rót cho ông ly rượu nhỏ:

– Đêm nay ông nhất định chờ trời sáng đấy à? Thôi, ông ăn cơm đi rồi đi nghỉ sớm cho nó khoẻ! Vài chục năm nay ông chẳng đón, nay còn chờ với đợi làm gì.

Biết vợ nói kháy, ông Vọng đưa mắt nhìn nồi bánh chưng, loại bánh gói tự tình của dân tộc, nói lảng:

– Bà đã thêm nước vào chưa?

Bà gật đầu. Cơm nước xong, vợ chồng ông Vọng ngồi bên nồi bánh ôn lại những chuyện xưa. Chuyện từ ngoài Bắc đến trong Nam. Từ chuyện thằng nhớn cho đến đứa nhỏ. Tất cả đều trở về với ông bà Vọng trong đêm trừ tịch này. Rồi từng tiếng than nổ tí tách trong lò như đã làm reo vui nét hy vọng trên khuôn mặt có qúa nhiều nếp nhăn của đôi vợ chồng gìa. Đến gần nửa đêm, ông dụi lửa, đứng dậy và bảo bà chuẩn bị dỡ bánh.

 

Khi chiếc bánh cuối cùng đang được ép nước, ông Vọng đột ngột dừng tay. Ông dừng tay và nghiêng tai lên để nghe như có những tiếng đập mạnh trước cửa nhà. Chẳng hẹn mà cả hai ông bà đều đưa mắt như dò hỏi nhau xem là có chuyện gì xảy ra. Tiếng đập cửa mạnh hơn, gấp rút hơn làm trống ngực của hai ông bà gìa cũng dồn dập thêm.  Ông Vọng lạnh người, run tay, bỏ dở việc ép nước chiếc bánh,  vơ vội lấy tấm chiếu che lên trên hàng bánh rồi chầm chậm lê đôi dép, đi ra cửa:

– Ai đó!

– Tôi đây ông bà ạ!

Âm thanh của giọng nói vừa vang vào trong nhà đã làm cho bà Vọng giật thót người lên. Bà nhớ đến tiếng đập cửa và giọng nói của người này trong một ngày năm xưa. Bà hốt hoảng, chạy lao đến, nắm chặt lấy cánh tay ông, lo âu:

– Chuyện gì thế ông? Đã gần nửa đêm rồi, ông ta còn gọi cửa làm gì thế?

Trống ngực đã mạnh như trống đê, thêm câu hỏi của bà làm đôi chân ông Vọng muốn khụy xuống. Ông cắn chặt lấy hàm răng đã rụng quá một nửa, tự nghĩ:

– Gì thì gì, ông không thể ngã vào lúc này được!

Ý nghĩ mạnh giúp ông bớt hồi hộp. Ông hít thêm một hơi cho đầy lồng ngực, rồi từ từ hé mở cánh cửa ra. Một chút ánh sáng thoát ra ngoài, chiếu hắt lên trên một hình nhân không sắc. Ông Vọng giật lùi lại nửa bước:

– Ai đó?

– Tôi đây!

Ông Vọng ngập ngừng đôi chút rồi dang rộng cánh cửa ra. Lão Thụy, người hàng xóm và cũng là kẻ đối địch một thời, không những của riêng ông, nhưng của làng thôn, đang đứng sừng sững trước mặt. Bà Vọng nom thấy lão, bà thất thần hồn, chạy quay vào. Bà quay vào vì biết lão chính là kẻ chỉ điểm cho Việt cộng ném lựu đạn, khủng bố nhân dân vào những ngày tết, ngày lễ năm xưa. Biết lão là kẻ đã dựng cái búa, cái liềm, con dao mã tấu và đôi dép râu lên quê hương của bà. Bà nhớ lão là kẻ đã giúp Hồ nhân đạp đôi dép râu lên bàn thờ dân tộc, tổ tiên. Và nhất là, bà nhớ lão chính là kẻ đã gõ cửa nhà bà năm xưa, rồi nhân danh tình lối xóm hơn là chủ tịch ủy ban, chúc mừng bà vì đứa con út của bà trúng tuyển vào đoàn thanh niên xung phong để chi viện cho Cam pu chia.

Ngần ấy thứ đã làm cho đời bà nát tan, bà không dám, hơn là không muốn giáp mặt người này bao giờ nữa. Những câu chuyện ấy lâu nay bà thấy tạm vắng, bà tưởng nó đã hoàn toàn là của dĩ vàng. Không ngờ, nó lại hiện ra trước mặt bà vào giữa đêm ba mươi. Đêm mà vợ chồng bà quyết định chờ sáng. Bà hoảng vía, run rẩy bước gần lại bên lò than còn đỏ lửa, tìm hơi nóng, trong lúc đôi mắt không rời cái cánh cửa ra vào.

 

Rồi giữa lúc đôi mắt bà mở ra trân tráo, cánh cửa kia đã không khép lại. Tệ hơn thế, nó còn mở rộng thêm. Bà vội bưng tai, bịt mắt để cố xóa đi, che dấu đi cái hình ảnh kinh hoàng đang hiện diện. Khốn nỗi, nó đã không đi, lại còn theo sau chồng bà bước vào! Trời đất hỡi, trí bà quay cuồng, mắt bà hoa lên. Bà hết nhìn cái hoạ đang đứng giữa nhà, lại nhìn dán lên hàng bánh chưng còn bốc khói đặt trên cái ghế dài gần đó. Có thể nào, chúng trở thành một cái nguyên cớ mới để họ kết tội gia đình bà hay không? Hỏi xong, bà gục đầu xuống lòng đôi tay đặt trên gối ăn năn:

– Thế này là chết hết rồi ông ơi! Tết với nhất gì nữa! Đêm với lại chả ngày. Con hỡi con!

Tiếng than ai oán trong lòng bà chưa dứt, tai bà lại  nghe rõ những ăm thanh rất kỳ lạ:

– Mời ông ngồi nghỉ chân!

Bà Vọng chắp tay, giật thót người, ngẩng đầu lên khi nghe rõ tiếng mời chào của chồng bà. Phần cái họa, kẻ làm mất mùa Xuân và giết chết niềm hy vọng của dân tộc Việt thì đứng như trồng, đôi mắt to đảo một vòng rồi nhìn dán lên hai tấm di ảnh của Trung và Nam trên bàn thờ. Đột nhiên, có tiếng của lão ngập ngừng:

– Xin… xin ông bà cho tôi được đốt nén hương tạ tội với hai cậu ấy!

Ông Vọng thảng thốt nhìn hai đứa con, trả lời:

– Chuyện đã qua rồi, ông chả nên nhắc lại làm gì nữa!

Như có dự kiến từ trước, lão Thụy khẩn khoản hơn:

– Tôi biết là chuyện dĩ lỡ đã qua, nhưng lòng tôi không được yên ổn. Hơn thế, sự nhận lỗi của tôi không nhằm yều cầu xoa dịu, lấy lòng ông bà. Nhưng là một việc làm của con người, tôi phải làm và xin ông bà hãy giúp tôi…

 

Bà Vọng tuy không hiểu câu chuyện từ đầu. Nhưng ngay khi nghe thủng câu nói của lão Thụy, bà ngỡ ngàng, đứng dậy. Tay bà không còn run, mặt bà đã lại sắc. Bà bước đến bên chồng vào đúng lúc lão Thụy thành khẩn cúi đầu trước linh vị những người qúa cố. Mắt bà chợt có dấu lệ vương. Phần lão Thụy, sau khi cắm nhang vào trong bát nhang, lão quay lại nhìn vợ chồng ông Vọng bằng đôi mắt rất thật, của người. Rồi họ đã nắm lấy tay nhau.

 

Sau vài câu chuyện kể lể, hai người đồng thôn một thời, đối địch nhau một dạo, lại ngồi bên nhau trong đêm chờ ngày mới. Ông Vọng xo đôi đũa, trao vào tay lão Thụy miếng bánh mang trọn tình nghĩa yêu thương của dân tộc, của quê hương. Phần lão Thụy, lão nhận miếng bánh như nhận lấy sự tha thứ dành cho một người vừa quay trở về với dân tộc. Ánh mắt sáng lên, cả hai cùng thanh thản nâng ly. Họ chia tay qúa khứ, hẹn ước Mai nở theo nắng mới. Riêng bà Vọng, bà ngước mặt nhìn trời. Bà như thấy lại tương lai. Bà vui theo tiếng pháo nổ trong Đêm Chờ Sáng.

 

Bảo Giang

 

 

……………………………………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

 

 

Người lính bên dòng sông Ba

   

Có những người lính không bao giờ chết. BG.
Có một lần Thông bảo với người lính:
– ”Mùa Thu năm 1945 chính ra là mùa thu của chỗi dậy, của hồi sinh trong vận mệnh đấu tranh của dân tộc. Nhưng tiếc thay, mùa thu của hào khí đã biến thành mùa thu của bi thảm, của đau thương, của chia rẽ, của ly tán và của hận thù vì sự bội phản của Hồ chi Minh….
Người lính trố mắt nhìn khuôn mặt xạm nắng của viên sỹ quan trẻ:

– Trời ơi, sao hôm nay nghe ông thầy nói toàn chuyện trên mây không vậy?

– Đây không phải là chuyện trên mây, bởi vì nếu không có sự bội phản của giặc Hồ, tôi và cậu dễ gì đã gặp nhau trong bộ binh phục này!

Nghe thế, người lính như nhận ra nguyên do cơ bản của câu chuyện chiến tranh. Hơn thế, anh thoáng hiểu đuợc nỗi lòng u uẩn của viên sỹ quan, người mà anh có dịp gần gũi trong suốt sáu tháng qua. Tự nhiên anh ta quên e dè, vui vẻ góp chuyện với Thông trước khi lên phà sang sông:

– Thiếu úy, hôm nay đơn vị mình qua sông, lên cao nguyên trấn đóng. Lỡ mai mốt tụi nó… dứt đường về thiếu úy tính sao?

– Tôi sẽ nằm lại ở bến phà này để cho cậu qua sông!

Người lính phá lên cười khi nghe Thông nói. Bởi lẽ, ông hay diễu, đã thế ông còn trẻ, chưa vợ nhưng có nhiều đào, lẽ nào ông ấy chịu rời Phú Yên, quê hương thứ hai của ông để lên… nằm chết ở miền đất đỏ cao nguyên?

– Tính làm người hùng hay sao hả ông thầy?
Thông cười dễ dãi:
– Tôi không thích làm người hùng, nhưng sẽ làm một người lính sống chết cho quê hương và cho đồng đội.
Người lính đẩy cái ba lô ra trước mặt, đứng dậy:

– Ông thầy chơi điệu qúa. Tôi… chịu ông thầy rồi đó. Từ đây ông thầy đi tới đâu là tôi theo tới đó!

– Không được, cậu còn có mẹ gìa và người em gái ở đây, sớm muộn tôi cũng xin cho cậu đổi về đồn trú tại địa phương.
– Ông thầy chơi thế là không có đẹp với đàn em, bởi lẽ, ông thầy cũng có mẹ và em gái ở Phú Yên mà!

Nghe anh ta nói, Thông lờ sang câu chuyện khác, nhưng vẫn giữ nguyên ý định sẽ tìm cách cho người lính chân tình này được trở về địa phương khi có dịp. Gần một năm sau ngày lên cao nguyên, người lính ấy đã rời trung đoàn 47 biệt lập để trở về làm việc trong một đơn vị hậu cứ ở Phú Yên, riêng người sỹ quan trẻ chưa bao giờ rời xa cảnh rừng núi cao nguyên, xa đơn vị đầu tiên từ khi ra trường này. Thông không xin đổi đơn vị không phải vì Thông không nhớ sông Ba và Phú Yên, nơi anh đã ấp ủ giấc mộng đầu đời. Cũng không phải là Thông không muốn được gần gũi với mẹ gìa và gia đình. Nhưng cuộc chinh nhân đã làm Thông trưởng thành, quen dần với những miền đất mới và nguôi ngoai phần nào những nhớ nhung quê xưa.

Rồi chiến tranh mỗi lúc một thêm khốc liệt. Bề ngoài, Thông trở thành một người lính đang tới và là niềm hy vọng lớn của đơn vị. Nhưng bên trong, nước mắt của Thông mỗi ngày một rơi xuống nhiều hơn vì sự ra đi của đồng đội, của thuộc cấp. Bởi vì Thông không biết tìm đâu ra chìa khóa thần để giữ tròn đơn vị khi nồng độ chiến tranh mỗi lúc một tăng cao. Chìa khóa thần không có, Thông băn khoăn, lo lắng trong từng hố chiến hào, trong từng tấc đất của đơn vị trấn đóng. Kết qủa, sau những chiều mưa thâm thối núi, Thông lặng lẽ một mình trước cảnh tàn phá của chiến tranh. Tự nhủ:

– Giả như không có cuộc bội phản, cướp công kháng chiến của toàn dân vào năm 45 do Hồ cộng chủ trương, chắc Việt Nam ta không đi vào ngõ lầy của cuộc chiến hôm nay?

Điều ấy thì đã hiển nhiên, ai cũng biềt rõ câu trả lời là thế. Hơn thế, người dân trên phần đất này còn biết rằng, nỗi kinh hoàng của người dân không ngưng lại ở tụ điểm Hồ cộng cướp công kháng chiến của toàn dân vào năm 1945, nhưng nó còn bộc phát thành niềm đau gấp trăm ngàn lần khi bản hiệp định chia đôi đất nước do chúng chủ trương đã ra đời.

Thật vậy, khi nhìn lại, bản hiệp định này có khác gì một lưỡi dao của thần chết, hay lưỡi tầm sét của thiên lôi đã chém bổ xuống trên đầu trên cổ người Việt Nam. Nó chém đứt dòng sinh mệnh của dân tộc Việt và chặt đứt thân hình mẹ Việt Nam ra làm hai. Từ đó, máu không ngừng loang chảy dọc theo đường bị chém. Người ở phía bên kia của lưỡi dao là miền Bắc thì hơi thở thoi thóp, chờ chết trong bạo lực, trong đấu tố. Trong khi đó một nửa thân hình còn lại, nằm ở phía bên đây bờ sông cũng tơi tả vi những dấu đạn bom do chính Hồ  chi Minh điên cuồng tạo ra!

Cảnh người Việt Nam bị nhát chém, có khác gì cảnh một con thú bị thương. Nó lồng lên, cố vùng vẫy, trốn chạy để mong tìm lấy đường sống. Cũng thế, kẻ ở Bắc, không còn xa lạ với cái tàn bạo của giặc cộng nên lo tìm đường di cư vào nam lánh nạn. Nhưng lại có người ở trong nam trúng bẫy Việt cộng nên tìm đường ra bắc. Khi đi, họ vội vàng vơ lấy vài mặt hàng cần dùng rồi gấp rút quang gánh lên vai, bỏ lại sau lưng nào là cha mẹ, vợ con và thân quyến mà đi. Dĩ nhiên lúc đi, nhiều người trong nam đã đi với khát vọng góp bàn tay của mình vào công cuộc diệt lũ xâm lăng, giải phóng quê hương thoát cảnh lầm than dưới gót giày phong kiến và ngoại xâm, và mưu cầu cho một ngày thanh bình để quay về mái nhà xưa với cơm no áo ấm. Kết qủa, lòng yêu nước nồng nàn ấy đã bị Hồ chí Minh trơ tráo lừa phỉnh. Để họ, một mặt bị mang tiếng là những kẻ đã đẩy cả nước vào cơn sóng đỏ của cộng nô. Một mặt khác, tạo nên cảnh nồi da xáo thịt với chính vợ chồng, con cái và thân nhân của họ còn ở lại trong nam sau này. Ôi! Oan khiên!

Đến kẻ tìm vào, cũng có muôn ngàn những trăn trở. Họ vì nửa mảnh cơ đồ còn lại mà phải ra đi. Ra đi để giữ lấy mảnh đất ấy làm sản nghiệp, và gầy dựng nó lên như một căn bản để chờ ngày phục hồi, giải phóng quê hương đất bắc, giải phóng đồng bào của mình ra khỏi cái tai ách Việt cộng. Ý chí qúa lớn. Khốn nỗi, chuyến đi nhiều bất tường. Chả có mấy người không có viền nước mắt chạy quanh mi. Gìa thì ray rứt vì bước chân mỗi lúc một xa dần nấm mồ tổ tiên, xa dần nơi chôn nhau cắt rốn, xa dần phần đất mến yêu, kỷ niệm. Bé thì hoang mang vô định, không biết đường mây chân trời nào mà đi. Tuy thế, đi  được là đi, chả mấy người muốn toan tính đến việc ở lại. Đây là một quyết định táo bạo, đổi đời. Bằng mọi gía, họ phải dắt đàn con lũ cháu xuống tàu há mõm, hay tìm được một chỗ trên chuyến tàu hỏa xuôi Nam để giã từ thiên đàng cộng sản của Hồ chí Minh thì cuộc đời may ra mới khá.

Theo vết chân đó, chưa khi nào Thông quên câu chuyện mà bà đội Bảo, mẹ Thông, đã kể lại với hai anh em của Thông vào trước đêm anh nhập ngũ. Chuyện kể rằng, lẫn trong đoàn người gồng gánh bỏ quê hương đất bắc trong mờ sáng hôm ấy, có một góa phụ còn khá trẻ. Nàng chỉ độ 30, vóc người nhỏ nhắn, khuôn mặt trái soan, không một chút điểm trang. Nàng mặc một chiếc áo cánh màu nâu, quần lĩnh đen. Nàng cột thêm cái khăn đen thắt mỏ qụa ở trên đầu để che bớt nửa vành khăn tang còn mới. Với lối trang điểm này, từ quần áo đến cái khăn mỏ qụa bạc màu làm cho nàng  nom gìa hẳn đi. Mặc cho hình hài tơi tả với những đổi thay, nàng vẫn đội cái nón rách trên đầu và cây đòn gánh trên vai thì  quảy trọn lấy tương lai của nàng. Một bên là toàn bộ gia sản, bao gồm từ nồi niêu, xoong chảo, đến áo quần và đồ ăn nước uống đi đường cho ba người. Còn một bên quang là đứa bé gái mới lên ba. Nó ngồi gọn gàng trong thúng, một tay nắm chặt giây quang, trong lúc một tay khác vẫn ôm  một gói đồ nhỏ, trong đó có tấm hình của ông đội Bảo.
Ông đội Bảo, chồng của người thiếu phụ, lúc trước tham gia trong phong trào kháng chiến chống tây. Ông đã vào chiến khu với Việt Minh nhưng sau cuộc tổng nổi dậy vào mùa thu 1945, ông đã nhìn ra được sự thật. Việt Minh gọi tắt là Vẹm, không phải là một lực lượng tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc Việt Nam, nhưng là một tổ chức vũ trang bạo động, muốn dùng bạo lực sắt máu để cướp chính quyền và phục vụ cho quyền lợi của đảng cộng sản Đông Dương theo chủ thuyết vô gia đình, vô tổ quốc, vố tôn giáo. Ngay cái “Vô” thứ nhất đã hoàn toàn trái ngược với cuộc sống luân lý của gia đình ông. Nên ông đã rời hàng ngũ Việt Minh trở về bên quốc gia khá sớm. Khi về, ông đã trở thành một người lính. Người lính vì non sông. Ông mất khi đứa con thứ hai của ông mới tròn năm…

Đó là chuyên cũ, nhưng nay, theo từng nhịp bước của đôi chân, gánh giang sơn trên vai bà vẫn gõ đều nhịp kẽo kẹt, nghe buồn thảm. Riêng mồ hôi thì không ngừng nhỏ giọt chia ly xuống trên con đường quen thuộc thay cho lời nói gĩa từ của bà. Cứ thế, bà đi. Đi trong nước mắt và đi trong heo hắt. Khi đi, bà không dám nhìn lại phía sau để vương thêm dòng lệ, chỉ thỉnh thoảng dòm chừng cái thúng phía sau lưng, hoặc nhỏ nhẹ thúc dục đứa con trai hơn mười tuổi đầu đang chạy lúp súp theo sau đôi quang của bà. Tội nghiệp thằng bé, đầu đội một cái mũ rách, đi chân đất, vai đeo một cái bao vải nhỏ, trong đó đựng vài bộ quần áo và vài chai nước lạnh. Nó cứ mãi chạy bộ theo bà mà chả biết phải đi đến nơi đâu.

– Mẹ ơi, chờ con với!
Nghe tiếng con gọi, người thiếu phụ nói theo nhịp chân bước:
– Chạy mau lên con.
Đứa bé gắng trên đôi chân, nắm lấy tay mẹ nó:
– Mình đi đâu vậy hả mẹ? Hay là về thôi.
Bà nhìn con trả lời:
– Không về được con ạ. Mình đi vào Nam đây.

Đứa bé ngơ ngác khi  nghe câu trả lời xa lạ. Nó hỏi lại:
– Vào Nam ở đâu hả mẹ. Mình vào đấy làm gi? Đường có  xa lắm không?
Bà âu yêm nhìn con, nhưng không có thì giờ để giải thích cho con.
– Nhanh chân lên con kẻo nhỡ tàu.
– Tàu gì hả mẹ?
– Đừng hỏi nữa con, đi nhanh lên mẹ giắt. Nếu có ai hỏi đi đâu thì con nhớ bảo là đi thăm người nhà bị ốm con nhá!
Đứa bé nhìn mẹ gật đầu, tuy nó chả hiểu câu chuyện ra sao. Phần bà, bà lại yên tâm cất bước.

Đến khi nắng vươn mình lên trên đồng lúa mới, bà thấy đôi chân mỏi rời rã, mồ hôi ướt đẫm lưng áo và cây đòn gánh trên vai càng lúc như càng muốn cong uằn xuống. Bà muốn dừng lại để nghỉ ngơi một lát cho đỡ mệt, nhưng lại thôi. Thôi vì, sợ hình ảnh của người đi, một khi đã vẽ rõ nét lên đường chân trời thì cũng chính là lúc dễ được thu vào đôi mắt Việt cộng đang rình rập đâu đây. Và thôi vì người thiếu phụ ấy rất… ngại gặp bác hoặc là những bạn bè nối khố của bác, nên bà càng vội vã đôi chân. Mãi đến khi bà nhập chung được với đoàn người đi, bà mới thong thả nhịp bước.

Trong lúc bà miệt mài bước đi với bao nỗi lo lắng vây quanh, thì trái lại, đứa con của bà càng đi nó càng thấy hứng khởi. Nó đã quên hẳn con đường xa với đôi chân mỏi lúc ban đầu. Nó quên luôn cái sân đất, cây soan gìa, hàng cau và những khu gò mối có hoa sim tím vào những lúc đồng trống, là nơi mà nó và lũ bạn lối xóm thường tụ tập để bắn bi, đánh đáo, chơi vụ, chạy diều. Nó cũng quên luôn cái hình ảnh tối hôm trước, mẹ nó giục nó đi ngủ sớm, trong lúc toàn thể gia đình nó như đang toan tính một điều gì bí hiểm.  Rồi đến chừng nửa đêm, mẹ nó lay gọi, nói nhỏ bên tai:
– Dậy, dậy đi con, dậy đi với mẹ.
Thằng bé choàng giấc ngủ khuya, ngơ ngác nhìn mẹ. Dưới ánh đèn mờ chỉ soi đủ sáng vài khuôn mặt, mẹ nó mặc cho nó thêm một cái áo khác ở bên ngoài, đeo vào vai áo nó một cái túi vải và lặng lẽ giắt nó ra khỏi nhà. Thường ngày nó là một đứa trẻ khá ồn ào. Nhưng không hiểu vì lý do gì, sáng nay nó lặng lẽ lắm. Dắt con ra khỏi cửa, bà khép hờ lại cái cánh cửa, sau đó, xâu đôi quang vào hai đầu cây đòn gánh, rồi đặt lên vai. Nó cúi xuống nhìn và thấy trong một cái thúng, em nó, con Huyền đang say ngủ. Nó chưa kịp hỏi xem là có chuyện gì, bà đội Bảo cầm lấy tay nó:

– Đi con, đi với mẹ!

Thằng bé chưa hoàn toàn tỉnh ngủ, nắm lấy tay mẹ bước đi. Ra đến đầu ngõ, như chợt nhớ ra điều gì,  nó giật cánh tay bà, hỏi nhỏ:
– Mẹ, còn các cô các chú và ông bà đâu?
– Khẽ chứ con, cả nhà đã đi hết rồi!
Cái âm thanh ấy như chuyền vào trong tâm hồn trẻ thơ một điều bất an. Nó hạ thấp giọng xuống:
– Đi đâu hả mẹ?
– Đừng hỏi nữa con, nắm lấy tay mẹ, kẻo ngã!

Nó nghe lời, níu lấy tay bà và xa xóm xa thôn. Đến lúc này, lúc nắng đã hiện rõ trên đường thì thằng bé lại tung tăng chạy nhảy không ngừng. Có lúc nó cắm cổ chạy một hơi thật dài lên phía trước, rồi ngồi xuống lề đường chờ đợi, hay lại chạy vụt lại, nắm lấy giây quang, chuyện trò với em nó. Lại có lúc, nó chạy bay vào cánh đồng cỏ, đuổi theo vài cánh bướm, đuổi theo con cào cào hay lũ chuồn chuồn đang là là, nhấp nhô trước mặt. Những lúc ấy, nó thấy bầu trời mở ra và nó muốn được đi, đi càng xa càng tốt. Bởi vì, có được đi xa, nó mới có thể đu mình vào một cuộc viễn du kỳ thú, nó mới thu được nhiều những câu chuyện lạ để về kể cho lũ bạn lối xóm của nó cùng nghe. Mới nghĩ đến đó, lòng nó như mở hội và thấy những đôi mắt của lũ bạn lối xóm mở to ra mà chiêm ngưỡng cái vĩ đại, lạ lùng do nó mang về.

Giữa lúc đang mải mê với niềm vui lớn ấy, nó bỗng giật mình vì tiếng gọi của bà đội Bảo. Khi ngẩng đầu lên, nó đã cách bà một quãng xa. Thằng bé vội cắm đầu chạy đuổi theo, vừa chạy vừa lên tiếng gọi. Đến nơi, nó hổn hển nói với bà:

– Sao mẹ đi nhanh thế?
Bà vỗ nhẹ bàn tay trên vai áo con:
– Mau chân lên con, đừng rong chơi nữa, kẻo trễ tàu.
– Sắp đến chưa hả mẹ?
– Gần rồi con ạ.

Nghe thế, đứa bé ngoan ngoãn đi theo đôi quang của bà. Chẳng được bao lâu sau, nó lại đuổi bướm, hái hoa bên đường và quên lời mẹ nó dặn. Lúc nắng lên đến đỉnh đầu, phần vì đôi chân rã rời, phần vì khát nước. Bà dừng chân lại bên một gốc cây đa bên đường bảo con:

– Ngồi lại đây nghỉ một chút rồi đi con ạ.

Không nghe tiếng trả lời, bà giật mình quay lại phía sau, rồi vội vàng đặt đôi quang xuống. Con Huyền cũng bước ra khỏi cái thúng nắm lấy tay mẹ. Phần bà, bà tự kiễng đôi chân lên, nhìn lại suốt một đoạn đường dài, nhưng hông nom thấy bóng dáng đứa con đâu. Mắt bà hoa lên vì nắng và vì hoảng hốt. Bà gọi lớn tiếng:

– Thông ơi, con ơi!

Tiếng bà dội vào cánh đồng không làm cho con Huyền thêm hoảng sợ, nó vội níu chặt lấy tay mẹ nó:
– Mẹ, con đây mà, mẹ gọi ai vậy?
– Con có nhìn thấy anh con đâu không?
– Anh Thông đi đâu rồi hả mẹ?

Những câu hỏi, câu trả lời chẳng ăn nhập vào nhau làm bà thêm sốt ruột. Bà đau đớn, gạt mạnh những giọt mồ hôi đang chảy rề rề trên trán, trong lúc đôi mắt vẫn mở lớn nhìn lại đoạn đường vừa qua. Càng nhìn, nỗi thất vọng càng hiện rõ lên trên ánh mắt của bà. Bởi lẽ, con đường vắng không có lấy mấy bóng người! Bà mong có phép lạ để con bà hiện ra. Nhưng phép màu ở  đâu mà có! Lòng bà bắt đầu rối loạn. Bà lăng xăng bước tới bước lui, nhưng chưa biết phải làm gì. Quay trở lại con đường cũ để tìm kiếm con là phải, nhưng khi nhìn xuống đôi quang với gói hành lý qúa nặng, bà bắt rùng mình. Nếu phải để gánh hàng và cho đứa con nhỏ ở đây canh chừng thì thật tình, bà không dám. Còn dắt con theo thì giống như đổ của đi! Bất chợt, nước mắt theo mồ hôi đã chảy tuôn xuống trên đôi gò má của bà. Con Huyền thấy mẹ nó khóc, nó lại vội trèo vào ngồi gọn trong cái thúng và mếu máo khóc theo mẹ.

Một lúc sau, chừng như không thể chịu đựng nổi sự đau đớn và thời gian dày vò, bà cúi xuống bảo nhỏ đứa con gái:

– Con ngồi yên đây chờ mẹ một tý nghe chưa. Mẹ chạy một vòng xem có thấy anh con đâu không?
Nghe nói, đứa bé lắc đầu, nước mắt dàn dụa trên mặt:
– Mẹ… con đi với mẹ!
Bà giỗ ngọt con thêm lần nữa:
– Nghe mẹ đi con, ngồi trông chừng gánh hàng cho mẹ một tý, mẹ sẽ về ngay.

Nói xong, bà tất tưởi chạy ngược lại con đường cũ. Vừa chạy vừa réo gọi con, nhưng không quên nhìn lại đứa con gái và gánh hàng. Con Huyền thấy mẹ nó chạy, nó cũng vội leo ra khỏi cái thúng, réo gọi bà. Vì vội vàng, nó té xấp xuống, cái thúng úp chụp lên đầu nó. Nó càng hoảng sợ, gào khóc to hơn:

– Mẹ, mẹ ơi, chờ con với, chờ con với.

Bà đứng lại, nhìn hết tầm mắt về hướng trước, cũng không thấy tăm hơi đứa con đâu. Trong lúc đó, con Huyền đã lật được cái thúng ra và đuổi tới bên bà. Bà ôm chầm lấy nó rồi bế nó lên tay. Cả hai mẹ con cùng tuôn nước mắt. Đến lúc đôi quang, gánh hàng đã rời xa tầm mắt, bà vẫn ngược đường tiến bước. Thêm một đoạn nữa, đôi mắt bà bỗng mở lớn lên khi nhìn thấy có bóng người đang đi về hướng của bà. Bà vội chân bước. Lúc nhìn rõ hình ảnh của toán người đối diện, nét hy vọng vụt biến tan trên mặt bà. Bà lo lắng hỏi thăm người này người kia. Lạ qúa, bà nhận ra khuôn mặt của nhiều người  nhưng không một ai muốn trả lời bà. Tệ hơn, chẳng ai muốn  dừng bứớc. Họ làm như có sẵn chủ đích từ trước. Tất cả đều né tránh bà, né tránh câu chuyện của bà kể lể. Cực chẳng đã, bà níu lấy cánh tay của một cụ gìa trọng tuổi đi đoạn hậu:

– Cụ ơi… con lạy cụ, cụ thương con với!
Bị níu kéo bất ngờ, cụ gìa hoảng thần hồn, vội gỡ tay bà ra và trả lời:
– Chị nhầm rồi, nào tôi có đi vào nam đâu. Tôi đi thăm đứa con vừa mới nhập trại thương binh đấy!
– Con lạy cụ…
– Ơ hay, sao vớ vẩn thế. Tôi đã bảo chị là…

Tuy miệng nói cứng, nhưng thật ra đôi mắt cụ già đã có vẻ hoảng sợ. Miệng ông ú ớ chưa biết phân giải ra sao. Đột nhiên, câu nói ngưng lại nửa vời;

– Con lạy cụ Hàn, xin cụ thương…

– Thương với giúp gì…

Bà đội Bảo cởi cái khăn  mỏ qụa trên đầu ra:

– Ơ, nhà… nhà đội Bảo đấy à? Phải nhà đội Bảo đấy không? Mẹ con chị đi đâu thế?
Người thiếu phụ như xác định rõ thân thế của người đối diện trong nhân dạng cải trang:
– Bẩm cụ Hàn con đấy ạ?
– Có việc gì mà nhà đội lại ở đây thế này?
– Chẳng dám giấu cụ, thằng bé nhà con đã đi lạc nên mẹ con nhà cháu phải quay lại tìm nó?
– Thế người bên ấy đâu hết cả rồi?
– Bẩm cụ, khi ra đi thì đã chia nhau mỗi người một đường rồi ạ?
– Vậy thì bây giờ nhà đội tính sao. Quay về à? có nhẽ là không nên!
Thay vì trả lời, người thiếu phụ hỏi:
– Cụ có gặp thằng cháu nhà con trên đường không ạ?
Thật ra, bà hỏi chỉ để mà hỏi, vì cụ Hàn gì đó làm sao biết được mặt mũi đứa con trai của bà ra sao. Ông ta liền trả lời:
– Không, tôi không thấy ai. Mà khổ người nó ra sao?

Người thiếu phụ đưa tay làm dấu, kể lể hình dáng cho cụ Hàn nghe. Khốn nỗi, người khách trên đường chừng như không muốn nghe thêm bất cứ một câu chuyện nào của người thiếu phụ muốn kể. Thấy vậy, bà đội Bảo vội nói:

– Lúc đi tìm thằng cháu, con có để gánh hàng trên đường, cách đây không xa lắm, nếu đi qua, cụ làm ơn trông chừng giúp con một cái ạ!
Nghe nhờ thế, cụ Hàn mừng rỡ:
– À… Chuyện ấy thì được!
Trả lời xong, cụ Hàn chừng như vỡ lẽ ra đầu đuôi câu chuyện, cụ tiếp:
– Có vậy mà không nói sớm, làm cho người ta tưởng nhầm chị là những con cán bộ gỉa dạng… Thôi, tôi đi đây! Mà gánh hàng của chị để cách đây bao xa. Nhớ quay lại cho sớm, tôi không chờ lâu được đâu!

Nghe cụ Hàn bảo thế, người thiếu phụ cung kính gập người xuống chào:
– Lạy cụ đi bình an ạ.
– Phải.
Nói xong ông ta vội bước cho kịp đoàn lữ hành, để riêng cho bóng nắng đổ xuống đường một hình ảnh lẻ loi của một người mẹ ôm con khóc mếu. Bóng người đi càng lúc càng xa, riêng bà mỗi lúc một thêm sầu héo. Bỗng có tiếng con Huyền reo lên trên tay bà:
– Mẹ, anh Thông kìa?
Bà luống cuống, đưa mắt dọc ngang

trên đường:
– Đâu, anh con đâu?
– Kia kìa.
Bà tỉnh dần, nhìn theo hướng tay con Huyền, thấy một bóng hình nhấp nhô trong cánh đồng trống. Cả hai mẹ con cùng lên tiếng gọi:
– Thông ơi.
– Thông ơi, Thông ơi! Phải con không?

Nghe tiếng gọi, đứa trẻ đang mải mê với niềm vui đuổi bướm hái hoa, giật mình nhìn lên rồi chạy trở ra đường. Nó trở ra đường với niềm vui vì trên tay có một cái chai nhỏ và vài con dế đá. Bà ôm chầm lấy con, nước mắt vỡ òa thay cho lời trách mắng. Không chậm trễ, ba mẹ con bà vội vã dắt nhau trở lại đoạn đường vừa đi qua. Khi đến bên gánh hàng, bà nhìn rõ có dấu vết của những người ngồi nghỉ chân ăn trưa, nhưng họ lại đi cả rồi. Bà nghĩ, tuy biết nhau, nhưng chả ai dám ngồi lại đây mà chờ với đợi. Bà nhón chân đứng lên trên gò mối, bà còn nom rõ bóng họ chưa ra khỏi con đường dài. Cùng lúc ấy, anh em con Huyền, thằng Thông chụm đầu bên nhau cười khúc khích vì hai con dế đang đá nhau trong lọ. Thấy vậy, bà mỉm cười, mở nắp chai nước, rót lấy một bát nước chè đặc rồi dục con, mỗi người ăn vội vắt cơm nắm rồi lại lên đường.

Trời chập choạng tối, bà vào tới thành phố. Gánh hành trang trên vai bà lúc này chỉ còn lại một gói nhỏ ôm gọn trong tay. Lý do. Trên đường vào thành, Việt cộng đã tài tình đặt những nút chặn, cho lũ cán bộ, hộ lý của chúng cải trang thành người lương thiện ra níu kéo, chặn đường người đi:

– Ôi hòa bình rồi, chị còn đi đâu nữa, vào đây với em đi chị. Đi đường xa, chị có mệt không, em rót nước cho chị và cho các cháu uống nhá!
– Cái thằng bé này, chắc hai ba ngày nay chưa có gì ăn rồi, vào đây cô lấy cơm cho cháu ăn nào!
– Chả nên vội chị ạ. Vào đây nghỉ đỡ chân đã, mai hãy đi!
– Ơ hay, nhà ấy hay nhỉ, đưa con đi đâu thế này, về với anh chứ!
Câu chuyện trơ trẽn thế, mà Hồ chí Minh cứ nói cho được. Cuối cung, bà quyết định vứt bỏ  đôi quang và hành lý đi đường, bà lấy vuông vải bó lại những đồ dùng thật cần thiết giống như cái tay nải đeo xát vào người và tay nắm chặt lấy đôi bàn tay của hai đứa con:
– Nhớ nghe con, không được rời tay mẹ. Nếu có ai hỏi thì con cứ bảo là đi thăm người nhà nhá.

Cho đến nửa đêm hôm sau, bà đã dẫn được hai đứa con lọt vào trong sân ga Hàng Cỏ. Người tiếp viên đã chỉ cho bà một chỗ hạng bét trong toa xe còn trống. Bà len lỏi, giắt con lên. Vừa lọt hẳn người vào trong toa xe, bà ngồi phịch xuống trên một góc sàn tàu còn trống. Bà ôm lấy con, ngước nhìn quanh, bỗng dưng nước mắt chảy tràn xuống trên khuôn mặt bà. Đó là nước mắt mừng vui hay nước mắt của ngày tiễn biệt phần đất của cha ông?

Chuyến xe mang đoàn người bỏ quê hương đất bắc sau nhiều ngày vượt đường, đã dừng lại một ga nhỏ của miền nam: Ga Tuy Hòa. Theo đoàn người đi, người thiếu phụ dắt tay con bước xuống sân ga. Mảnh trời mới, bước chân nhỏ làm cho ba mẹ con bà thêm ngỡ ngàng, hoang mang. Rồi sau gần nửa năm sống trong trại tạm cư, người thiếu phụ bỏ đất bắc ra đi, không nghe thêm một tin tức nào về những người thân của bà. Bà quay nhìn lại hai đứa con nhỏ, và nhận phần đất này làm nơi định cư thay vì đi sâu vào miền nam.

Mấy mảnh ván vỡ, dăm miếng tôn cũ, vài ba cây cột, cái kèo đã đan nhau, làm thành một cái túp lều nho nhỏ che chở lấy cuộc đời của người thiếu phụ và hai người con trong những ngày đầu của cuộc di cư. Rồi từ căn nhà thô sơ, ọp ẹp ấy, người thiếu phụ đã dốc toàn sức lực là cái vốn liếng duy nhất còn lại của bà ra để đổi lấy miếng cơm manh áo cho ba mẹ con bà. Dưới cảnh nhiều khi như mưa dầu nắng lửa, người thiếu phụ vẫn an nhiên tần tảo, gánh gánh hàng rảo bước qua từng con đường, con phố độ nhật. Lúc đầu, người ta còn thấy lẽo đẽo hai đứa trẻ chạy theo bên đôi gánh hàng của bà, nhưng dần dần, chỉ còn lại một mình người thiếu phụ dọc ngang trên đường. Riêng hai đứa con của bà thì nhập chung với những đứa trẻ cùng trang lứa cắp sách đến trường. Tuy nhiên, ngoài những giờ đến trường, người ta thường bắt gặp một thằng bé vóc dáng mảnh mai đang phụ giúp bà những công việc lặt vặt như chẻ củi, khiêng nước, hoặc phụ gánh gánh hàng ra chợ cho mẹ trước khi nó đến trường.

Sau ít năm sống trong cảnh thanh bình, sức cần cù của người thiếu phụ năm xưa nay được đền bù bằng một cửa tiệm nhỏ với căn nhà khá khang trang trong lòng phố. Những tưởng rằng, từ đó niềm vui sẽ dậy với mái ấm với tương lai. Nào ngờ, Hồ chí Minh sau những năm say máu trong cuộc múa dao đấu tố nhân dân, nay chúng lại điên cuồng đẩy người vào cuộc chiến sinh bắc tử nam. Kết qủa, tiếng súng lại đùng chát nổ ven biên, ven làng. Và đứa trẻ bị lạc trong cuộc di cư năm nào nói với mẹ:

– Mẹ cho con vào quân đội không?

Bà nhìn con, không nói. Nhưng trong cái nhìn ấy đã ẩn chứa tất cả mọi thương yêu. Đêm ấy, lần đầu tiên bà nói chuyện cho hai người con của bà nghe về cái chết bi thảm của chồng bà. Lúc đầu cả hai đều kinh ngạc, đau đớn, nhưng sau nghe như chất ngất niềm hãnh diện. Rồi từ trong khổ đau, nay lại vươn lên một hy vọng mới. Thông sẽ rắn rỏi vào đời, nuôi cho trọn cái ước nguyện của người cha…

Đó là một bước đi nhỏ của Thông và là một bước lớn của dân tộc. Nhưng có ai ngờ được, câu chuyện tình cờ của một người sỹ quan vừa ra trường rồi dẫn lính qua sông năm xưa lại nghiệt ngã đến với phận mỏng của Thông vào chiều hôm nay. Thông đau đớn nhìn đoàn quân bị rách nát vì lệnh lui binh của thượng cấp. Thông bồi hồi rướm lệ khi về đến bờ sông Ba. Bờ sông Ba lúc này nom nó giống như giòng Trường Giang với Hạng Vũ ngày nào hơn là dòng sông của tuổi thơ trong mắt Thông. Anh đứng lặng lẽ, nhìn dòng sông cuồn cuộn và đoạn cầu nổi mới làm đang bập bềnh trên sông. Ta sẽ dẫn lính chạy trốn qua sông, hay chôn vùi họ với lệnh ở lại giữ bên đây cầu?

Thông đăm đăm nhìn xoáy vào dòng nước, nơi bắt đầu có những thân người, vì tranh nhau qua cầu, hoặc vì trúng đạn pháo đã nổi lềnh bềnh trên sóng nước. Cơn đau xé ruột, sức Thông có thể làm được nhũng gì trong lúc này? Lính còn anh thì chưa hỗn loạn, nhưng dân thì không ai ngăn cản được. Họ tràn xuống sông, tranh nhau qua cầu để tìm cái sống. Chỉ một lát sau, những người lính thuộc quyền của anh cũng bắt đầu nao núng. Phía trước, cầu phao không vững. Phía sau giặc đuổi đến bằng những đợt pháo tràn. Không qua sông, không còn cơ hội sống sót.

Bất ngờ, Thông cho lệnh tập họp bộ chỉ huy trung đoàn. Ông căn dặn và ra những mệnh lệnh cần thiết khi phải qua sông. Cuộc họp ngắn ngủi, Thông bảo vị chỉ huy phó:
– Anh dẫn anh em qua sông trước đi. Tôi sẽ ở lại đây cho đến khi người lính cuối cùng đã qua sông. Anh khẩn cấp lên đường và chuẩn bị tác chiến ở phía bên đó.
Vì biết rất rõ ý chí của vị chỉ huy, viên trung đoàn phó đứng nghiêm chào, lui ra, cho lệnh từng đơn vị sang sông.
Khi toán cuối cùng do Thông chỉ huy sửa soạn sang sông. Cộng quân pháo kính dữ dội hơn và mở đợt tấn công bằng bộ binh để chiếm lấy cầu phao. Trong đoạn cuối khốc liệt ấy, không một người lính nào rời bỏ vị trí chiến đấu. Trái lại, tất cả vẫn kiên cường giữ lấy đầu cầu lui quân cho đồng đội và cho đồng bào. Đạn bắt đầu vơi cạn, Thông ra lệnh cho binh sỹ co cụm và sử dụng hạn chế. Chính lý do này khiến địch quân tiến xát đến mục tiêu. Thông có phần lo lắng, bởi vì những người lình bên anh đã nghe rõ từng tiếng thét gào man rợ  của lủ giặc Hồ. Thông nhìn những người lính, anh  không muốn cho binh sỹ bị bắt vì không còn đạn chiến đấu. Bất ngờ, Thông dứng thẳng người lên, ra lệnh cho tất  cả mọi ngưòi còn lại phải sang sông ngay. Những đôi mắt người lình ngỡ ngàng nhìn vị chỉ huy. Không một ai  muốn rời xa Thông, nhưng lệnh không thể không thi hành.  Từng người, từng người theo nhau chạy xuống cấu phao. Có người vừa chạy vừa chào vị chỉ huy của minh. Thông nằm chặn ngay trên đầu cầu phao. Địch tiến càng lúc càng gần, cầu phao mỗi lúc một trôi ra giữa dòng. Đoàn quân đã hoàn tất việc sang sông.  Nhưng bờ Trường Giang của Hạng Vũ năm nào lại theo dòng nước chảy về sông Ba với Thông. Thông đã dành viên đạn cuối cho mình…

 

………………………………………….

Hồn chinh chiến ngậm ngùi lá cỏ.

Lớp tang thương nhuộm đỏ áo bào.

Ngày đi tay với non cao,

Trở về một túi chôn vào núi sông…

( trong Bài Ca Tình Nước)
Bảo Giang

15/3/2010

 

 

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

 

Tuổi trẻ và tương lai dân tộc Việt.

 

 

Viết tặng tuổi trẻ và các bạn trong ngày tuyệt thực 9-10/12-2001.

 

Tôi đến khuôn viên của SydneyTown Hall nơi có hơn hai mươi người trẻ Việt Nam dựng lều tuyệt thực từ trưa ngày hôm trước vào khoảng bảy giờ sáng hôm sau 10-12-2001.. Khi ấy, phố xá đã có nhiều người qua lại và cái lạnh về đêm của thành phố trong những ngày cuối xuân đã lui dần. Tôi đứng trên lề đường, nhìn quanh và nhìn hoa nắng của một ngày mới bắt đầu đổ xuống trên hè phố. Nếu như không có căn lều được dựng lên ở khuôn viên này, và không có những lá cờ bay ngạo nghễ trên bầu trời kia, Sydney vẫn chỉ là một Sydney trong ngày sống bình hường .

 

Tuy nhiên, một cảnh lạ đã vươn lên giữa lòng phố, nó đập vào mắt những khách bộ hành trên đường và chả mấy ai đi ngang qua đây mà không dừng lại, hoặc quay vào nhìn ngắm. Họ nhìn ngắm một căn lều không qúa lớn, nằm khiêm nhượng trong khuôn viên tòa thị sảnh của Sydney, ở trong đó, có người ngồi, người còn cuộn mình trong túi ngủ êm ái mà không hiểu những người này là ai, họ làm gì thế?

 

Sự bỡ ngỡ, thắc mắc của khách bộ hành tan đi thật mau. Bởi lẽ, khi nhìn lên họ đãø bắt gặp những hàng cờ màu vàng ba sọc đỏ của người Việt Nam rất quen thuộc, song hàng vời quốc kỳ của Úc ngao nghễ trên bầu trời, nơi họ đang đứng. Kế đến là hai biểu ngữ với hàng chữ: “Tranh đấu cho Nhân Quyền Việt Nam và đòi cộng sản phải thả LM Nguyễn Văn Lý ra khỏi tu”ø chắn ngang hai bên cánh gà của căn lều. Rồi ngay trước tìền đình của căn lều là một biểu ngữ với hàng chữ lớn: “Tuyệt thực 24 giờ để tranh đấu cho nhân quyền tại Việt Nam”. Họ thấy và hiểu. Đó là những hình ảnh đặc biệt của Sydney vào buổi sáng này.

 

Tôi bước đến gần hơn, bàn tay của những người bạn trẻ nắm lại cho tôi thêm ấm lòng. Khi nhìn vào trong, căn lều khá lớn còn có nhiều “ em bé” nằm ngủ nướng, cuộn mình trong những tấm mền êm hay những túi ngủ gọn ghẽ. Sự vươn mình, dậy trễ hơn mặt trời hôm nay có một lý do rất dễ hiểu. Họ đang chiến đấu với thần mệt mỏi, thần đói. Sau cuộc chiến đấu này, sức hồi sinh của họ nhất định sẽ trổi vượt hơn.

 

Bất ngờ, tôi nhìn thấy hai khuôn mặt vừa đưa ra khỏi túi ngủ. Tôi giật mình nhớ đến câu chuyện của gần mười năm về trước. Câu chuyện về trại tù dã chiến và những tù nhân thu mình dưới sương đêm, co ro trong gía lạnh trên sân cỏ, trước tiền đình nhà quốc hội Uùc tại Canberra, để bày tỏ lập trường của người Việt Nam Quốc Gia nhân dịp Võ Văn Kiệt, thủ tướng Việt cộng đến Uùc cầu viện.

 

Lúc ấy, vào khoảng mười một giờ trưa, tôi và Phạm Quang Ngọc đang ngồi bên hông trại tù với các tù nhân khác, hai khuôn mặt còn rất non nớt, đứng sau lưng của người cha, mở to đôi mắt ra nhìn tôi rồi kéo cánh tay của bố, gọi hỏi:

 

–        Bố, sao các bác, các chú này lại phải tù ở đây. Bố hỏi xem, hôm qua các bác ấy bị công an đánh có đau lắm không?

 

Nghe thế, Phạm Quang Ngọc hỏi:

–        Làm sao con biết bác bị công an đánh.

–        Thì… con xem tivi tối hôm qua.

 

Bản tin trên đài truyền hình tối hôm trước được người bạn thuật lại, người tùø nào cũng phấn khởi. Nhưng khi câu chuyện chưa lắng xuống, một bà lão đứng gần đó, xỉa tay vào một người anh em gỉa làm công an Việt cộng mắng gọn:

 

– Tổ cha nhà mày, đã sang đền đây rồi còn dám đánh người à?

 

Giời ạ, bà cụ xem tivi, nhưng không hiểu tiếng Anh, bà chỉ thấy cái hình ảnh mấy tay công an… gỉa, đánh tù nhân thật là bà nổi nóng. Nên khi vừa nhìn thấy công an là bà mắng vốn ngay. Mắng xong, bà còn lăn tay áo lên, tính vả cho anh công an ” gỉa hiệu” kia vài cái rồi muốn đến đâu thì đến. May mà có người con đi bên cạnh kịp thời cản ngăn cụ. Thấy vậy, bà vẻ ấm ức quay đi, ra cái điều bà không thèm nhìn  bản mặt nhà mày. Bà cúi xuống hỏi thăm anh em tù:

 

–        Thế các anh chưa được về à? Chúng nó chở các anh sang đây để bêu riếu cho đồng bào xem đấy à? Tôi mà gặp mặt cái thằng ấy thì tôi sẽ vả cho vài cái.  Thôi các anh ráng lên nhá. Đồng bào ta không bỏ các anh đâu.

 

Nghe bà nói, anh em tù đều mừng và qúy trọng bà. Bởi lẽ, bà là mẫu người của lòng ngay thẳng, khác hẳn với những lái buôn, nay chống, mai hàng, mốt theo. Đời có nhiều bà cụ như thế thì khá hơn có nhiều lái buôn. Chỉ tội cho người bạn làm công an gỉa. Sau cái vả hụt ấy. Anh nhất định đòi ban tổ chức cho anh làm tù, không chịu làm công an nữa. Nếu không được làm tù nhân thì xin… kiếu công tác!

 

Bà cụ vừa đi khỏi, đứa con trai mới mười tuổi đi chung với ngươi bạn của tôi ngồi, xuống gần bên tôi:

 

–        Bác bị đánh đau không? Đêm hôm qua ở đây bác có lạnh không? Bác có ngủ được không

 

Tôi nhìn nó trả lời:

 

–        Lạnh, nhưng bác vẫn ngủ được chứ?

 

Chị nó, lúc này quen với khung cảnh hơn, cháu ngồi xuống, xoa tay trên những sợi giây xích hỏi tôi :

 

–        Tại sao các bác phải gỉa làm tù như vậy?

 

Nghe câu hỏi, tôi biết không thể nào giải thích cho khối óc non nớt của cháu hiểu được việc làm của chúng tôi hôm nay, nên đành bảo:

 

–        Bây giờ Vi còn nhỏ, bác có nói, cháu cũng không hiểu được? Khi nào cháu lớn khôn hơn, cháu sẽ hiểu việc của những người đi trước cháu đang làm.

 

Câu chuyện ấy, tưởng chừng như chả bao giờ còn trở lại trong tôi hay trong khối óc nhỏ bé của hai đứa trẻ hôm ấy. Bỗng nhiên, hôm nay nó sống lại mãnh liệt trong tôi. Bốn con mắt, rồi sáu chụm lại với nhau. Chúng chào tôi và mỉm cười. Tôi hỏi:

 

–        Vi và Vũ có ngủ được không?

 

–        Ngủ ngon chứ bác?

 

–        Các cháu có thấy đói không?

 

Vi nhanh nhảu đáp trước em:

 

–        Bác ơi, đói có một hôm mà ăn thua gì. Bác không biết à, những vị lãnh đạo tình thần tôn gíao ở Việt Nam bị nhốt tù còn đói và khổ hơn cháu nhiều. Cháu chỉ nhịn ăn có một ngày thôi!

 

Giời ạ, tôi bị tuyên truyền trong tiếng nói hồn nhiên, vui tươi ấy. Sự thật còn hơn thế, tôi rất kinh ngạc vì câu nói ấy. Kinh ngạc vì tuổi trẻ đã trưởng thành rồi đấy. Họ trưởng thành nhanh hơn sự dự đoán của nhiều người. Bài học của ngưòi đi trước, trước đây chúng ta lo lắng là trẻ không theo được. Nay thì sự việc lại trái ngược hẳn rồi. Không những tuổi trẻ đã lớn lên, mà còn vươn vai đứng dậy lo cho cơ nghiệp của non sông Việt nữa. Những công việc này, trước đây nhiều người cho rằng đó là phần vụ của người lớn, của những người đã bỏ miền đất ấy mà đi nên còn luyến tiếc. Còn luyến tiếc thì còn đấu tranh, hò hét. Đến đời con trẻ, chả có liên hệ gì, chúng biết gì đến chữ Việt Nam kia mà tranh với đấu!

 

Yù tưởng ấy rõ ràng là một nhầm lẫn nếu như không muốn nói là hủ bại, yếm thế. Bởi vì thực tế đã chứng minh. Tuổi trẻ ngày nay thăng tiến và trổi vượt lên rất nhiều. Học vấn thu lượm được ở nhà trường đã đong tràn caí túi khôn làm người của họ. Kiến thức căn bản của xã hội văn minh, sinh hoạt trong tư thế tự do dân chủ đã tập cho họ một phong thái vững chãi, nghiêm chỉnh. Đến cái hướng đi thì ngay cả những người đi trước, khi nhìn thấy công việc của họ hôm nay phải suy nghĩ lại việc làm của mình. Bởi vì hướng đi của họ là hướng đi cho một tương lai dài của dân tộc Việt, ở trong đó, không có cho riêng một phe nhóm, tổ chức nào.

 

Tôi nói thế và không sợ qúa lời. Bởi lẽ, qúy vị hãy nhìn vào căn lều kia. Hơn hai mươi khuôn mặt còn rất trẻ ngồi bên nhau. Họ bên nhau không phải vì đàn ca sướng hát mà là vì tranh đấu, đòi nhân quyền cho một dân tộc ở một nơi cách xa họ hàng ngàn ngàn cây số. Họ là người từ Adelaine, Melbourne đến đây và ngồi nhịn đói với những bằng hữu từ Canberra, Sydney để chia sẻ nỗi niềm thống khổ với những người có chung một dòng máu dân tộc với họ, nhưng đang ngày đêm bị chà đạp bởi loài tam vô cộng sản. Theo đó, họ về đây không phải để tìm vui bên nhau nhưng là cùng nhau nói lên một tiếng nói: Tranh đấu đòi tự do, đòi một lẽ thật chính đáng phải được tôn trọng trên quê hương cũ của họ.

 

Sự đòi hỏi của họ là một lý lẽ quang minh chính đại. Nó phát xuất từ sự chân thiện và muốn hoàn thiện những điều cơ bản ấy cho quyền làm người của con người. Họ tranh đấu đòi hỏi những lẽ thật ấy cho những người đồng hương của họ ở bên kia phần trái đất là vì tình người, tình nhân loại và tình cốt nhục. Họ không đòi hỏi, không tranh đấu với lòng thù hận ích kỷ, nhưng với lòng bao dung đại lượng. Bởi lẽ, nói về thù hận thì họ không hề có lòng thù hận với Việt cộng, là những kẻ đã gây ra tội ác, gây ra thảm họa cho dân tộc của họ. Họ không tranh đấu vì lòng ích kỷ. Bởi lẽ họ không đòi gì cho họ, nhưng là cho người khác. Nên khi cánh tay họ giơ lên đả đảo cộng sản thì sự đả đảo ấy phải được hiểu là họ đả đảo sự bạo tàn, đả đảo dã nhân. Nói một cách khác, đó là sựï khinh bỉ họ dành cho những cán cộng u mê của thời đại này.

 

Họ khinh bỉ những tên cộng hủ lậu, ác độc kia là phải.  Bởi lẽ, nếu chúng cứ chui rúc ở trong hang, không bao giờ thò đầu ra bên ngoài để nhìn ánh mặt trời thì không nói làm gì. Nhưng nêÙu đã thò đầu ra khỏi cái hang để nhìn được ánh nắng thì một kẻ u mê nhất trên thế gian này cũng không thể có cái hành vi như loài Việt cộng được. Lớn trộm cắp lớn, nhỏ trộm cắp nhỏ. Aên cướp ở trong nước, ra ngoài cũng không chừa được cái thói đi chôm chỉa. Chúng đi đền đâu là làm tủi hồ giòng máu Việt Nam đến đó. Aáy thế, còn huyênh hoang dựng nước, cứu nước. Khi trước thì hô hào chống Mỹ cứu nước, nay thì qùy xuống mà van lạy Mỹ ban cấp cho đặc ân này, đặc ân khác. Nếu chống Mỹù là con đường vinh quang sao không chống mà lại qùy gối như thế?

 

Thế nên, chả ai trách những người trẻ này khinh bỉ Việt cộng được. Bởi lẽ, những người trẻ đồng hành trong cuộc tuyệt thực tranh đấu cho nhân quyền của Việt Nam như Đoàn Việt Trung, Nguyễn Thanh Phong đã khẳng định rằng:

 

“Thấy những điều phải thì họ phải làm, và thấy những điều bất công, vô văn hóa thì họ phải lên tiếng. Theo đó, việc làm của nhà đương cục Việt cộâng hiện nay đối với vần đề không tôn trọng quyền tự do của con người, không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng  của người dân. Hơn thế, còn bắt giam những vị lãnh đạo tinh thần các tôn gíao khi họ lên tiếng đòi hỏi được tự do tôn giáo như cái bánh vẽ chúng đã viết trong bản gọi là hiến pháp của chúng , phải được coi là những hành động vô văn hóa, không phù hợp với nhân bản tính của con người. Vì những hành vi của họ không phù hợp với văn hóa của dân tộc Việt nói riêng, và văn minh của nhân loại nói chung, nên chúng tôi phải ngồi nhịn đói để tiếp sức tranh đấu cho tự do, cho nhân quyền của đồng bào chúng tôi!

 

Kế đến, hai người bạn trẻ khác là Thanh Tâm, Tuyết Nhung đã vững vàng , làm sáng tỏ cái tinh anh hào khí của những người trẻ hôm nay khi họ đứng trước máy vi âm:

 

“Thưa đồng bào, chúng tôi là những người  lớn lên và trưỡng thành trên phần đất tự do và tôn trọng nhân quyền này. Chúng tôi thấy lòng đau như cắt khi biết đồng bào thân yêu của chúng tôi không có lấy được lấy vài giây phút tự do, và nhân quyền của đồng bào cũng không được nhà đương cục Hà Nội tôn trọng. Đó là một nỗi đau trong tim lòng chúng tôi. Hôm nay chúng tôi tự nhịn đói và ngồi giam mình trong căn lều này là muốn chia sẻ lấy một phần trong muôn vàn những khổ đau của đồng bào. Chúng tôi biết, không thể so xánh một chút khổ cực này với những nỗi thống khổ của đồng bào. Nhưng nó nói lên lòng thành của chúng tôi. Nó cho chúng tôi hiểu được gía trị của sự đau khổ và gía trị của cuộc tranh đấu chung của dân tộc Việt. Chúng tôi cương quyết sẽ làm tròn những nghĩa vụ này với đồng bào!”

 

Những lời minh định ấy có nghĩa gì. Hẳn nhiên ai cũng hiểu. Tuổi trẻ ngày nay đã vươn minh đứng dậy. Và chúng ta có quyền tự tin vào một tương lại rực sáng cho dân tôc Việt. Bởi lẽ, với khả năng chuyên môn sẵn có. Với kiến thức dồi dào trong đời sống của các nước văn minh, tôn trọng tự do, dân chủ, dân quyền. Cộng với sức sống mãnh liệt của tinh thận Việt tộc. Cộng với hùng tâm tráng chí của tuổi trẻ, khi họ đứng dậy và cùng nắm tay các bạn trẻ Việt ở trong nước, cái thây ma cộng sản kia không cần đánh đấm gì nữa cũng phải tan. Chúng phải tan vì tuổi trẻ Việt Nam ngày này dù còn ở trong nước, hay đã đi du học hoặc là theo gia đình ra nước ngoài từ khi còn nhỏ đã có chung một mức điểm để đi tới. Đó chính là lòng nhiệt thành để xây dựng lại một quê hương trong thái bình , trong tự do, dân chủ và dân quyền. Họ đã nhất định làm. Thây ma phi nhân của Việt cộng bó buộc phải tàn lụi vào trong bóng tối một ngày không còn xa nữa.

 

 

Bảo Giang

 

 

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

 

 

Vũng  Lầy

 

 

Lẫn lộn trong đám rong rêu trên mặt nước hồ tây ở Hà Nội vào một buổi trưa hè nắng cháy, có hai bóng hình nghiêng ngả, nhấp nhô. Nhìn bóng qua làn nước, người ta không thể nào phân biệt được đây là cái bóng của tiên phật, hay phàm tục. Tuy nhiên, khi ngửa cổ nhìn lên, người ta dễ dàng nhận ra cái bóng lăn tăn, gẫy gập, nhấp nhô dưới nước kia chính là hình ảnh của hai người, một gìa và một sắp chống gậy đang tương đắc bên bờ hồ. Khi đi, cả hai đều cố tạo cho mình cái dáng dấp thảnh thơi của những cao nhân ngoại thế. Hoặc ít ra, họ muốn tỏ cho người đời hiểu rằng, họ chẳng còn tơ vương gì đến những sự tình của nhân thế nữa. Bởi vì, thân xác họ còn có mặt ở đây, nhưng hồn họ đã về trong cõi non bồng nước nhược lâu rồi!

 

Thật thế, chính cái bóng dưới mặt nước kia cũng tạo ra được cái vẻ hao hao thoát tục, vượt hẳn ra ngoài vòng cương tỏa của nhân gian. Nó được coi như vượt ra ngoài vòng lụy tục bởi vì, người gìa, ngoài cái hình nhân đầy đặn, da dẻ hồng hào, quần áo tươm tất vốn đã khác người, khác cảnh trần trụi của trưa hè Hà Nội, lão ta còn trang trọng quấn ngang vai một cái khăn rằn ri mỏng. Hơn thế, cây gậy trúc trên tay lão ta chả lúc nào ngừng đu đưa, chỉ đông, hướng tây nhịp nhàng theo bước chân gói trọn trong đôi dép râu. Hình ảnh kệch cỡm theo kiểu cụ lý, cụ xã tân thời này càng tạo cho lão thành một hình dị ảnh, xa lạ đối với dân thành phố. Lão ta đã lạ mắt khác người như thế, ngọn gió hè còn hiu hiu thổi làm giang rộng cái khăn quàng trên vai lão ra như đôi cánh hạc, khiến người ngoại cuộc phải nghĩ rằng: Đây là hình ảnh của  cao nhân ngoại thế, hơn là hình ảnh của một lão gìa vờ dạo chơi cảnh hồ để có dịp thưởng nguyệt qua đôi mắt. Nghĩa là, kẻ phàm nhân, chẳng ai dám nghi ngờ về sự kiện như đã thoát trần của lão. Đã thế, còn phải nhìn lão bằng ánh mắt tôn kính một chiều. Tôn kính vì tuổi đời của lão đã về tháng hạc, chả mấy tý nữa mà giở về với cái lỗ. Như thế, lẽ nào lòng lão còn thiết tha, mơ tưởng đến những cuộc đá… bèo thâu đêm? Và có lẽ nào, lão còn mải mê theo ong, đuổi bướm trong những ngày nắng… cực?

 

Lão như thế, nhưng về phía người trẻ, vốn là một trong những tiểu đồng đắc ý của lão thì lại mang cả một thế giới dị hình trên khuôn mặt. Gã tiểu đồng này có vóc dáng, hình hài hoàn toàn đối nghịch với phong thái của lão: Gã đầu to, trán gồ, mắt sâu, lỗ mũi trâu. Riêng đôi gò má thì phải kéo cao lên cho xứng hợp với hàm răng vẩu qúa khổ, và cách đi thì lệch bên đông xiêu bên tây! Gã thuộc diện có đầy đủ những điều kiện cơ bản để tự than ngày trách đêm về cái hẩm hiu trong diện mạo u mê của mình. Nếu cứ trông mặt mà bắt hình dong theo lời dạy của người xưa mà xét đoán, chả ai dám tin rằng, hai người này có thể đi chung trên một chiếc thuyền, trừ trường hợp họ có chung một cực ác tính, hay có lòng đại bồ đề ở trong người thì không kể. Tuy nhiên, chuyện họ có chung một ác tính hay lòng bồ đề ở trong người thì chả ai hay biết. Người ngoài chỉ biết được một điều, hai kẻ này kè kè với nhau lâu rồi.

 

Chuyện kể rằng, ngày xưa trong chiến chinh, chú tiểu này đã nhiều lần cứu cao nhân kia thoát khỏi tay thần chết. Một trong những lần đáng ghi nhất là lần mấy thầy trò của lão kéo nhau xuống xóm. Giữa lúc cao nhân ngất ngư trên non bồng cỡi ngựa, có người chơi khăm, hô hoán lên:

– Chết, tây về bố!

Nghe tiếng hô, cao nhân liền bỏ của, tụt xuống giường, vồ vội lấy cái quần đùi mà chạy thoát lấy thân. Qúynh quáng ra đến cửa, không thấy một người nào, cao nhân lo tháo mồ hôi và chẳng biết đường nào tẩu thoát. May làm sao, gặp tên tiểu đồng nhanh trí, thuộc đường, dẫn cao nhân chui qua cái hàng rào phía sau vườn trốn thoát, nếu không thì đã chết với bọn Tây rồi! Từ đó về sau, chả mấy khi thầy trò cao nhân rời nhau nửa bước!

 

Nay cũng thế, đang lúc cao hứng, thầy trò gã lại rủ nhau đi ngoạn cảnh hồ giữa trưa để rửa đôi mắt tục. Đi được một quãng, cao nhân đứng lại, chỉ cái gậy trúc vào một cái ao nhỏ. Trên đó cũng có cây cầu bác vòng từ bờ đất ra nhà thủy tạ ở giữa ao, hỏi gã tiểu đồng:

– Cái hồ gì nom lạ thế?

Tiểu đồng nhìn theo hướng chỉ của cao nhân, vòng tay kính cẩn:

– Bẩm gia sư, đó là cái ao thả cá ạ!

– Ao thả cá à?

– Bẩm vâng!

Tiếng cao nhân  vút lên như tiếng tiên:

– Ai lại có cái hồ cá thanh lịch như thế ở giữa mùa chiến chinh này? Họ thả cá gì thế?

– Bẩm gia sư, ngày xưa gia chủ thả hai giống cá tốt. Đó là cá Mè và cá Chép ạ!

– Còn ngày nay?

– Bẩm… ngày nay thì đơn giản hơn!

Thấy tên tiểu đồng trả lời không rõ nghĩa, cao nhân hỏi lại:

– Giản đơn hơn là thế nào?

Gã tiểu đồng đưa mắt nhìn cao nhân một cái, đáp:

– Bạch thầy, ngày xưa dân ta đói khổ, nhưng không cơ cực lầm than bằng lúc này. Khi ra chợ, thịt thà cá mú, lúa gạo, ngô khoai hầu như không lúc nào thiếu. Người dân được tự do mua bán tùy theo sở thích, tùy theo túi tiền, không bị ràng buộc vào chế độ tiêu chuẩn và xếp hàng! Do đó, gia chủ phải tốn công tốn của, tốn tấm cám để nuôi hai loại cá có trình độ cao như cá Mè cá Chép, mới đạt yêu cầu sản xuất, và cung ứng cho sự đòi hỏi của nhân dân. Còn ngày nay…

 

Đang ngon trớn kể câu chuyệm, gã tiểu đồng bỗng giật mình vì tiếng dặng hắng và cái nhìn như trách móc, hờn dỗi của cao nhân:

– Còn ngày nay làm sao?

Tiểu đồng vờ ngó lơ đi chỗ khác cho qua chuyện:

– Bẩm… bẩm…

– Gì mà bẩm với trình mãi thế?

– Bạch thày, sau khi cả nước ta đã tung toàn bộ sức lực, tài lực vào con đường đánh Tây. Những tưởng sau chiến thắng, nhân dân ta được ấm no hạnh phúc mọi bề. Ai ngờ, giữa lúc toàn bộ nhân dân chưa hoàn hồn, chưa có thời gian nghỉ ngơi phục hồi. Nhà nước lại khua chiêng, nổi trống, thúc nhân dân vào con đường đấu tố, rồi đến đánh Mỹ cứu nước. Kết qủa…

Ánh mắt cao nhân vụt tia nhìn khác lạ, tiểu đồng nói lảng:

– Nói cho ngay, việc chiến thắng giặc Mỹ ai cũng mơ, ai cũng ước. Nhưng không biết đến ngày nào sung mới rụng! Rồi lúc sung chưa rụng thì sức người đã hết, và tài lực không còn. Ba cân gạo, dăm ký ngô khoai theo tiêu chuẩn bán cho nhân dân từ ngày có chính sách đấu tố đến nay không thể thấm vào dạ dày được. Dân ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, tìm đâu ra tấm cám để nuôi cá Mè cá Chép? Do đó, gia chủ này đã vận dụng óc sáng tạo, tìm ra một loại cá khác để nuôi cho hợp thời hợp cảnh!

Nghe thế, nét mặt hồng hào của cao nhân đổi sắc:

– Thôi, không đề cập đến vấn đề phức tạp ấy nữa! Ta chỉ muốn biết ngày nay, tổ hợp kia đang nuôi loại cá gì? Có thể đổi lấy đô la được hay không?

– Bẩm sư phụ, tập thể của ta đang nuôi cá Tra và cá Vồ ạ! Cá này tuy không thể đổi được đô la Mỹ, nhưng có thể làm cho bầy tôi bớt cơn đói.

– Ta chưa hề nghe nói đến hai loại cá này. Ngươi có thể cho ta biết, chúng có hình dạng và sức sống ra sao hay không?

– Về hình dáng nó nom giống con cá Trê ở trên cánh đồng Thanh Nghệ của ta. Tuy nhiên, chúng to nhớn và khỏe mạnh hơn nhiều. Đặc biệt là hai cái ngạnh bên sườn của nó, không con cá nào có thể tranh chiến được!

– Nó to nhớn, khỏe mạnh và cứng rắn như thế cơ à?

– Bẩm vâng, có con đến năm, bảy cân!

Ánh mắt của cao nhân sáng lên dưới vầng trán rộng:

– Chúng ăn uống gì mà to nhớn thế?

– Thưa sư phụ, việc nuôi chúng thì dễ dàng, giản đơn lắm.

Tiếng cao nhân lại thanh thoát vươn lên:

– Cá chi có loài cá lạ! Nuôi dễ dàng lắm à, ta lấy gì cho chúng ăn?

Thay vì trả lời thẳng câu hỏi, tiểu đồng dẫn cao nhân đến bên bờ hồ:

– Sư phụ còn nom rõ cái cầu kiều bác từ trong bờ đất, ăn thông ra căn nhà thủy tạ ở giữa hồ không?

– Ta nom rõ chứ!

– Sư phụ có nom thấy cái ngôi nhà nghỉ mát ở giữa cái hồ kia không?

– Sao lại không thấy!

– Rồi sư phụ có nhìn thấy lớp nước động dưới chân cầu và dưới nhà thủy tạ kia không?

Cao nhân nhướng cao đôi mắt lên:

– Dầu không mang theo kính, ta vẫn nhìn thấy rõ ràng từng điểm một!

Hỏi đến đây, tiểu đồng bỗng ngưng lại khi nhìn thấy một người khách đi đường, thản nhiên rẽ lối, bước chân lên cầu, đi vào trong nhà nghỉ mát. Đến lúc, đôi mắt tiểu đồng nhìn rõ đàn cá cuồn cuộn tranh ăn nổi lên trên mặt nước. Tiểu đồng lại kính cẩn vòng tay, tiếp:

– Sư phụ có nom thấy đàn cá tranh ăn quậy trắng nước trên mặt hồ hay không?

Vẻ mặt cao nhân tươi rói. Lão vui như chưa bao giờ được vui:

– Hà, hà… Ta đã nom thấy chúng rồi. Đàn cá sao mà to béo đến thế? Hẳn gia chủ kia phải cho chúng ăn những thức ngon vật lạ.

Thấy sư phụ mình thiếu hẳn kiến thức chuyên môn, tiểu đồng vội bảo:

– Bẩm sư phụ, đó không phải là gia chủ của hồ cá. Bà ta chỉ là một khách nhân qua đường thôi!

Cao nhân càng kinh ngạc hơn:

– Bà ta chỉ là một khách nhân qua đường thôi à? Sao chú biết rõ thế?

-Bẩm!

Nghe đến đây, niềm vui lại rạng rỡ, hồ hởi trên khuôn mặt hồng hào của cao nhân, lão xoa đôi tay vào nhau:

– Xã hội của ta sao có nhiều người tốt qúa! Họ chỉ là khách nhân qua đường, thế mà cũng thương đàn cá đói và vào cho chúng ăn! Chuyện lạ như thế, xưa nay chưa bao gìơ có và ta cũng chưa hề nghe qua!

Khen xong, cao nhân cúi gập người xuống. Lão ta vờ gãi chân, nhưng sự thật là cố mở to đôi mắt để nhìn chăm chú vào nhà thủy tạ:

– Nhưng bà ta cho cá ăn gì thế? Ta nhìn mãi mà không nom thấy… gì?

 

Nhìn cung cách của cao nhân, gã tiểu đồng chép mệng: Xuống lỗ đến nơi rồi mà vẫn không chừa được cái tật đi nhìn lén thiên hạ… hớ hênh! Tuy nghĩ thế, gã vẫn không muốn cho người ngoài hiểu nhầm, hoặc biết rõ được cái cung cách đích thật của cao nhân khi ông ta cúi người nhìn vào nhà thủy tạ, nơi có bà khách đang… tụt quần xuống để cho cá ăn, tiểu đồng vội bảo:

– Bẩm sư phụ, không phải là khách nhân kia tốt bụng! Nhưng chính tổ hợp thủy sản này, đã biết vận dụng sáng tạo, áp dụng cái kế đôi bên đều có lợi đấy ạ!

Đang bực mình vì không nom… thấy cái gì, cao nhân chống mạnh cây lục trúc xuống đất, đứng thẳng dậy, giọng kém vui:

– Người ta đến đây cho cá ăn, đã không đánh gía là xã hội của ta tạo ra nhiều thành phần tốt bụng, còn bày ra cái lý luận đôi bên đều có lợi là ý nghĩa gì?

– Bẩm sư phụ, con không dám nói ngoa nửa nhời! Trước hết, thành phố của ta, tuy đẹp, nhưng không có nhà vệ sinh công cộng. Mỗi khi người đi đường bất chợt phải giải quyết cơn khẩn trương, họ đành phải đi khuất vào các gốc cây, bờ cỏ, rồi mắt trước mắt sau vạch quần ra hay là tụt xuống để giải quyết cái vấn nạn không thể giữ lại trong người! Đứng trước sự kiện làm mất thẩm mỹ của thành phố, chủ nhân của cái hồ cá này đã tích cực nghiên cứu. Cuối cùng ông ta tìm ra hai loại cá có thể nhờ vào cái chất… thải từ trong người ra mà sống. Do đó, ông ta đã đào cái ao này, rồi bác cầu kiều, lập nhà thủy tạ ở giữa ao, mời bà con làng nước tự do vào nhà nghỉ mát kia mà xả láng. Không ngờ, một thời gian ngắn sau, ông ta lại giàu có vì cái hồ cá làm phúc cho những người đi đường. Thấy thế, cục thủy sản của ta cũng điều nghiên và đem vào áp dụng. Qủa có tiến bộ đáng kể. Bạch thầy, đó có phải là cái kế lưỡng hoặc tam lợi hay không?

 

Đến lúc này cao nhân mới vỡ lẽ, lão mở to đôi mắt và nở nụ cười nửa miệng:

– Nhờ cái… ấy cá mau lớn thật à?

– Bẩm vâng, sức nó trổi vượt rất mau. Chỉ nửa năm là đạt yêu cầu sản xuất!

– Nó đẻ nhiều hay ít?

Dù không nắm vững vấn đề, tiểu đồng vẫn đáp liều:

– Thưa nhiều!

– Đã có hai điểm lợi lớn ấy rồi, ta muốn biết khi ăn, mùi vị nó ra sao?

– Thưa sư phụ, tuy mùi vị nó không thể sánh bằng gỏi cá Mè, canh cá Chép. Lại càng không thể đem so sánh với sâm nhung, hải yến ta dùng mỗi ngày. Tuy nhiên, trên mâm cơm của lũ bề tôi có miếng cá còn hơn không!

Nghe đến đây, đôi mắt cao nhân lim dim nhắm lại như đang mộng tưởng vào cõi xa xôi, trong lúc bàn tay không quên làm bài bấm độn:

– Thứ nhất, cá chỉ nhờ… cứt của người mà sống! Nó thuộc giống dễ nuôi!

– Thứ hai, sinh nhiều, phát triển nhanh. Cuộc chiến giằng co này ta đang cần đến hai loại vũ khí chiến lược ấy!

– Thứ ba, Không cần tấm cám, không cần chăm sóc. Thật là đỡ hao tổn công qũy!

– Thứ bốn, có thể thay các loại thịt cá trong mâm cơm của đám gia nhân! Đã thế, còn làm đẹp cho thành phố.

– Thứ năm, quan trọng hơn, chúng ăn đồ thải của ta. Ta bảo gì chúng chẳng nghe!

Bấm độn xong những điểm lợi hại trên, đôi mắt cao nhân rực sáng và rạng rỡ một nụ cười! Cao nhân cười vì không ngờ vào phút cuối, trước lúc cỡi hạc quy tiên, chính cao nhân đã tìm ra được một con đường ưng ý nhất, để nhờ đó, đám bề tôi của lão có thể theo nhau mà hưởng… lộc vạn đời!

Cười xong, cao nhân cúi xuống, nói nhỏ bên tai tiểu đồng những gì không ai biết, chỉ nghe tiếng cao nhân dặn với theo tiếng gót chân vội vã của tiểu đồng:

– Không nên tiết lộ ra ngoài cái cao kiến của ta đấy nhá!

– Bẩm vâng!

Một lát sau, theo lời chỉ đạo của tên tiểu đồng. Chủ nhân ao cá vội vàng hạ tấm bảng nhỏ, trên đó có ba chữ: Ao Cá Dồ, cắm trên cái cọc ngay đầu cầu ao xuống. Sau đó, gã trịnh trọng dựng lên một cái bảng khác, có hàng chữ nhớn: “AO CÁ BÁC HỒ”!

 

Nhìn tấm bảng, cao nhân đắc ý, đưa tay lên vuốt chòm râu bạc và nở nụ cười mãn nguyện! Rồi ngày nay, nhờ câu chuyện truyền thuyết ấy, cả đảng và nhà nước Việt cộng đang sống hạnh phúc như cá trong ao cá bác hồ.

 

 

BXV

 

……………………………………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

 

 

 

Tự Do hay  là Chết.

 

Bảo Giang.

 

 

Trong những ngày gần đây, đúng ra là từ ngày đầu năm Đinh Hợi, nhiều nguồn tin ở trong nước đã làm cho cuộc sống của người Việt ở trong nước và hải ngoại bỗng giao động. Họ bị giao động vì những trò chơi chết người của nhà cầm quyền Việt cộng lại đang tái diễn với nhân dân Việt Nam, đặc biệt là đối với những người tranh đấu cho nền Thịnh Trị, Hòa Bình, Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền cho quê hương còn ở trong nước.

 

Thật ra, chuỵện Việt cộng đàn áp và đấu tố nhân dân Việt Nam không phải là mới bắt đầu từ ngày đầu năm Đinh Hợi 2007. Nhưng từ ngày 3-2-1930, ngày Hồ chi Minh và tập đoàn cộng sản khai sinh ra ác đảng  cộng sản Đông Dương ở trên đất Việt thì người dân Việt Nam đã có dịp phải nếm lấy  mùi máu tanh của cái mã tấu, mùi rỉ xét của cái búa, cái liềm là niễm hãnh diện và là biểu tượng của nền văn hóa của Việt cộng.  Và dĩ nhiên, khi đã nếm được những mùi vị đặc biệt phát xuất từ linh hồn Việt cộng thì người dân Việt xấu số kia chỉ còn một phương cách duy nhất. Nhắm mắt đi về miền đất lạnh mà không cần phải thắc mắc về cái thân xác vốn dĩ mang dòng máu Việt Nam quật cường ấy sẽ bị bọn c ưo ơng quy ền c ộng s ản vùi dập vào bờ lau, bụi cỏ hay khúc sông, khe suối nào.

 

Nói một cách khác, từ ngày chúng du nhập cái  tà thuyết tam vô của cộng sản vào Việt nam thì không có sách vở nào có thể ghi cho đủ, ghi cho hết được danh tính của những người dân Việt bảo vệ chữ Tự Do, Dân Chủ cũng như luân lý đạo đức của quê hương đã bị chúng thủ tiêu,  hoặc bi giết chết vì cái búa, cái liềm cái mã tấu của bọn Hồ nhân này. Xa thì như trường hợp Khái Hưng, Trần Thế Nghiệp và một số anh em trong Tự Lực Văn Đoàn hay Quốc Dân Đảng. Kế đến là cuộc đại đấu tố khởi công vào những năm 1955-1958 mà số người bị chúng giết chết lên đến hàng trăm ngàn, ấy là chưa kể đến hàng trăm ngàn người khác bị đưa vào nhà tù, hoặc bị đày lên vùng rừng thiêng nước độc Cao Bắc Lạng.

 

Gần hơn, tôi tin rằng tất cả mọi người Việt Nam còn sống hôm nay chưa ai quên được nỗi kinh hoàng đã xảy ra cho Huế vào tết Mậu Thân 1968. Chỉ sau ba mươi ngày tạm chiếm thành phố. Đồ tể Hồ chí Minh,  Việt cộng và bọn tay sai khát máu Hoàng phủ ngọc Tường đã giết chết mấy ngàn đồng bào vô tội.  Những giây lòi tói, những rợ chằng, những mồ chôn tập thể còn kia. Hỏi Hồ chí Minh và bọn Việt cộng dã nhân này sẽ trả lời ra sao về cái chết của đồng bào Việt Nam?

 

Kế đến,  trường học, chợ búa, nhà thờ, nhà chùa của miền nam đã phạm vào những loại tội gì để bọn Việt cộng nhắm pháo kích, đặt mìn vào những nơi này? Chẳng lẽ, vì trường học là nơi mở mang trí tuệ cho con người nên chúng phải pháo kích và  giết chết ngay những mầm non của dân tộc Việt? Chẳng lẽ, vì nhà thờ, Chùa chiền là nơi giúp con người học hỏi sống lương thiện hơn, đạo đức hơn hoặc gỉa là nơi đưa con người vào đường linh thiêng cảnh giới, dạy cho người biết phải quấy nên chúng phải đặt mìn phá chùa, đốt nhà thờ bắt tu sỹ, tăng ni chăng? Hỏi có loài dã nhân nào vô lương hơn thế. May ra có những con thú hoang xổng chuồng, hay bất chợt đến từ rừng hoang vì đói ăn, chạy lạc vào thành phó mà làm nên những chuyện cắn, xé vô tri vô gíac ấy. Còn con người, trừ ra những kẻ đại gian ác như Hồ chí Minh và Việt cộng,  không ai dám có hành động bất nhân, vô lương như thế.

 

Rồi đến câu chuyện sau 30-4-1975. Nếu chập chờn trong giấc ngủ thì  thôi, nhưng mở mắt ra là nỗi kinh hoàng còn bám chặt lấy từng người Việt Nam. “ đàn bò vào thành phố” Trịnh công Sơn bảo thế. Và đúng thế, chả có lời tiên đoán nào đúng hơn và giá trị hơn một câu ngắn trong bài hát của nhà nhạc sỹ đa tài nhưng bị lắm tiếng bấc, tiếng chì vào giai đoạn đó.  Trước tiên, chúng ngơ ngác vì cảnh lạ, vật lạ. Sau đó là ngổ ngáo chia nhau đi từng nơi kiếm ăn, trộm cắp. Chúng tháo gỡ từng tấm tôn của nhà trường, vặn từng con ốc ở nơi công sở đem chuyểân về đất bắc làm đồ gia bảo ( chuyện xảy ra từ sau 30-4-1975- 78) . Có thề nói một cách không ngoa rằng, không biết trộm cắp, không biết láo lếu dối trá, gian ác thì không phải là Việt cộng.

 

Điều này không phải tự tôi viết hoặc đặt điều cho Việt cộng đâu. Nhưng vào tháng 10-2006, ( vnexpress.net đưa tin, phỏng vấn) phó chủ tịch của cái gọi là Quốc Hội Chuột của Việt cộng ở Hà Nội là Trần Quốc Thuận đã công khai lên tiếng thừa nhận rằng:: “ Cơ chế này (chế độ cộng sản) sinh ra nói dối hàng ngày…..  Chúng ta  đang sống trong một xã hội phải tự nói dối nhau để mà sống..  Nói dối hàng ngày nên thành thói quen, thói quen ấy lập lại nhiều lần thành đạo đức.. . mà cái đạo đức ấy là rất mất đạo đức.., (nhưng nó là đạo đức cách mạng ( của việt cộng).”

 

Vì không quen với cái dối trá, láo lếu của Việt cộng, nên hàng trăm ngàn gia đình quân, dân, cán của người miền Nam trắng mắt ra mà cơm gói, lưng gạo đi vaò trường caỉ tạo của Việt cộng .

 

Mà nói chi đến cảnh người dân miền nam bị Việt cộng lừa bịp. Ngay trong hàng ngũ của chúng thì chữ lừa bịp tráo trở, dối trá và gian ác cũng đặt lên hàng đầu.  Này nhá, khi cả trăm ngàn người dân vô tội ở miền bắc bị chết oan vì đòn độc đấu tố (1955-1958), thì ác cộng Hồ chí Minh gỉa nhân gỉa nghĩa lên truyền thanh mà nhỏ vài gịot nước mắt, nhận trách nhiệm vì nhầm, vì không biết  có nhiều ngươi bị chết oan trong vụ đấu tố là hết trách nhiệm. Chả có tên ma bùn Việt cộng nào bị sử lý vì cái tội giết cả trăm ngàn nhân mạng đồng bào Việt Nam này!

 

Rồi đến chuyện chống mỹ cứu nước mới là kinh dị . Hãy hỏi thử xem, biết bao nhiêu nhân tài vật lực của Việt Nam đã bị bọn Hồ chí Minh và Việt cộng phỉnh gạt và bị chết mất xác trong cuộc chiến tuyên truyền này.  Và rồi kết quảû của cuộc chiến tuyên truyền ấy ra sao?

 

Hãy hỏi đích danh tên Phan văn Khải, Nguyẽn ễấn Dũng, thủ tướng Việt cộng xem, hàng trăm ngàn thanh niên miền bắc phải chết  trên rừng vì sốt rét, vì bom rơi đạn lạc, hoặc vì đói bệnh. Hàng ngàn, hàng vạn người dân miền bắc bị chết oan để đổi lấy một nụ cười toe toét của Phan văn Khải khi nó được sờ bàn tay vào cái mũi giày của đế Quốc Mỹ như thế có đáng và có nên hãnh  diện hay không?

 

 

Hãy gọi những oan hồn uổng tử của nhân dân miền bắc. Hỡi đồng bào hãy thức dậy mà nhìn xem cái nụ cười cực kỳ hồ hởi, phấn khởi của Phan văn Khải, Nguyễn tấn Dũng, rồi nay mai đến những tên Triết, Trọng nữa,  khi nó được chạm tay vào gót giày của đế quốc Mỹ để biết được sự hy sinh của mình bị lừa đảo, dối trá, phản bội như thế nào?

 

Mà hỏi làm gì nhỉ?

Việt cộng là thế! C’est la V.C. !

 

Hết đấu tố thì đến Nhân Văn Giai Phẩm, Hết vụ giây lòi tói ở Cố Đô Huế  thì  đến vụ lầm lờ đưa hàng trăm ngàn người vào nhà tù. Nhưng, chặng đường dối trá của chúng đã ngưng lại chưa? Hãy hỏi những người liều chết đi vượt biên, vượt biển sau ngày 30-4-1975 thì sẽ tìm ra câu trả lời.

 

Năm 1954, chính cái vô luân, độc ác của Việt cộng đã là nguyên ủy thúc đẩy cuộc di cư của hơn một triệu đồng bào ở miền bắc vào nam. Khi ra đi, họ những tưởng rằng sẽ thoát được bàn tay ác độc của Hồ chí Minh và Việt cộng. Không ngơ, vào một sáng giáp hè năm 1975, cái nón cối tối bất nhân, u mê, con dao mã tấu tối độc ác, bất lương và đôi dép râu dẵm nát đời son trẻ của loài bất nhân ấy lại xuất hiện ngay trước cửa nhà minh.

 

Khi nhìn thấy những bảo vật của bọn Hồ chí Minh và Việt cộng, người dân miền nam không kể gìa trẻ trai gái, không kể sang hèn,  chỉ còn biết một điều duy nhất là phải chạy.  Bỏ chạy có khi cũng chết, nhưng được chết trong hy vọng là có được Tự Do còn hơn là bị thủ tiêu, dấu tố  ở sau vườn! Chân lý của lẽ sống này đã bùng lên trên đại lộ kinh hoàng Quảng Trị vào năm 1972. Bao người thoát nạn và bao nhiêu ngàn người dính mìn, mã tấu và sơn pháo của Việt cộng trong đêm chạy giặc?

 

Dĩ nhiên, V.C. cũng là lý lẽ chính yếu để buộc hàng triệu người ra khơi trên những chiếc thuyền mỏng manh để tìm Tự Do. Nhiều người , như chính cá nhân tôi, đã chấp nhận cái chết trước khi xuống thuyền. May thay, trời cho đến được đến bến bờ tự do. Nhưng còn hàng trăm ngàn đồng bào khác của tôi thì sao?  Có lẽ, câu trả lời sẽ là: Rủi là thân xác họ bị chìm xuống lòng biển sâu, nhưng may  hơi thở Tự Do vẫn bừng lên. Và tuyệt vọng dấn họ xuống lòng biển, lại may vì họ được tắm trong dòng nước biển trong lành, không ô uế mùi tử khí Việt cộng!

 

Rồi đuổi theo sau lưng đoàn người khốn khổ đi tìm tự do ấy là các cấp bộ cách mạng từ trung trương đến địa phương của cái đảng gọi là Vệt cộng ấy. Chúng đuổi theo, đứa thì nổ súng, đứa thì kiếm chác, chia nhau căn nhà, căn phố  và sản vật của người bỏ ra đi. Ngay đến đôi đũa, cái chén, cái bát manh quần, manh áo của người ra đi còn dể lại cũng được chúng tận tình hồ hởi chiếm đoạt làm phần gia bảo cho mình.

 

Khi ấy, nước mắt của người ra đi rơi xuống trên đường thống khổ. Nhưng trong sách vở, cũng như trong thực tế, người ta đã không bao giờ có thể tìm được một  nụ cười nào nở trên những hàm răng bừa, trên mắt môi những khuôn mặt hốc hác của Việt cộng, lại tươi tắn và hồ hởi cho bằng nụ cười trong lúc  chúng đuổi theo sau đoàn ngưòi đi tìm Tự Do ấy. Lý do đơn giản là. Kẻ chạy mất nhà, mất nghiệp, mất mạng kẻ đuổi thì được nhà được của.

 

Rồi lòng của dã thú đuổi theo đồng bào năm ấy, nay lại biến thành cái lòng hồ hởi tâm đắc trong bất nhân, vô lương  khi chúng từ trung ương cho đến địa phương đã nhờ hàng tỷ đô la của người ra đi gởi về cho thân nhân còn lại, mà kiếm sống, sống hạnh phúc.  Hỡi những hồn oan nơi biển cả, hãy chỗi dậy để mà nhìn cho rõ cái tráo trở , bất lương của loài đã đuổi theo gót chân đồng bào năm xưa!

 

Rồi đến bao cái Tết, dân Việt không có mùa xuân, nhưng loài dã nhân Việt cộng thì mỗi lúc một trở thành những đại gia đỏ bằng chính những lao khổ của dân và bằng chính mồ hôi và nước mắt của dân tộc Việt. Lịch sử của Việt cộng đã đổi trang từ lúc nào thì không ai biết. Nhưng nay thì chúng đã dút khoát với chuyên chính vô sản rồi, chúng đang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc  trên đường trộm cướp tài sản của dân tộc.  Kẻ thì bán đất, dâng biển của Tiền Nhân cho ngoại bang để  bám lấy quyền lực để hưởng lợi. Kẻ thì trộm cướp, ăn chặn tiền viện trợ nhân đạo của thế giới rồi tạo ra  hối lộ tham nhũng để làm giàu. Đã gây ra bấy nhiêu tội ác với dân tộc chúng còn chưa thỏa lòng, lại còn hành hung bạo ác với đời sống của lương lân. Qủa thật, đảng cướp lên làm chính quyền thì còn ai có thể trộm đạo được nữa nếu không phải là thành viên của chúng?

 

Tuy thế,  một điểm cơ bản là đảng tính đã thay cho nhân tính  của loài người mà chính chúng đã tự võ trang và truyền lại cho kẻ nối nghiệp phải gìn giữ như là lẽ sống duy nhất của đảng từ ngày 3-2-1930 là gian ác, tráo trở, bất nhân, vô luân, vô đạo thì không bao giờ thay đổi. Chúng không biết rằng, vì cái phản trắc bất lương ấy, Lê Nin, Sit ta lin đã bị dân Liên Sô treo cổ.  Cái ngày ấy, dĩ nhiên, không còn là xa với đạo tặc Hồ chí Minh,  nhưng tiếc là hậu duệ của chúng hình như  chưa biết hồi đầu.

 

Vì chúng không biết hồi đầu, hơn thế, cái tà độc không cùng của chúng còn miệt mài tiến bước, nên đoàn người vì Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền cho Việt Nam hôm nay lại rộn rã, hiên ngang đi lên, bước tới. Người đã đi thì như Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Đăng Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn,  Lm. Hoàøng Quỳnh, Lm Nguyễn Huy Chương… Người còn sống thuộc thế  hệ cha anh thì có những thầy Quảng Độ, thầy Huyền Quang,  Linh Mục Nguyễn văn lý, Linh Mục Phan văn Lợi… Sức trẻ thì như Bác Sỹ Phạm hồng Sơn, Nguyễn vũ Bình, Lê thị công Nhân, Nguyễn văn Đài….. và còn nhiều nữa. Tôi nghĩ rằng, những người này khi họ quyết tâm đứng dậy thì chữ Tự Do cho dân tộc nở trong lòng họ sẽ lớn hơn là sự chết.  Họ phải sồng. Hồ chí Minh và bè lũ gian ác Việt cộng phải bị tiêu diệt.

 

Cầu chúc cho hoa Tự Do trong lòng họ nở tràn ra khắp non sông Việt. Để nhà Việt Nam mai sau sẽ vĩnh viễn được hưởng Tự Do, Dân Chủ trong cuộc sống Thái Bình, Ấm No Hạnh Phúc, không còn bóng dáng ác đồ Hồ chi Minh, Việt cộng.

 

Bảo Giang.

 

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

 

Ngọn cờ sau Ba Mươi năm

 

 

Vào buổi sáng ngày 30-4-1975, tôi đứng trong thềm nhà của một căn biệt thự không lớn lắm ở đường Nguyễn Văn Lạc, Thị Nghè, nhìn về phía mặt trời mọc. Trời vẫn cao xanh, nắng vừa lên, nhưng đã chan hòa đổ xuống trên nền sân rộng. Tôi lặng lẽ bước ra sân, đi lần ra phía cổng. Bên ngoài cánh cổng khép kín kia, tôi không thấy nhiều dấu hiệu của chết chóc, của tàn phá, nhưng hình như đã có một vài đổi thay.

 

Khi tôi quay vào, hầu hết những người có mặt trong căn nhà này đã thức dậy. Họ dấu kín niềm vui sau một đêm… “chờ đợi biển máu” đã không xảy ra. Tuy thế, không thể tìm được một nụ cười. Chỉ có những đôi mắt nặng âu lo và có cùng một câu hỏi: Chuyện gì sẽ xảy ra? Chiều nay và ngày mai sẽ ra sao?  Bữa ăn sáng không một ai còn nhắc đến.

 

Khoảng 9 giờ sáng, tôi lại ra ngoài sân. Đất trời như đã đổi thay với những bước chân dồn dập, ngược xuôi trước khung cổng khép kín kia. Hơn thế, từng loạt đạn chói tai, nhức óc vọng lại từ phía cầu Tân Cảng, ngã tư Hàng Xanh như cắt lòng người. Nó làm cho những đôi chân thêm cuống cuồng. Nó làm vỡ tung những hàng nút áo. Làm rớt lại phía sau lưng những mũ đỏ cánh dù, những màu xanh ó biển, những mũ nâu hoa rừng, những mũ sắt với lưới ngụy trang. Tang thương hơn thế, những màu áo của non sông đất nước, của một thời ngang dọc với chí làm trai đang bị cuốn lăn trên mặt đường theo bước chân người chạy qua.

 

Tôi đứng chết lặng, dõi mắt về cuối con đường. Không phải tôi chỉ thấy có bấy nhiêu. Trái lại,  súng đạn là những loại vũ khí nhiệm màu của  đoàn quân  đi bảo vệ quê hương lúc này bị dục bỏ ở gốc cây, trên lề đường. Rồi những đôi giày sô, vật bất khả ly thân dưới chân người lính. Nó đã theo người lính đi khắp mọi nẻo đường của quê hương, từ rừng sâu núi thắm, đến sông hồ biển cả. Từ thành thị cho đến thôn quê. Ở bất cứ nơi nào có bước chân của họ đến là nới ấy người dân Việt có niềm vui, có bình an, có hơi thở ấm. Và bước chân của họ đến đâu là nơi ấy lũ chuột đồng chỉ còn một cách là nín thở chờ chết trong những hang ổ cùng khốn.  Mà nay, hỡi ơi, vất ngổn ngang như rác ruới nằm trên đường…

 

– Anh làm ơn cho tôi một cái áo được không?

Tôi nhìn xững hai người thanh niên trạc bằng tuổi tôi, mình trần,  chạy ngang qua Tôi nhìn  và không hiểu anh ta nói gì.  Tôi hỏi lại:

– Anh cần áo gì?

Một người kéo tay bạn, dục:

– Thôi đi.

Tôi ngơ ngác nhìn anh. Rồi vỡ lẽ khi thấy những người cùng khu xóm, tay ôm từng bó quần áo đứng nấp nửa người trong khung cửa, đưa tay ra ngoài:

– Quần áo đây, quần áo đây các chú ơi! Mặc có vừa không. Thôi kể chi, cứ khoác lên người là được rồi.

Nghe thế, tôi cởi ngay chiếc áo đang mặc trên người ra đưa cho anh và bảo:

-Chờ một tý, tôi vào lấy quần áo cho các anh.

Nói xong, tôi chạy vào ôm ra một đống quần áo. Tiếc thay, khi ra đến nơi, hai người kia đã đi rồi.  Tôi ân hận vì đã không kịp thời biếu cho họ manh áo để che thân lúc cần thiết. Tuy thế, nỗi ân hận không kéo dài lâu. Bởi vì chính tôi lại có dịp trao những cái áo, cái quần kia cho những người khác đang chạy trờ tới. Rồi tôi bỏ đống quần áo trên tay xuống, chạy vào vơ vét bất cứ cái áo cái quần khả dụng nào đem ra đứng trước cánh cổng chờ họ ngang qua.  Lòng trĩu nặng vì lo âu, ánh mắt không có đủ niềm vui. Nhưng thật sự, tôi đã muốn khóc khi nhìn thấy cảnh bà con lối xóm gọi nhau ơi ới và đem quần áo trong nhà ra cho những người lính thất trận trở về. Và hơn thế nữa, có nhiều cánh cổng nhà mở ra.

 

– Trời ơi, chạy đi đâu nữa đây. Tụi nó tơi nơi rồi kia, vô đi, vô trong nhà đi, chờ cho nó lắng xuống rồi hãy đi.

 

Cùng với lời nói ấy. Những vòng tay mở ra.  Mở ra như đón mừng con, mừng anh, mừng em trở về. Họ mở vòng tay ra. Những giọt nước mắt nóng trào lăn trên từng khuôn mặt trong giây hạnh ngộ, nhưng chưa bao giờ thấy nhau từ trước.

 

Một tiếng nổ kinh hoàng dội lại từ phía cầu Thị Nghè. Lập tức những tiếng gào thét trở nên thê thảm hơn. Sau đó chẳng bao lâu, có những tiếng nói lanh lảnh, những tiếng la hét của hàng tôm hàng cá vang ra từ cái loa phát thanh của xã Hạnh Thông Tây kêu gọi dân chúng ra đường đón… việt cộng. Lời kêu gọi không một ai đáp trả. Trái lại , chỉ có những cánh tay vẫn giang ra đón người thất trận trở về trong nước mắt:

– Thế là hết rồi chú ơi, tụi nó đã vào đến đây rồi.

 

  • Vào đi, vào trong nhà đi, đừng cho tụi nó thấy.

 

Một chiếc xe T54 lùi lũi tiến vào con đường Nguyễn Văn lạc.  Đến ngay ngã ba, gần căn nhà tôi đang ở. Nó đứng lại, hạ thấp tầm súng xuống. Bà con lại gào thét bỏ chạy tán loạn. Tôi cũng vội vã chạy vào trong nhà đóng chặt cửa lại. Trước mặt tôi là một căn phòng khách khá rộng, người người ủ dột, ngồi bất động, nhưng tai như mở thật lớn ra để nghe cho rõ ràng từng tiếng nói của Dương văn Minh và Nguyễn hữu Hạnh.

 

Lát sau, tôi lại trở ra trước sân. Đứng nhìn trời, và mắt tôi cũng vừa thoáng thấy những cái bóng, như những bóng ma, vác lá cờ của cái gọi là” mặt trận giải phóng miền nam” chạy qua lại trên đường. Tự nhiên, hai bàn tay tôi xoắn chặt lấy nhau, nước mắt bỗng tuôn trào trên mặt.

 

Tôi khóc thương tôi. Tôi khóc thương cho những người lính vừa bị bó buộc tan hàng hay là tôi khóc thương cho màu cờ từ nay không còn được tung bay trên phố, trên nhà và trên quê hương của tôi? Thú thật, tôi không biết là vì lý do gì tôi đã khóc. Tôi chỉ thấy lòng quặn đau, và như có tiếng nói trong lòng tôi:

 

– Thế là hết rồi! Tương lai? Gia đình? Tổ quốc rồi sẽ ra sao?

 

Hỏi nhưng không có câu trả lời và tôi đã khóc. Khóc một cách ngon lành. Cùng lúc ấy. LM Phạm An Ninh, người mới đến đây vào chiều hôm trước, tình cờ bước ra trước cửa. Thấy tôi khóc. Ông đặt tay lên vai tôi.:

– Không phải là một mình cháu phải gánh thảm họa này, mà là tất cả dân tộc Việt từ nam đến bắc sẽ ở chung một tròng.  Tuy nhiên, dẫu có phải chết thì cũng hãy can đảm mà sống cho đến khi chết.

 

Tôi nhắm chặt đôi mắt, cố xua đi những tăm tối. Buổi chiều hôm ấy, tôi trở lại Bình Đông, Bình An thăm hai người thầy vĩ đại của tôi. Ít lâu sau dó, tôi bỏ thành phố…

 

Hôm nay, hơn ba mươi năm sau, ở một nơi mà trong đời tôi trước kia chưa một lần hình dung ra được. Tôi lại thấy ngọn cờ tung bay. Không phải một, mà có thể nói là có cả một rừng cờ trong biển người tha hương cùng giơ lên cao. Niềm vui, nỗi mừng theo ngọn cờ dâng lên nghẹn lòng.

 

Thực ra, đây không phải là lần đầu tiên tôi thấy ngọn cờ của tổ quốc Việt tung bay giửa bầu trời hải ngoại. Nhưng mỗi một lần ngọn cờ yêu dấu kia tung bay trên cao là một lần nó ghi khắc vào tâm khảm người đứng nhìn một dấu ấn riêng biệt.

 

Này là lần ghi dấu ngày quốc hận đầu tiên trên xứ người. Này  lần Võ văn Kiệt vỡ mật chui qua cổng hậu của phi trường Canberra khi nhìn thầy ngọn cờ vàng lững lẫy trên tay người tỵ nan. Kìa lần bí thư có tay nghề thợ cạo Đỗ Mười bỏ cả chương trình mà chạy khi thấy đoàn người tỵ nan hùng dũng tiến lên với ngọn cờ Vàng của tổ quốc trong tay. Rồi những lần từ Phan van Khải, Nguyễn tấn Dủng, Nguyễn Minh Triêt bở vía, tan hốn  khi nhìn thấy ngọn cờ chính nghĩa được giơ lên cao từ bàn tay của những thanh thiếu niên vừa trưởng thành nơi xứ lạ.  Tất cả những dấu ấn ấy là  những chứng tích uy dũng của người Việt Nam vì đại nghĩa.

 

Nhưng hôm nay, ngọn cờ thì vẫn ngọn cờ dấu yêu ấy.  Và ngày thì vẫn là ngày ghi dấu quốc nạn của dân tộc Việt. Nhưng bóng cờ thiêng kia như đang vươn trải ra một ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. Sự khác biệt ấy chính là vì ngọn cờ thiêng kia đang được những người trẻ của quê hương Việt khơi nguồn sinh khí mới. Nói cách khách, ngọn cờ ấy đang được lớp trẻ đầy nhiệt tâm dựng lại thành một niềm hy vọng mới cho dân tộc.

 

Tại sao tôi lại nói đến sự khác biệt của ngọn cờ trong tay ngừơi đang nắm giữ nó. Thưa, có nhiều lý do, nhưng ít nhất có những điểm chính yếu sau đây:

 

Những năm về trước, đa phần ngọn cờ của dân tộc được nâng niu và bảo vệ từ thế hệ cha anh, một thế hệ không ít thì nhiều đã có ân, lộc hoặc it nhất là có liên hệ một phần của đời mình với ngọn cờ ấy. Theo đó, khi họ ra đi, dù là thương hay là ghét, thì lá cờ ấy cũng đã nằm lòng trong họ. Họ vì quen mà giơ ngọn cờ lên cao. Họ vì nhớ mà trương cờ lên. Hoặc vì căm thù bọn cộng sản vô nhân mà tranh đấu.

 

Nhưng khi ngọn cờ đã tung bay thì không phải là không tạo ra dấu ấn. Tuy nhiên, ảnh hưởng của dấu ấn ấy không thể bay cao, truyền đi xa. Ấy là chưa kể đến đến mặt tiêu cực bị nhà đương cục Hà Nội và tay sai đánh phá khi chúng tung ra những chiêu thức phản bác là : trương cờ vì phục quyền, phục chức, chứ nào phải vì phục quốc!

 

Thoạt nghe những lời ấy, rất nhiều người đau tím gan, giận thâm ruột. Tuy nhiên, nhất thời cũng khó mà bào chữa, hoặc tẩy rửa cho hết được cái luận điệu tuyên truyền xảo trá của chúng. Nhưng khi bình tâm trở lại, cũng có người nhận ra một sự thật là: Có những kẻ gian manh đã lợi dụng lòng yêu nước cuồng nhiệt của đồng bào, chúng đã trương ngọn cờ lên  để lợi dụng lòng  yêu núc của đồng bào cho mục đích riêng tư? Sự thật này đúng hay sai, tôi không dám lạm bàn.

 

Rồi một thập niên nữa trôi qua, những chiến binh trẻ trong ngày bó buộc phải tan hàng kia đã xiết tay nhau. Ngọn cờ của họ đã khởi sắc, mang một ý nghĩa đấu tranh mới. Tuy thế, vì những liên hệ với màu cờ ấy. Nó cũng có một quy luật khắt khe là bị hạn chế. Theo đó, ngọn cờ dù có tung bay, cũng khó lòng mà vươn trải ý nghĩa tranh đấu cho hoài bão tự do, dân chủ cho quê hương được.

 

Nay thì ngọn cờ đã bay cao và đưa vào vũ đài thế giói một ý nghĩa khác biệt. Bởi vì,  người đi đầu, trương cao ngọn cờ kia đã không được sinh ra, lớn lên và trưởng thành dưới màu cờ sắc áo ấy. Nhưng lại cương quyết đem sức của mình ra mà tranh luận với thế giới rằng: Đây là ngọn cờ của chính nghĩa, của lương tâm, của dân chủ của nhân quyền và của Độc Lập, Tự Do và của Công Lý.

 

Khi nhìn theo bước chân ngạo nghễ của họ, hẳn nhiên sẽ có nhiều người phải tự đặt vấn đề là: Tại sao những người trẻ này lại đem thân vào trường tranh đấu mới.?

 

Có phải chăng , vì được giáo dục và trưởng thành trong một môi trường đầy nhân bản. Họ hiểu được thế nào là Tự Do, thế nào là dân chủ, thế nào là nhân bản thế nào là nhân quyền. Rồi họ hiếu thế nào là cưòng bạo, thế nào là độc tài, áp bức, thê` nào là phi dân chủ.?

 

Có` phải chăng vì được đào tạo trong Tín Nghĩa, họ hiểu thế nào là Liêm là Chính. Thế nào là xảo trá, lường gạt, là tham ô, hối lộ, độc ác và thế nào là cướp ngày?

 

Có phải chăng vì được giáo dục trong lẽ thật, họ hiểu thế nào là công bằng, là bác ái. Thế nào là bất công, thế nào là bóc lột, thế nào là buôn dân bán nước?

 

Và có phải chăng vì thấm nhuần nền văn hóa nhân bản của dân tộc. Hơn thế, họ có những trái tim quảng đại, có bầu nhiệt huyết trào dâng và bằng một vòng tay mở rộng. Họ đã không ngần ngại dấn thân, giơ cao ngọn cờ của dân tộc lên mà tranh đấu cho cuộc sống ấm no của đồng bào ở quê xưa? Nói cách khác, vì đại nghĩa, vì tự do, vì dân chủ vì nhân quyền và vì dân tộc. Họ muốn chia sẻ với đồng bào ruột thịt của họ ánh nắng công lý. Họ muốn chia sẻ tự do cho người dân họ mến yêu. Theo đó, ho không đi vì mình, nhưng vì người  Và đó chính là ý nghĩa khác biệt của ngọn cờ sau ba mưoi năm ngày cộng sản nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam.

 

Nhìn vào cuộc thế trong bước đi của ngày 30-4 hôm nay. Chính phủ của các nước tự do, nơi họ đang sống sẽ nghĩ gì? Trước tiên, mặt tiêu cực, các chính phủ này không thể đắp tai ngoanh mặt làm ngơ. Bởi vì, tầng lớp ngươi trẻ ấy là đa dụng. Sức mạnh của họ có thể ảnh hưởng trực tiếp tới những sinh hoạt của chính quyền hiện  tại và tương lai. Mặt tích cực, thì xét cho cùng chính những người trẻ này đang trên đường thực hiện lý tưởng Tư Do và Dân chủ trên toàn cầu. Là định hướng của xã hội hiện nay. Như thế, liệu các chính phủ tây phương có ra sức tiếp tay với những người trẻ kia khi thời cơ đến hay không?  Hỏi là đã trả lời. Bởi vì, những người trẻ này có tranh đấu cho riêng cá nhân của họ đâu. Trái lại, họ lên đường là vì tiếng nói của nhân dân thế giới yêu chuộng hòa bình, thịnh vượng và tự do đấy thôi.

 

Nếu họ đi vì mục đích cao cả ấy, ai và chính phủ nào sẽ ngăn cản bước chân của họ?  Chẳng lẽ chính nơi đào tạo ra họ lại là một vật cản đường hay sao? Không, ngàn lần không. Kẻ ngăn cản họ thì chỉ là những lớp gìa nua khiếp nhược và các bạo chúa của những chính phủ độc tài bạo ngược cộng sản mà thôi.

 

Thêm vào đó, lớp trẻ ở trong nước. Sau những ngày giao tiếp với thế giới bên ngoài. Họ chắc chắn sẽ có được cái nhìn rõ nét và trong sáng hơn với nhịp bước của những ngưòi đồng trang lứa nơi hải ngoại. Họ sẽ nhìn ra được những ruồi trâu đang tàn phá quê hương Việt. Họ nhìn thấy thảm cảnh Văn Hóa của Việt Nam đang bị những ngụy chứng Macle Maoho xoáy mòn luân lý đạo đức. Họ nhìn ra được cái tai họa của dân tộc khi nên Văn Hóa Nhân Bản, Bao Dung của chủng tộc Việt bị phá sản. Và sự nhận thức ấy chính là động cơ làm thức tỉnh lòng họ. Và từ một định đề, cùng nhau đổi mới quê hương. Họ ngại gì khi nhìn sang và cùng nắm tay các bạni đồng trang lứa ở hải ngoại để cùng nhau lo cho quê hương. Từ đó, nước Việt Nam chắc chắn phải có bước hưng thịnh.

 

Phần chúng ta thì sao. ( tôi muốn nói đến thế hệ cha, anh)Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.  Nếu như biết sức đã cùng, lực đã kiệt, không thể làm gì hơn được nữa thì ít ra hãy cùng nhau mà hỗ trợ cho lớp trẻ ngày nay tiến lên hơn là bày vẽ ra những tổ này, chức khác.  Bởi lẽ, theo cái nhìn thiển cận của tôi ( có thể không đúng) là: Rầt khó có một tỗ chức đấu tranh nào, ngoại trừ niềm tin và sức sống của lớp người trẻ hôm nay, có khả năng mang lại Tự Do, Dân Chủ và Công Lý cho quê hương trong ngày mai.!

 

Bởi lẽ, lòng họ sạch, trí họ sáng, lực thì dồi dào, bụng không hám danh, quyền tước lợi lộc, lòng không tư vướng hận thù. Bấy nhiêu điều đã qúa đủ để những lớp đàn anh còn phục chí, phải khuất phục mà hộ trợ cho những bước đường của tuổi trẻ. Có thế, may ra ý nguyện của cả dân tộc mới có cơ thực hiện. Trái lại, lớp tre gìa cũng khó cưỡng lại định luật của thòi gian và quê nhà cũng không có môt điều gì mới mẻ hơn!

 

 

 

Bảo Giang

ngày Quốc Hận 30-4

 

……………………………………………………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………………………………..

 

 

Con kiến thợ

 

 

Bảo Giang

 

– Bỏ tao ra… bỏ tao ra…

–  Thả tao xuống… thả tao xuống đi… tao lạy chúng mày, thả tao ra đi…

 

Mặc kệ tiếng gào thét đến rát cổ, khan hơi. Mặc kệ sự giãy giụa trong tuyệt vọng của Tót, đồng bọn của nó vẫn đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ. Hơn thế, vẫn nhởn nhơ, bước từng bước dưới hoàng hôn và coi như chẳng  có chuyện gì đang xảy ra….

 

Nếu viét thế là hàm oan cho các bạn bè của Tót. Vì thật ra, khi phải làm công tác tải thương này, những con kiến khiêng Tót chẳng vui thú gì. Lý do, chúng không điếc, cũng không độc ác, nhưng chúng  cũng chẳng biết làm gì cho bạn trên đoạn đường ngắn ngủi này. Hơn thế, chúng còn thấy  đau đớn và biết rõ sự bất lực của minh khi phải đưa đồng bạn vào cõi chết, một cõi mà Việt cộng gọi là được giải phóng để vào nước… thiên đàng cộng sản mà gặp Mác, Lê, Hồ. Nói cách khác, chúng biết đoạn đường cuối với thằng Tót rất đỗi tang thương, nhưng chúng không tìm ra được một lối thoát nào khá hơn để cho thằng Tót đi. Bởi như một thông lệ, nay người mai ta. Hễ con kiến nào bị thương thì những con kiến khác phải có nhiệm vụ khiêng… bạn về tổ để dự trữ như một loại lương thực cần thiết cho cả đàn.

 

Trong khi đó, Tót, tên con kiến bị thương nặng đang nằm trên cáng vẫn từng chập réo gào dãy dụa, nhưng không thể nào thoát ra khỏi cái gọng kìm rắn chắc của những kẻ có nhiệm khiêng nó về. Nó càng dãy, càng thấy bạn bè của nó bước nhanh hơn và thời gian đưa nó đi vào cõi chết như ngắn hẳn lại. Cuối cùng, nó như ngộ ra một điều: dảy cũng chết, kêu gào cũng chết, thế tại sao nó không nhắm mắt lại chờ chết có phải bớt đau đớn hơn không? Tự nghĩ thế, nó liều lĩnh nhắm mắt lại để chờ được chết êm ái. Nhưng khốn thay, khi vừa nhắm mắt lại, nó lại giật mình trong hoảng hốt, kêu la lớn hơn trước:

 

-Thả tao xuống… Thả tao xuông đi… Tao van chúng mày, hãy thả tao xuống đi…hu… hu…

 

Nhớ lại lúc đi kiếm ăn sáng nay. Tót đã  nhanh chân cùng với hai ba, bốn tay lực lưỡng khác đi ra xa hơn những bước đường cũ. Trời ơi, may mắn biết bao. Đi chưa bao xa, nó đã hoa đôi mắt khi nhìn thấy đống đồ ăn lớn như ngọn núi, đang tỏa ra những mùi vị thơm ngát làm chảy cả nước chân răng. Tót bước từ từ đến chân đống núi đồ ăn. Nó lia sợi râu đánh hơi qua lại vài lần rồi  ghé răng, nhấm thử.  Nó sửng xốt vì cái vị tuyệt hảo của món ăn lạ mà đời nó chưa một lần được nhấm nháp đến. Mừng quá, nó leo lên đống đồ ăn, gặm cho no cái mùi vị đặc biệt ấy. Ăn xong, nó đứng thẳng người dậy, đảo mắt quanh một vòng để tìm bạn hữu, sau đó dõng dạc gọi và đánh đi những tíùn hiệu cho bạn bè nó đến để cùng đưa thức ăn về tổ.  Nghe hiệu báo, bạn bè nó gọi nhau đến. Tất cả đều kinh ngạc vì những thức ăn thơm, ngon. Chúng ăn cho no, rồi thay nhau ngắt đồ ăn ra thành những phần nhỏ và chia nhau cõng về tổ. Thằng Tót thấy mình còn khoẻ, nó cúi người xuống, nâng bổng một phần ăn nặng gấp mấy lần nó để lên vai. Nó mỉm cười, bình thản lên đường trở về tổ với bạn đồng hành.

 

Trên đường về, nó không hề chểnh mảng lo vui chơi, trái lại những bước chân rất dòn, rất đều. Nó hy vọng, món quà nó mang về sẽ được kiến chúa, kiên ông, kiên con và mọi người hứng khởi. Tự nghĩ thế, nó hăng hái không thấy  mệt nhọc khi phải leo qua ghềnh, vượt qua suối. Thác và ghềnh trong đôi mắt con kiến Tót đây không phải là thác ghềnh của loài người thường nói, nhưng chính là những chướng ngai vật như một cọng rác, cái que hoặc là cái lá nhỏ chắn ngang trên đường đi của nó. Với với thằng Tót và một gánh lương thực nặng hơn thường lệ ở trên vai thì phải được kể là một vất vả thêm. Mặc những giọt mồ hôi  chảy nhễ nhãi trên người rồi nhỏ thấm xuống đất, mặc cho đôi cánh tay choàng qua vai ôm báu vật đã rã rời, Tót vẫn hăng hái nhanh chân. Nhìn thấy Tót gánh nặng, một vài con kiến cùng tổ toan đến gánh đỡ một phần cho nó. Nó mỉm cười cám ơn, từ chối ý tốt của đồng bạn. Tót cám ơn vì nó là một con kiến thợ cần cù, siêng năng với công việc hơn là muốn lập công. Tuy thế, lại có đứa cười thầm vì những bước đi bắt đầu nặng nề của thằng Tót.

 

Cảnh rừng vẫn thâm u trên đầu thằng Tót, dăm ba khe nắng nhỏ len qua tàng lá dọi xuống trên đất rừng như những bông hoa lạ nở làm đẹp thêm những lối đi. Tót dừng lại, ngửa mặt nhìn đoá hoa nắng vương trên cao. Nó vươn cánh tay quyệt vội những giọt mồ hôi nhuễ nhoãi trên người vài lần rồi lại lầm lũi bước đi.  Đi chưa được bao lâu, đôi chân nó bắt đầu cuồng và mắt thì hoa lên. Lúc đầu nó tưởng bị say nắng, nhưng càng lúc những cái chân của nó như cất lên không nổi.  Nó muốn ngừng lại nghỉ ngơi, nhưng lại sợ thời gian của đường chiều không còn là bao. Bởi lẽ, ánh nắng kia  đã nhạt màu rồi, và nó rất ngại bóng đêm sẽ đổ xuống rừng sâu trong lúc nó chưa về đến nhà.

 

Đi thêm một lúc nữa, nó nghe rõ tiếng thở dốc của chính mình, lúc ấy, nó mong gặp bạn bè chia sẻ gánh nặng cho nó. Rủi thay, tất cả các bạn bè của nó đều tay sách nách mang, không một ai có thể giúp nó được. Kết quả, khi nó trèo lên trên một cái que chắn đướng và gắng sức kéo gánh hàng qua. Bất ngờ, cái que lăn đi theo cơn gió nhẹ, lật nó ngả úp xuống. Cả cái que và gánh hàng nặng đè lên trên mình nó. Nó vội vàng, hốt hoảng đánh đi tín hiệu cấp cứu:

 

– Cứu tôi với, cứu tôi với, tôi bị té nhào rồi.

 

Kêu xong nó lịm xuống bên cành cây. Trong lúc chập chờn nửa tỉnh nửa mê, nó nghe như có tiếng của đồng bọn rì rào bên tai. Rồi có cả tiếng thằng Kíếm, thằng Bộ,  là hai đứa bạn thân nhất trong cuộc sống của nó đến bên lay gọi nó:

 

– Mày ra làm sao rồi hả Tót?

 

– Giời ơi! Tao đã bảo mày là đừng có cố xác quá mà. Bây giờ mày bị thương thì ai lo cho mày đây? Khéo mà lại vào bụng những thằng kiến cụ thôi.

 

Nó vừa nói xong, lại có tiếng thằng Bộ đầy lo lắng:

 

– Khéo mà nó không dậy nổi nữa Kíếm ạ.

 

Chúng nó chuyện trò với nhau một lúc vẫn không nghe thằng Tót trả lời, thằng Kíếm mủi lòng thút thít bên cái thân bất động của Tót. Bất ngờ, một ngọn gío rừng thổi giọt nước mắt nóng của thằng Kíếm rớt xuống trên người thằng Tót. Thằng Tót chợt bừng tỉnh. Nó mở mắt ra và nhận ra những khuôn mặt thân quen đứng chung quanh. Nó ngơ ngẩn hỏi:

 

– Tao làm sao thế?

 

Hỏi xong nó toan gượng người, chống chân đứng dậy. Tuy nhiên, toàn thân nó bị tê liệt. Cái miệng nó há ra và như không thể tự khép lại được nữa. Riêng đôi mắt của nó mờ hẳn đi, không nhìn rõ được ai là ai nữa. Nó gục đầu xuống. Trong cái mơ mơ, tỉnh tỉnh ấy, nó như biết hoặc nhớ ra được những việc làm của đàn kién khi một con bị nạn.

 

Trước tiên lũ kiến gọi nhau đến, chúng đẩy cây gỗ ra và cứu kẻ bị nạn. Gặp may, kẻ bị nạn sẽ đứng dậy và chờ cho hồi phục thì tự mình đi về nhà dưỡng thương. Gặp trường hợp bất khả dụng, nó nằm ỳ ra đó. Bạn bè xúm đến, kẻ thì hỏi han , an ủi vài câu rồi bỏ đi, kẻ thì thút thít xót thương cho đứa bạn vắn số. Bởi lẽ, theo luật sinh tồn, chúng như biết trước chuyện gì sẽ đến và đây có thể là lần cuối cùng chúng còn nhìn thấy kẻ lâm nạn. Sau cuộc thăm viếng ngắn ngủi ấy, chúng nhận lệnh và chia phiên nhau khiêng xác kẻ lâm nạn về nhà. Khi về đến tổ, con kiến bị thương sẽ được để năm riêng ra một chỗ gọi là nơi dưỡng thương. Cơn bệnh ngặt nghèo qua không nổi, nó sẽ biến thành một món ăn cuối cùng cho đồng loại.

 

Nhắc đến chuyện này, lũ kiến chưa bao giờ quên được câu chuyện về thằng Chí, một trong những hung thần của đám kiến thợ. Mỗi khi nghe tin có con kiến thợ nào lâm nạn là Chí hăng hái tình nguyện đi cõng con kiến bị nạn về tổ. Khi về đến tổ, Chí là một trong những kẻ đầu tiên đến rỉa cánh tay hay khúc chân của con kiến bị nạn cho nó sớm được giải phóng.. Sau khi no bụng, nó mời thủ trưởng đến khám xác và mở tiệc mừng. Dĩ nhiên, thịt kiến còn nóng rất ngon, rất khoái khẩu, nên kiến bác, kiến đảng dành riêng công tác tải thương cho thằng Chí dàn dựng…

 

Nên khi nhắc đến Chí là nhắc đến cả một đoạn hận tình sử trong đời của lũ kiến. Thằng Chí được sinh ra trong trường hợp nào thì không một ai hay biết. Lũ kiến chỉ được nghe nói về những huyền thoại chung quanh thằng Chí do một số tay chân của Chí tung ra thôi. Chúng nó kể rằng, ngày thằng Chí ra đời có nhiều điềm lạ. Trước hết, mặt trời đi vắng, thay vào đó là những đám mây che phủ cả không gian  rồi sấm chớp nổi lên, dông bão đổ ập xuống. Chẳng bao lâu sau, nước tuôn trào vào trong các hang ổ của lũ kiến, khiến tất cả mọi con kiến đểu hoảng hốt bỏ của chạy lấy thân. Thằng Chí không nhanh chân hơn những kẻ khác, trái lại, nó chưa thể tự mình chạy thoát được. Một con kiến gìa thương hại thằng Chí còn non nớt, cõng nó trên vai để trèo lên cây lánh nạn. Rủi thay, trận mưa không phải là đôi ba ngày mà là một trận mưa dai, mưa dài như không muốn dút. Trời rét như cắt. Sức chịu đựng của con kiến gìa mỗi ngày một yếu. Tuy thế, cánh tay và thân hình của nó vẫn không ngừng căng ra để che chở cho con kiến con là thằng Chí khỏi lạnh, khỏi bị rơi vào cơn giông bão.

 

Phần thằng Chí, khi được nằm trong vòng tay yêu thương của con kiến gìa, nó nhất thời có ý định là sẽ ghi lòng tạc dạ ơn cứu mạng của con kiến gìa cho đến đời đời. Nó tự bảo: Sông có thể cạn, núi có thể mòn chứ tấm tình của nó với gã kiến gìa kia đời đời không bao giờ đổi thay. Qua vài ngày sau, những gịot nước mưa kia không đủ no. Nó thấy đói, hàm răng non nhỏ nhắn của nó định gặm lấy chút vỏ cây cho đỡ lòng. Kết qủa, vỏ cây cứng hơn nó dự tính. Rồi nó mở bừng mắt ra, ngay trước miệng nó là cánh tay của con kiến gìa. Mùi thơm của da thịt ấy làm nó càng đói thêm. Nó lay cánh tay ấy và gọi:

 

– Bác Bội ơi, bác còn khỏe không?

 

Lạ, thường thì lão gìa Bội này có đôi tai rất là thính, bất cứ một cử động nhỏ nào bên mình lão, lão đều hay biết. Nhưng vì lẽ gì, lúc này gọi hỏi, ông ta không trả lời. Chẳng lẽ ông ta đã chết vỉ trời giông bão?  Tự nghĩ thế, Chí lập lại động tác một lần nữa và cố sức gọi to hơn:

 

– Ông Bội ơi, ông làm sao thế, ông còn sống hay chết rổi? hu.. hu …

 

Không có tiếng của con kiến gìa tên là Bội trả lời. Trái lại, thằng Chí thấy cái cánh tay của con kiến gìa mỗi lúc đè xuống trên người nó nặng thêm. Nó mỉm cười. Gặm thử rồi cắn lấy một đoạn cánh tay của lão kiến Bội cho vào bụng. Nuốt xong một đoạn cánh tay của con kiến gìa, thằng Chí thấy khoẻ hẳn lên, trong khi đó, lão gìa Bội cứ nằm bất động. Tuy thế, máu từ vết thương trên cánh tay  lão bắt đầu rỉ ra. Khi thấy máu chảy, thay vì tìm cách cứu chữa cho lão, hoặc tìm cách bõ trốn đi trước khi lão tỉnh dậy, thằng Chí lại ngậm chặt lấy chỗ bị thương ấy mà hút lấy máu của con kiến gìa theo lý luận của Hồ chí Minh là: Nuôt máu người để nuôi mình!.

 

Phần lão Bội, phải trải qua cơn mưa tầm tã, rét mướt, thêm đói khát, sức lực của lão khánh kiệt, người lão lả đi từ lúc nào lão không hay biết. Vào lúc ấy, lão không còn đủ sức để chống chọi với phong ba. Tuy nhiên, con kiến gìa chưa vuột ra khỏi miếng vỏ trên cành cây cao là vì cái ý chí của lão muốn  giữ lấy cái bờ phía ngoài gió rét để che chở cho thằng Chí còn non nớt nằm bên trong chờ thời. Nếu không có cái ý chí mãnh liệt ấy, lão đã té nhào xuống vực nước cùng với thằng Chí lâu rồi.  Nên khi thằng Chí bắt đầu nhâm nhi, tỉa dần từng cánh tay, khúc chân của lão Bội, lão không còn hay biết gì nữa.

 

Qua hôm sau, ánh nắng từ trên cao chiếu vào mảnh vỏ cây, sức nóng của mặt trời làm cho kẻ chết cóng là lão Bội hồi tỉnh. Lão mở mắt ra, vui mùng vì thấy thằng Chí vẫn còn khoẻ mạnh nằm trong vòng tay cũa lão. Lão định xiết chặt lại vòng tay để tỏ lộ nỗi vui mừng và cám ơn trời đất đã cho mặt trời lên để cúu sống chúng. Nhưng khi vừa đưa cánh tay lên. Lão thấy đau buốt toàn thân. Lúc đầu lão hoài nghi là lão bị thương vì cơn giông bão. Sau đó thêm kinh hoảng khi nhìn thấy vài cánh tay, cái chân của mình đã bị cắn đứt lìa khỏi thân mình.

 

Con kiến gìa đảo mắt nhìn vào mặt thằng Chí. Cái mặt non choẹt của nó được con kiến gìa che chở trong thời gian qua bỗng nhiên đổi khác. Gìa Bội nhìn thêm lần nữa. Thằng Chí có tật nên vội phóng ra khỏi vòng tay của con kiến gìa. Khi phóng ra khỏi tầm tay của con kiền gìa rồi, thằng Chí không nhân cơ hội này để thoát lấy thân. Trái lại, nó khuỳnh đôi cách tay ra như sẵn sàng lao vào cuộc chiến sống chết với lão kiến gìa. Lão kiến gìa cười đau đớn. Nó thấu hiểu toàn bộ diễn tiễn của vấn đề. Nó muốn gầm lên:

 

– Mi đối sử với ta như thế sao?

 

Thằng Chí khi ấy đã trườn mình ra khỏi cách tay con kiền gìa. Nó chống đôi mắt lên, trả lời:

 

–  Ông có sống cũng chả làm nên tích sự gì, nên thôi, hãy tự nạp mình cho tôi để mai mốt khi lập được đại nghiệp tôi còn nhắc nhở hậu thế lưu truyền đến tên của ông.

 

Con kiến gìa nghe thằng Chí nói thế thì máu uất trong người nổi lên, nó tính giang cánh tay ra vả vào mồm thằng Chí vài cái cho hạ hỏa. Kết qủa, khi  giơ cánh tay lên, người nó quay mòng mòng và tự ngả ngửa ra không thể lật dậy được nữa.  Sáu cái tay chân lành lạnh hôm nào nay chỉ còn vài cái gẫy gọng, ngoe nguẩy. Đã thế, thằng Chí còn nhẩy chồm đến như sẵn sàng lâm chiến. Con kiến gìa hoảng thần hồn, thân nó nằm ngửa quay vòng vòng và chuyển động theo vài cái chân còn vẫy vùng trong không khí. Nó gắng hơi tàn bảo thằng Chí:

 

– Phải, ta chết đi không có gì đáng phải tiếc và hối hận. Nhưng kẻ còn sống như mi thì hãy tự lo lấy thân kẻo những công việc này truyền ra ngoài thì đời đời dòng dõi ngươi sẽ bị nguyền rủa.

 

Thằng Chí tròn vo đôi mắt:

 

– À há! Lão Bội ạ, thật ra,  tôi chỉ có ý định  ăn tạm cánh tay, cánh chân của ông cho qua cơn đói để chờ ngày nước rút là tôi sẽ đi tìm lấy cơm ăn áo mặc. Nhưng đến lúc này, tôi lại phải thưa với ông rằng. Tôi xin muôn vàn đa tạ lời nhắc nhở của ông vừa rồi. Bởi lẽ, nếu tôi để cho ông  sống và tụt xuống được gốc cây dưới kia thì đời của tôi phải là đời bỏ đi. Thôi thì đành vậy. Thà phụ người còn hơn để cho những lời này bay ra ngoài. Ông bằng lòng vậy nhá!

 

Nói xong, thằng Chí liền thượng cánh tay, hạ cẳng chân, tung chưởng vào con kiến gìa. Nói cho ngay, sức của thằng Chí khi ấy dầu có khá cũng không thể nào thắng nổi con kiến gìa một cách dễ dàng. Nhưng trời lại đem thêm giông bão đến cho lão. Đang lúc cuộc chiến trên cành cây chưa phân thắng bại, bỗng có một đám kiến lố nhố trạc thằng Chí xuất hiện. Lúc đầu chúng đứng nhìn cho vui, nhưng sau lại vỗ tay hoan hô, cổ võ cho cuộc chiến tương tàn. Thấy vậy, hai kẻ trong cuộc đều cố sức vẫy gọi những kẻ bàng quan kia vào phía mình. Con kiến gìa vẫy gọi:

 

– Hỡi các bạn trẻ, hãy giúp tôi trừ khử tên gian ác này để giòng dõi kiến chúng ta có được những ngày ấm êm mai sau.

 

Lời gọi của con kiến gìa như tiếng chuông ngân thấm vào tận buồng gan lá phổi của lũ kiến con. Tuy thế, lũ trẻ ranh ấy chưa hiểu biết thế nào là an nguy cho mai sau, nên chúng đứng chống mắt nhìn con kiến gìa đổ máu mình ra trong cuộc chiến tuyệt vọng với thằng Chí. Trong khi đó, thằng Chí lại nhanh mồm hỏi những con kiến trạc vừa chui ra khỏi nhửng chỗ nấp trên cành cây:

 

– Hỡi các bạn trẻ của tôi, các bạn có đói không?

 

Nghe thế, lũ kiến ranh bực mình trả lời:

– Mưa đã mấy ngày, không có cái gì cho vào bụng, mày hỏi câu ấy làm gì?

 

– Thật thế à? Chờ đấy, tôi sẽ biếu các bạn một bữa tiệc linh đình đây.

 

Nghe thế, một con kiến  chu mỏ lên bảo Chí:

 

– Ôi mày nói ngu ngốc làm sao chứ. Thân mày chống đỡ không nổi cái tát của ông gìa kia mà mày lại còn nói phét là sẽ đãi chúng ta bữa tiệc linh đình à?

 

Thằng Chí trả lời.

 

– Sao mày hỏi câu ngu như thể hả thằng Gió kia. Mày không biết vận số thời cơ là cái gì à?

 

Một con kiến đứng ngoài nghe thế,  hỏi lại:

 

– Mày bảo nó hỏi ngu, nhưng ngu ở cái chỗ nào? Thông thiên vận là cái gì nào?

 

Thằng Chí ranh mãnh trả lời:

 

– Này nhá, thân tao thì nhỏ bé, còm cõi. Nếu chúng mày giúp lão gìa kia đánh chết tao. Chúng mày có được ăn cái giải rút gì không?

 

Hỏi xong, thằng Chí tự trả lời:

 

– Chắc chắn là không được tý gì. Vậy nếu chúng mày đói thì chỉ có một cách là tiếp sức với tao vật lão gìa mập kia xuống. Lão đổ xuống chúng mình tha hồ mà đánh chén. Chén xong ngủ kỹ, chờ vài ngày nữa nước rút đi, mình sẽ tụt xuống gốc cây mà xưng bá thì lo gì chết đói. Ngược lại, tụi bay giúp ông ta. Tao chết, chúng mày cũng không có được một cái chân cái tay của tao cho đỡ đói, trái lại, lão gìa kia  nuốt xong thịt tao thì chắc lại đến phiên tụi mày. Bởi lẽ, lão là kiến cụ ở trong làng kiến nên có quyền ăn trên ngồi trốc… hì… hì… chúng mày chỉ làm mồi cho lão già ấy hưởng thôi. Nhời tao nói thế có đúng không hả thằng… thằng gì kia….?

 

– Hàm răng tao bị hô, chúng gọi tao là Vều. Nhưng làm sao mày biết được thiên cơ là vài ngày nữa nước sẽ rút xuống.

 

– Hỏi ngu lạ. Giời đã sinh ra tao thì tao phải biết thiên cơ chứ. Mày ngu không đọc sách báo nên không biết đấy thôi. Có cuộc nước nào dâng lên mà không rút xuống đâu.

 

Lũ kiến nhìn nhau. Tâm lý của chúng bị giao động. Bởi lẽ, thằng Chí đã khôn khéo tạo ra cái sự đói và no trước mặt chúng. Chúng chỉ còn nhìn thấy cái no, cái đói và quên đi hậu qủa lâu dài về sau. Thằng Vều bước vào tiếp chiến cho thằng Chí, rôi đến thằng Gió cầm quần, thằng sáu Dân, thằng ba Lú, thằng văn Khu…. Cuộc chiến nghiêng hẳn về phía thằng Chí. Tuy thế, còn khá nhiều đứa đứng ngoài vòng chiến. Phần thằng Chí, sau khi được hai, ba đứa nhãi nhảy vào tiếp sức, nó liền chụp lấy cơ hội, nhảy ra ngoài, dõng dạc tuyên bố:

 

– Thằng nào không bước vào vòng chiến sinh tử hôm nay. Sau khi tao diệt xong lão gìa kia thì sẽ đến phiên thằng đó.

 

Nghe thế, một số tên khác đành nhắm mắt bước vào chia phần. Khi ấy thằng Chí bảo lão kiến gìa:

 

– Thế đuổi tây, thế cộng sản, đành phải thế. Ông chả nên giận hờn cán cộng chúng tôi nhá.

 

Kết qủa, lão kiến gìa ngã lăn kềnh ra mà thác. Thằng Chí lúc ấy vênh vang lắm. Nó vung tay, múa chân rồi vươn vai đứng dậy. Sau bữa tiệc bằng thịt của con kiến gìa. Nó hùng hổ tuyên bố:

 

– Nay tao công khai cho chúng mày biết rằng: Tao sẽ thống xuất chúng mày mà làm một cuộc viễn chinh giang hồ. Theo tao thì sống, chống tao thì chết. Khi chết tao còn tặng cho đứa phản bội nào đó cái tội bán và giết ông gìa Bội. Chúng mày nghe rõ chứ? Có đồng ý như thế hay không?

 

Tiếng hô trả lời từ nhỏ rồi vang to lên. Thằng Chí  mặt đỏ như vang:

 

– Đã nhất trí thì phải lập lời thề với nhau. Có ai phản đồi không?

 

– Không, chúng tao nhất trí với mày!

 

Nghe thế, thằng Chí đưa hai tay lên, tuyên bố:

 

– Lời thề như sau: Kể từ nay, những thằng nào phản bội tổ hợp hôm nay thì phải chết. Tất cả những kẻ có mặt hôm nay và truyền nhân của nó phải có nhiệm vụ bảo vệ lấy lời thề này.

 

– Nhất trí, chúng tao xin thề.

 

Chi tiếp:

 

– Tất cả những người có mặt hôm nay và hậu duệ của chúng nếu giữ trọn lời thề sẽ đều được quyền ăn trên ngồi trốc, không ai được quyền chống đối.  Chúng ta cương quyết, triệt để áp dụng đối sách chính là lấy bạo lực mà  áp chế những kẻ khác. Theo ta thì sống, chống ta thì chết.

 

– Nhất trí, nhất trí…

 

– Chúng tớ tâm phục và khẩu phục, cùng nhất trí chọn lựa và xin thề tuân theo giáo điều của thủ trưởng.

 

Hôm sau, bất ngờ nước rút. Những con kiến con nhìn thằng Chí như một ông tướng nhà giời biết thiên cơ. Chúng không còn nghi ngờ gì nữa, nên từ từ di chuyển xuống đất, tìm hướng trở về tổ cũ.  Khi về đến mái nhà xưa. Chúng thấy tất cả đều tan hoang xơ xác. Chúng chia nhau miếng cơm manh áo của người khác và áp dụng đúng sách lược đã thề nguyền với nhau như khi còn ở trên cây. Con dao bạo lực của chúng đã tạo ra nỗi kinh hòang cho đồng loại.

 

Kể từ khi thằng Chí chính thức nhận công tác lác độc này, đàn kiến thợ cứ nom thấy thằng Chí là y như người ta nom thấy Việt cộng. Từ đứa lớn đến đứa bé đều nguyền rủa cho thằng Chí chết, nhưng mãi nó chưa chịu chết. Hơn thế, với lòng độc ác vô luân, nó đã nhắm rượu rất nhiều kiến con kiến thợ làm cho thân xác của nó vạm vỡ ra một cách khác thường. Bất ngờ, một hôm trên đường xuống xóm, thằng Chí đã bi ám phong hàn. Nó tiếc của, ngày đêm kêu gào các đồng chí của nó đến chữa trị.  Kết quả, cảnh đời là một cuộc vay trả, trả vay. Trước đây nó đối xử bạc,  ác với người trên kẻ dưới và với những con kiến thợ bị nạn, nay đến phiên nó,  không một con kiến thợ nào buồn lo cho nó. Tệ hơn thế, chính những kẻ lúc trước tùng uống máu ăn thề với nó đều mong cho nó chóng chết để chúng chia nhau cái chỗ ngồi cho nó thỏa lòng gian ác. Rồi thằng Chí chết trong cô dộc, bạn của nó ngày xưa đã mở tiệc ăn mừng.

 

Cái gương của thằng Chí con kiến nào cũng biết, hơn thế còn thuộc nằm lòng. Cách riêng với Tót, nó đã từng nhủ với chính mình là phải chăm chỉ làm việc và không bao giờ gây ra điều gian ác, gây hoạ cho người khác. Ai ngờ, lại gẫy cánh như hôm nay. Nghĩ đến đây nó ứa nước mắt ra.. Nước mắt của nó thấm vào vai, vào cổ thằng Kiếm, một trong những đứa bạn bao giờ cũng đi chung với nó, lúc này lại đang có nhiệm vụ khiêng cáng. Thấy nước nóng nhỏ xuống trên vai mình, thằng Kiếm vươn cổ lên hỏi thằng Tót:

 

– Mày ra sao rồi hả Tót.

 

Thằng Tót nói nhỏ vào lỗ tai thằng Kiếm:

 

– Tao muốn chạy trốn.

 

Nghe thế, Kiếm nửa mừng nửa lo. Nó bảo thằng Tót:

 

–  Tao tìm cách đi đường xa để cho mày nghỉ thêm một lúc nữa được không?

 

– Được.

 

– Tao tìm chỗ tốt để nghỉ ngơi.  Khi tụi tao để mày xuống đất nghỉ là phải dông ngay đấy nhá.

 

-Ừ.

 

Cuộc đối thoại ngắn ngủi cho Tót nhiều hy vọng.  Bởi lẽ những trường hợp chạy trốn cũng thường xảy ra. Đi thêm một lúc nữa, thằng Tót lại chìm hẳn vào trong hôn mê, nó nằm yên lặng trên cáng, không có lấy một cử động nhỏ. Thằng Kiếm lên tiếng gọi hỏi nó vài lần nhưng không có tiếng thằng Tót trả lời. Lúc ấy thằng Kiếm cho rằng. Chắc là nó đã… tịch rồi. Thôi, như vậy là may cho nó. Nó chết trước khi bị người ta ăn thịt còn đỡ hơn là trường hợp đang ngấp ngoái, kẻ này đến cắn cái tay, kẻ khác đến gặm cái chân, cái đùi. Kiếm thở dài, nước mắt của nó bắt đầu chảy lộp độp xuống trên đường. Nó biết, từ ngày mai, nó sẽ cô đơn trên đường vắng. Nó chán nản, buột mồm bảo những kẻ cùng khiêng thằng Tót.

 

– Hay là mình bỏ nó xuống nghỉ mệt một chút chăng?

 

Chả có đứa nào phản đối, lũ kiến bỏ cáng xuống bên đường. Thằng Kiếm ngó mắt nhìn quanh, nơi đây có đủ những yếu tố địa hình địa vật cho thằng Tót. Nó chỉ cần chạy ba bốn bước là thoát tay tử thần, không biết nó có đủ sức chạy nữa hay không mà nằm im thế? Thôi hãy thử đánh thức nó lần nữa xem sao. Nghĩ xong, thằng Kiếm ghé răng nhấm nhè nhẹ trên cánh tay của thằng Tót. Tót vẫn nằm im bất động. Thấy vậy, thằng Kiếm nghiến răng cắn mạnh một cái, thàng Tót nhỏm người dậy, la lớn:

 

–  Bỏ tao ra, thả tao xuống đi…

 

La hét xong, nó chống thẳng chân lên theo phản ứng tự nhiên và lao vào trong bụi rậm. Thằng Kiếm và vài ba đứa khác hô hoán lên và đuổi theo sau lưng thằng Tót.

 

– Đứng lại, đứng lại, mày không đứng lại bác đảng bắn chết bây giơ.

 

Mặc cho lời hô hoán, hò hét từ phía sau. Thằng Tót dồn hềt tàn lực còn lại vào đôi chân và dông thẳng vào trong bụi rậm. Vào đền nơi, nó rớt xuống một cái lỗ nhỏ. Cú té này làm toàn thân nó tê dại. Nó muốn vươn tay vươn chân chống người đứng dậy, nhưng lực đã bất tòng tâm. Nó đành nắm chổng sáu vó lên trời để nghe những tiếng hò hét đuổi theo ở bên ngoài.

 

Rồi bằng đôi mắt mở ngược chiều, nó thấy thằng Kiếm như đang cố ý đứng chặn ở phía bên kia mép lỗ để che chở cho nó, trong lúc hai ba đứa khác cố công tìm kiếm. Một lát sau, thằng Kiếm vờ giận dỗi bảo với những đứa có nhiệm vụ khiêng thằng Tót:

 

– Thôi bọn mình đi về, mặc xác nó.  Nó không muốn để người ta khiêng về nhà trị thương thì cứ để cho giun dế ăn nó.

 

Nghe thế, một đứa hỏi cho có chuyện:

 

–  Không tìm nữa à?

 

– Tìm làm gì, nếu nó còn sống thì tự nhiên về gặp mình, bằng không thì diều quạ mổ nó.

 

Bạn bè của nó ậm ừ rồi bỏ ra đi. Lúc bạn nó bỏ đi, nó nhìn theo mà thấy lòng đứt ra từng khúc ruột. Duy có một điều nó hài lòng nhất là lũ kiến không một đứa nào phàn nàn trách lẫn nhau là vì đi đường xa và để cho Tót bỏ trốn. Đường chân trời tối hẳn lại trước mặt nó.

 

Một lúc sau,  sau khi những tiếng ồn ào lắng xuống, thằng Tót cố thu gọn lại những cái chân đang chổng ngược lên giời và gắng sức lật người dậy. Khi thân chưa vững trên những cái càng còn run rẩy, Tót kiễng bốn chân lên để nhìn bóng những con kiến bạn mỗi lúc một xa dần.  Đến lúc bóng đàn kiến đã hoàn toàn mờ khuất khỏi tầm nhìn của thằng Tót, nó chùn chân để hạ người xuống. Lúc cái bụng của nó vừa chạm vào mặt đất, người nó bỗng nhẩy dựng lên. Tâm hồn nó hoang mang rối loạn. Một mặt nó muốn phóng mình ra ngoài chạy đuổi theo đàn kiến bạn để về tổ, một mặt lại do dự. Kết cuộc, con kiến đen chui ra khỏi cái lỗ ở trong bụi rậm. Nó leo lên hòn đá đen và thấy bầu trời cũng tối đen. Nó không còn tìm ra một dấu vết nào của chúng bạn và cảnh vật chung quanh nữa….

 

 

 

Bảo Giang

 

…………………………………………………………………………………………………………………………………………….

……………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

 

 

CH              CHUYẾN BAY CUỐI

 

 

Viết cho ngày 30-4-1975, Viết tặng cho những ai đi trên chuyến bay cuối cùng rời Đà-Nẵng vào trưa ngày 29-3-75. Đặc biệt, cho một người lính trẻ tên Trực, đã trở về với sự sống bằng cách ôm… chân chiếc máy bay boing 727 trong chuyến bay có một không hai trong lịch sử chiến tranh Việt-Nam. BG.

 

 

Cùng với lớp sóng người cuồn cuộn,  chạy giặc bằng đôi mắt trắng ngược xuôi trên đường là từng đoàn,

từng toán quân bị tan rã, bị đuổi bắt, đang hốt hoảng, hỗn loạn kéo nhau về thành phố. Họ kéo nhau về từ muôn

lối, muôn ngả và bằng đủ mọi loại phương cách khác nhau. Kẻ trên xe, người chạy bộ. Kẻ hò hét, người khóc

lóc. Kẻ gánh gồng, người ôm vũ khí, kẻ còn …tay khôngi. Nhưng dù họ về bằng bất cứ phương tiện nào, hay

từ bất cứ con đường nào đi chăng nữa, tất cả những con người này, quân cũng như dân, từ già cả đến trẻ, không

phân biệt gái, trai đều có chung một khuôn mẫu  giống nhau. Khuôn mẫu áy chính là sự king hoàng, hoảng hốt,

lo sợ vẫn còn in hằn trên khuôn mặt, hiện diện trên ánh mắt và trong lời nói của người chạy loạn.

 

 

Những tưởng rằng, khi họ đặt chân vào được thành phố,  những dấu vết kinh hoàng, lo sợ kia sẽ được bỏ lại sau

lưng. Ai ngờ, những nỗi nhọc nhằn thống khổ kia không chịu dừng lại khi bàn chân của họ đã thực sự bước vào

rong lòng phố. Trái lại, nó còn tăng theo cường độ của lo âu bởi những bản tin đồn.  Tin đồn mất nước, mất thành

phố. Những bản tin đồn kém vui này càng lúc càng nhiều, người dân chạy loạn không còn biết tin vào ai. Họ dáo

dác đôi mắt, nhìn trước nhìn sau, chỗ nào cũng thấy trống trải khó mà tìm được nơi an thân. Bởi vì:

 

 

Khi nhìn lên, tiếng động cơ của các loại máy bay vần vũ không ngớt, Ngó ra khơi, tiếng máy tầu như mỗi lúc càng vỗ mạnh vào bờ. Và trên đường phố thì tiếng còi xe thi nhau kéo inh ỏi lẫn trong những tiếng chủi thề, văng tục. Vào lúc ấy, người dân chạy giặc hầu như đã mất hẳn niềm tin vào mảnh đất, nơi mà trước đó ít lâu họ ao ước được chạy đến bên nó, để nhờ nó giang tay ra bao bọc lấy mình. Có ngờ đâu, khi họ đã đổi cả sinh mạng, tài sản của gia đình để đến được nơi mong ước đó, họ mới biết được một điều. Chẳng có phần đất nào gọi là tạm yên để dừng chân cho người dân Việt, khi đôi dép râu và cái mũ cối của loài Hồ đã úp chụp xuống bên đường.

 

Thành phố Đà Nẵng không nhỏ và sinh hoạt thường nhật của Đà Nẵng được chia ra làm nhiều khu vực mang tính cách riêng biệt, khác nhau như: Vùng phi trường, khu bến cảng, khu thuộc bộ tư lệnh quân đoàn, khu tòa hành chánh, trường học, chợ, nhà thương v.v. Sinh hoạt ở đây vốn dĩ ngột ngạt, phức tạp, nay bỗng nhiên cùng lúc phải đón nhận thêm những lớp sóng người tràn về như thác lũ, thành phố như oằn mình, cong lưng. Hoặc giả, muốn gẫy đổ, bẹp dí xuống theo dấu chân của những người vừa đè lên mình nó. Vào lúc ấy, Đà Nẵng hầu như không còn lấy một khu đất trống. Từ trường học, nhà thương, đến bến tàu, công viên, hè phố. Đâu đâu cũng thấy người nằm la liệt và thế là Đà Nẵng của niềm tin yêu đang chìm vào trong hỗn loạn.

 

Người về chưa tìm được chỗ tạm dung thân, cư dân của thành phố đã vội lên cơn sốt, ngồi đứng không yên. Họ không yên tâm bởi vì tiếng đạn pháo đã nổ gần xát đâu đây. Và càng lo lắng hơn vì một bản tin chưa rõ xuất xứ nhưng cứ lao đi vùn vụt: Đà Nẵng rồi ra sẽ chịu chung một số phận bị rút bỏ giống như Huế, Quảng Trị! Từ khúc quanh ấy, Đà Nẵng không còn là Đà Nẵng của yêu thương, của bao bọc, của bất khuất, của tự hào. Đà Nẵng đang biến thành nơi của toan tính, nơi của lừa đảo phản bội. Nói cách khác, Đà Nẵng không còn đủ hấp lực để lưu giữ bước chân người ở lại. Kẻ mới đến, dĩ nhiên phải tìm đường đi tiếp, nhưng chính những người từng sống với nó thì cũng không kém phần quyết liệt, phải bỏ lại sau lưng khung trời và vùng đất đã bao bọc lấy âm phần của họ qua nhiều đời,, phải đạp lên trên xác của người mới về mà đi.

 

Lúc khởi đầu, câu chuyện gĩa từ Đà Nẵng chỉ xuất hịện trong những dinh thự, công sở. Nhưng chẳng bao lâu sau, nó loan truyền đến tất cả mọi hang cùng ngõ hẻm trong thành phố. Lúc đầu, người ta nói nhỏ vào lỗ tai của nhau ở trong công sở, trại binh, bộ tư lệnh.  Nhung chỉ vài phút sau, bản tin chạy ra đường, ra phố vào trường học, qua chợ búa đến nhà thương. Thế là từ ông gìa bà cả đến đứa bé thơ. Từ ông quan to đến người lính hạng hai, chẳng còn một ai nghĩ đến chuyện phải ở lại bảo vệ lấy thành phó thân yêu nữa. Thay vào đó là những tính toán, dò hỏi và chỉ dẫn cho nhau phương cách ra đi nhanh nhất và an toàn nhất. Lạ thật! Đà Nẵng bỗng dưng bị coi là một phần đất có đầy sự chết, cần phải bỏ đi. Bỏ đi không một chút thương tiếc.

 

Rồi Đà Nẵng thực sự chìm sâu trong cơn bão lửa vào đêm 28-3-1975. Đêm ấy là đêm cả thành phố rung chuyển. Đà Nẵng đã cuộn tròn theo ngọn khói bốc lên cao. Từ xa nhìn lại, có lẽ chẳng một ai dám nghĩ rằng. Đó là thành phố có người ở, nhưng tin rằng nó là miệng một ngọn núi lửa đang thời kỳ bạo phát. Bởi lẽ, sau những loạt đạn pháo gọi là giải phóng thi nhau gầm thét là: Nơi đây là cảnh chợ tan hoang với ngọn khói lửa ngùn ngụt bốc lên không người cứu. Phía trường học kia là gạch ngói vỡ tan với những thân người chết chồng lên nhau. Nếu nơi đó là nhà thờ, nhà chùa. Qủa đạn giải phóng cũng không tha tượng Chúa, tượng Phật. Chúa đã chết khổ đau, Phật đã về nơi cực lạc, có nhận thêm một miểng đạn của bác, mất thêm một khúc chân, cánh tay hoặc bị chém ngang giữa người cũng chẳng ăn thua gì. Rủi nơi đó là nhà thương. Gặp người chưa chết thì nhận thêm mảnh đạn làm phần cơ nghiệp để hoàn toàn được giải phóng. Kẻ đã chết, nhưng chưa kịp chôn sẽ có được cơ hội chết thêm một lần nữa để đầu ở một nơi, xương thịt một nơi. Và nếu nơi đó là một tiệm bán thịt chó thì bác đảng lúc vào sẽ hưởng thêm khẩu phần không phải là thịt chó nướng.

 

Đến khi ánh bình minh vươn lên vào ngày 29-3-1975, Đà Nẵng đã thay hình đổi dạng. Hầu như không một nơi nào còn nguyên vẹn. Xác người Việt Nam nằm chết rải rác ở khắp mọi nơi. Họ đã chết một cách rất bất ngờ, chết thật tình cờ. Chết chẳng một lời giối dăng.

 

Có nơi, cả một gia đình, từ ông bà đến vợ chồng con cái đang quây quần bên mâm cơm. Qủa sơn pháo của Việt cộng nổ tung giữa bàn. Chẳng nói ra thì ai cũng hiểu được một điều là: Những người có mặt không kịp nhìn nhau, hoặc nói với nhau câu từ biệt. Riêng phần sương thịt của họ thì được trộn lẫn với các món ăn, bắn tung tóe văng vãi khắp mọi nơi trong nhà. Và nồi cơm, bát canh trở thành những nồi và bát máu, chờ Hồ nhân, cán cộng đến chia nhau.

 

Rồi lại có người đang bồng con thơ chạy trốn. ”soạt”, một âm thanh nghe rất lạ tai do điệu vung nhanh nhẹn từ cái mã tấu trong tay người đảng viên Việt cộng tạo ra. Kết qủa, đầu người thiếu phụ lăn rớt sang một bên, và đứa trẻ bị văng ra khỏi tầm tay của bà mẹ mà chẳng hiểu là chuyện gì xảy ra. Khi lớn lên, em được tuyên truyền là nhờ bác đảng làm giải phóng em mới có một ngày như hôm nay.

 

Đến ông gìa chống gậy rời đất bắc năm 54 mới lạ. Ông chạy chậm qúa. Chạy suốt hai mươi năm, nay lại gặp lũ ôn dịch ngày nào. Lão chưa kịp nói câu nào, đôi dép râu đã vả vào mặt lão, cái gậy liền rời tay lão. Từ nay cho mãi về sau lão chẳng còn phải lo sợ chạy trốn giặc cộng và cũng chẳng phải dùng cái gậy ấy làm chân đi đây đó nữa…

 

Rồi kẻ chưa kịp vui mừng vì chạy thoát ra khỏi một đoạn đường, nơi đang có cuộc giao tranh, hay nơi có tiếng đạn pháo gọi hồn của Hồ nhân. Lại bắt gặp một tiếng nổ bất ngờ do qủa mìn của giải phóng gài sẵn trên đường. Kết qủa, sau tiếng nổ, thân người ngã xuống không toàn thây. Chết mà vẫn tưởng mình nằm mơ.

 

Lại có cảnh chết đứng, người chết ngồi. Cảnh nằm xấp, hình nằm ngửa. Người cụt đầu, kẻ mất chân, mất tay. Đây người đang cháy dở. Kia một đống thịt vụn bầy nhầy với ruột gan, tim óc văng tung tóe, lôi kéo đàn chó đói đến tìm miếng ăn. Rồi lại thêm những vũng máu thâm đen đang rủ đàn kiến, lũ nhặng, lũ ruồi đến chia phần với giải phóng. Và chẳng nơi nào mà không có cảnh khóc, cảnh cười, cảnh réo gào. Cảnh đứa bé ngồi bên xác mẹ đã lạnh cóng. Và cảnh người còn sống lại ngược xuôi tìm sống. Vào buổi sáng hôm ấy, 29-3-1975 Đà Nẵng chỉ còn lại hai địa điểm tạm gọi là an toàn. Và nó là cái đích cho mọi người đổ xô đến. Đó là phi trường và bến tàu.

 

Khi nắng vừa lên, một vùng bãi biển rộng lớn và khu vực chung quanh bến tàu Đà Nẵng không còn một chỗ trống. Người gồng gánh, kẻ tay bồng tay bế. Thêm người tay súng, kẻ lưng lựu đạn. Người buồn rầu, kẻ cao ngạo ngồi trên xe nhăn răng ra cười chen lấn nhau. Một nơi gần đó, từng đoàn xe tăng, xe kéo pháo đợi tàu di tản. Tất cả đều một lòng quyết chiếm lấy phần đất riêng cho mình. Khi ấy từ quân đến dân. Từ giàu sang đến khố rách. Từ trí thức đến bần nông, lao động. Từ người sang đến kẻ hèn đều có chung một mục đích giống nhau: Phải dành lấy cho mình, cho con cái của mình một chỗ đứng trong chuyến tàu xuôi nam kia. Do đó, cảnh hỗn loạn và chết chóc càng thê thảm hơn. Lính mất người chỉ huy. Dân không người hướng dẫn nên có dịp va chạm tàn xát lẫn nhau. Lợi dụng tình thế bất ổn định ấy. Những thành phần bất hảo của xã hội đã ra tay hành nghề cướp của giết người. Chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt kiêu bạc. Một gói hành lý nom giàu sang, một thân thể nõn nà duyên dáng là có đủ chất liệu tạo ra cảnh cuồng xát.

 

Ở cuối đường tuyệt vọng ấy, niềm tin được sống sót của người dân Đà Nẵng chợt bùng lên khi những chiến hạm, tàu thuyền đón đoàn người di tản xuôi nam từ từ hướng vào bờ. Dĩ nhiên, chẳng một ai cần nghe lệnh. Họ vội vã kéo theo vợ con, cháu chắt, anh em ào ào lao vào dòng biển xanh và bơi ra chiến hạm. Lúc ấy, sóng biển không còn là sóng biển, thay vào đó là lớp sóng người nhấp nhô. Màu xanh biển đậm đã biến thành màu da người, màu quần áo, màu hành trang.

 

Niềm vui của ngày bất hạnh không kéo dài. Khi đoàn tàu chưa bắt đầu làm công tác vớt người xuôi nam. Cơn đạn pháo của Hồ nhân đã thi nhau réo gào. Nó đổ ầm ập xuống trên thân người giống như một trận mưa rào, hay như nắm cát ném xuống mặt thau nước. Nói theo kiểu của Văn Tiến Dũng trong “đại thắng mùa xuân” thì đời một ngưòi bộ đội đi làm giải phóng, cách riêng, đời của những  anh đội kéo pháo, bắn pháo, chưa bao giờ có những giây phút hiên ngang anh dũng đến thế. Họ đã đứng thằng người nap đạn và bắn pháo thay vì phải chui rúc trong hang, trong ổ, nạp đạn, bắn vội vài trái rồi lại tìm chỗ ẩn thân. Bời vì, mục tiêu của họ hôm nay chỉ là đoàn người dân gồng  gánh, đang tìm đường trốn chạy cộng sản! Anh hùng hết biết!

 

Kết qủa, biển người, biển nước biến thành biển lửa, quyện tròn theo cột khói, cột nước tung bắn lên cao. Trong phút chốc, đoàn tàu vội quay mũi ra khơi tránh đạn. Riêng đoàn người xuôi nam có số phận kém may mắn hơn. Họ bị vùi dập xuống lòng biển. Người để lại vợ con, anh em, cha mẹ. Kẻ để lại bạn bè chiến hữu lẻ loi. Sau cơn cuồng pháo thảm sát của Hồ nhân. Máu đỏ loang thẫm bờ biển xanh, và trên sóng nước nhấp nhô là những thân xác vô thừa nhận. Dưới nước là biển đỏ, trên bờ là ruộng máu. Xác người, cánh tay, cái chân, cái đầu, khúc ruột nằm phơi mình đón nắng. Trên bãi nóng, mồ hôi đỏ thấm vào cát chảy thành dòng nối vào biển màu. Từ gìơ phút ấy, khoảng 9 gìơ sáng ngày 29-3-1975, Đà Nẵng không còn một hình dạng nào như trước nữa. Đà Nẵng đang đợi thần chết với nhịp độ hỗn loạn hơn.

 

Ngoài bến tàu, phi trường Đà Nẵng được coi là nơi an toàn hơn. Gọi là an toàn thôi chứ thực ra nơi đây, trật tự, an ninh cũng không còn được kiểm soát. Nó cũng bị vùi dập, chìm trong khói lửa từ đêm trước. Những cánh chim từng vùng vẫy dọc ngang khắp bầu trời của quê hương. Cuối cùng nhận số phận hẩm hiu, như số phận của những người lính không được lệnh chiến đấu. Nó chỉ may mắn hơn ở bến tàu là số tử vong chưa lên cao.

 

 

Đêm ấy, trong một căn hầm trú ẩn tại phi trường, có những khuôn mặt quen thuộc như Phi, Trực, Danh, Đặng, Tiến… ngồi bó gối nhìn nhau. Họ là những ngươi lính trẻ năng động, là biểu tượng anh dũng cho một quân đội đầy sức sống, bỗng dưng biến thành những cái xác không hồn co ro bất động.

 

Lúc đầu họ còn cười, còn nói, còn coi cuộc pháo kích của Việt cộng là một trò chơi vui tai lạ mắt, không hịêu nghiệm. Chẳng bao lâu sau, nhìn cái máy liên lạc ở trong phòng, luôn phát ra những tiếng rè rè thay vì một mệnh lệnh cần thiết, họ đâm ra bực mình, gắt gỉng. Bởi lẽ, từng điếu thuốc đốt cháy đỏ trên đầu môi không làm tắt được những ánh chớp bùng nổ vì đạn pháo giữa lòng phi đạo. Trái lại, làm cho họ thêm bối rối giao động. Một sự giao động chưa từng xảy ra trong cuộc đời làm lính chiến của họ. Cuối cùng Phi tức tối nói như thét:

 

– D. M. giờ này không cho lệnh bay còn chờ đến khi nào. Chúng pháo thêm lúc nữa thì máy bay cũng thành tàu bò chứ hay ho gì.

 

Phi nói thế là vì họ là những người lính quen với đường bay và bầu trời. Họ đã từng lao vào vòng lửa đạn. Đã coi cái chết nhẹ nhàng như đôi cánh bay. Họ sợ gì đạn pháo? Vì khi bay lên cao, có thể họ sẽ không trở lại theo đôi cánh chim bị gãy. Tuy nhiên, đời lính bay,  họ muốn nhận cái rủi ở trên cao hơn là phải ngồi chờ đạn pháo rơi nổ tung giữa hầm. Chuyện Phi nói ai cũng biết, nhưng không một ai dám nghĩ đến việc chui ra khỏi căn hầm, để tìm cánh chim lướt gió. Họ không dám bởi một lẽ đơn giản là không có lệnh. Lát sau, Danh nóng mắt, phụ họa:

 

-Đ.M., chỉ huy cái kiểu đếch gì mà không thấy lệnh lạc gì hết. Họ tính bắt mình ngồi đây chờ độc đắc hay sao đây?

 

Tiếng Danh thét tưởng chứng át cả  tiếng đạn pháo. Mười con mắt nhìn nhau. Lát sau Tiến trả lời:

 

– Mày không muốn chờ, cũng phải chờ. Không có lệnh, mày vác con tàu đi là tù rục sương con ạ. Hơn nữa, đang pháo thế này ai mở phi đạo cho mày chạy trốn hả thằng ngốc kia?

 

Danh, một phi công khu trục đỏ mắt nhìn Tiến. Sự thật phơi bày trước mặt. Đã là lính, Danh phải tuân hành theo mệnh lệnh. Dù, có khi lại là một cái lệnh rất…ngốc. Danh hậm hực. Danh đau lòng, Danh tiếc bầu trời. Danh thương đường bay. Danh đưa chân đá tung cái thùng đạn kê làm ghế ngồi trong phòng trú ẩn:

 

– Dĩ nhiên tao cần phi đạo. Nhưng cái thằng mặt mẹt Ôtô kia, mày cũng muốn ngồi đây chờ lệnh chết nữa hay sao?

 

“Ô tô” là hỗn danh bạn bè đặt cho Đặng. Đặng giỏi lại nổi tiếng gặp may và lì lợm vì món nghề đổ Lôi Hổ bằng cách đáp ô tô trong rừng. Đại khái, đáp ”ôtô” là một cách đáp đùa dỡn với tử thần, chỉ những tay gan bằng trời mới dám thử. Bởi lẽ, sau khi nhắm đươc mục tiêu ở dưới đất. Từ trên cao độ, viên phi công sẽ tắt máy. Con tàu chở đầy người rơi tự do xuống trên mục tiêu. Nếu không bình tĩnh tính toán và mở máy con tàu lại đúng lúc. Tay mơ sẽ được đi tàu suốt. Số Đặng rất may, mới vào nghề bị vật cho một qủa, con chuồn chuồn của Đặng bị banh càng trên tuyến đường Trường Sơn. Hôm ấy, Đặng chết hụt và nổi danh. Hôm nay, gã ngửa mặt nhìn lên nóc hầm, vẻ hiền lành như con gái vừa lớn, diễu cợt:

 

-A, cái thằng này láo nhỉ? Vào giữa lúc tổ quốc lâm nguy. Mày lại dám ngồi trong tàu của tao để xem tao đáp trật đường à?

 

Danh vênh mặt:

 

-Sợ máu gì. Có lạnh càng cũng không hơn lúc tao ném bom nhầm ở ngoài…biển!

 

Vài tiếng cười khô khan héo úa vang lên. Đặng vươn tay đứng dậy, ném điếu thuốc cháy dở xuống đất. Đặng đi ra phía cửa hầm trú ẩn, ngửa mặt nhìn trời đêm. Lát sau, Đặng quay vào đứng giữa phòng. Bàn tay kéo mạnh các giây khóa trước ngực:

 

-Tới giờ đi hành nghề rồi đây. Thằng nào dám theo tao đi tàu… xuốt?

 

Không cần suy nghĩ. Danh đứng bật dậy:

 

-Tao!

 

– Khá lắm. Thằng bà gìa kia, Đặng chỉ Tiến, mày có đi không?

 

Tiến lừng khừng trả lời:

 

– Thôi thì tao cũng liều giao tấm thân vạn thặng của tao cho cái càng gẫy của mày để thử thời vận một phen xem sao.

 

-Mày không ân hận chứ? Còn hai thằng chó chết dở kia, ngồi yên à?

 

Hỏi xong, tự Đặng bảo Phi:

-Thôi mày ở lại. Chờ thằng an phi kia dẹp xong đạn pháo, mày làm ơn cho nó bám càng chuồn chuồn của mày mà dọt.

 

Tiếng Phi ngập ngừng:

 

-Khoan đã, đừng có vội!

 

-Khoan với dùi gì nữa. Tao đi đây!

 

Nói xong, Đặng lao mình ra khỏi căn phòng. Theo sau Đặng là Danh rồi Tiến. Có tiếng Phi đuổi theo sau:

 

– Cẩn thận nhá!

 

Ba bóng đen lao vụt trong trời đêm, được soi sáng bằng những ánh lửa của đạn pháo đuổi theo. Vừa chạy, vừa tránh đạn pháo. Nhưng cuối cùng, Đặng đã an toàn leo lên mình cánh chim quen thuộc. Thật may mắn, con tàu còn đầy bình săng. Đặng mở máy. Tiếng ”rô tô” rít đều trong gío làm Đặng phấn khởi. Cùng lúc ấy, Tiến leo lên tàu, đến ngồi trên cái ghế phía tay trái. Theo sau Tiến là hai ba người khác nữa. Đặng quay lại nhìn những người lính này, gã không hiểu những người này đến từ căn hầm nào mà nhanh đến thế. Con tàu đã sẵn sàng rời mặt đất. Đặng vẫn không thấy Danh, gã bực mình chửi đổng:

 

-Đ.M., cái thằng khu trục này làm gì mà chậm như rùa vậy. Không nhanh chân, chúng pháo vỡ tàu của bố mày ra bây gìơ.

 

Tiến đặt bàn tay trên vai Đặng, ngậm ngùi:

 

-Dọt đi. Nó… ở lại… giữa đường rồi!

 

Đặng nghiến răng, bàn tay ấn mạnh trên cần lái. Con tàu rung chuyển rời mặt đất giữa những tiếng ồn ào thúc dục từ phía sau lưng. Phần Trực, Phi, sau khi ghé đôi mắt nhìn chớp đỏ lên cao an toàn, cả hai lặng lẽ trở vào phòng trú ẩn. Họ lặng lẽ vì những ẩn tình riêng tư. Phi chưa đi vì cả gia đình Phi ở Đà Nẵng. Phi dự tính, sáng mai gã sẽ lấy con tàu về nhà, bốc cả nhà cùng bay vào nam rồi muốn đến đâu thì đến. Riêng Trực, có lẽ cái tên đã làm hại gã. Trực lúc nào không trực, lại trực chính đêm nay! Theo đó, Trực phải ở lại bảo vệ an phi như lời Đặng bông đùa.

 

Trời vừa tảng sáng, Trực chui ra khỏi căn hầm trú ẩn. Nghe từng đợt tiếng nổ vẫn vang dội quanh phi trường. Phi nắm cánh tay Trực kéo lại:

 

-Mày đi chịu chết à thằng ngốc?

 

-Chết cũng phải đi.

 

-Mày định đi đâu?

 

Trực không trả lời, nhưng dặn Phi:

 

-Mày chờ tao một lát. Tao sẽ về ngay rồi mình cùng dọt.

 

Phi vỗ mạnh tay trên vai Trực:

 

-Nhớ cẩn thận nghe. Đừng đi lâu quá.

 

-Được rồi.

 

Sau khi đạp máy xe, Trực quay lại bảo Phi:

 

-Qua trưa, tao chưa về, thì đừng chờ nữa.

 

Nói xong, Trực lao mình trên chiếc xe Honda ra khỏi cổng phi trường. Đến lúc này, Trực mới thực sự bàng hoàng vì sự đổi thay khác thường của Đà Nẵng. Chỉ sau một đêm, Đà Nẵng không còn là Đà Nẵng ngày xưa. Tất cả mọi nơi đều thấy những cảnh hỗn loạn và ngừơi người dành dật nhau chạy trốn. Họ chạy bởi vì từ phía đàng sau, bám sát theo gót chân họ là khói lửa và tiếng thét gào trong bi thương. Bên cạnh sự đổ nát  tang hoang vì đạn pháo gây ra, sự thống khổ của người dân mong cầu sự sống còn gặp những cảnh tai ương không kém đạn pháo do những thành phần bất hảo của xã hội như lao công đào binh, du đãng, tù vượt ngục, lợi dụng thời cơ, thay đổi quần áo của các quân binh chủng ra tay gieo họa, và cướp của giết người dọc theo từng con phố. Đà Nẵng đã hoàn toàn mất an ninh. Các công sở trại binh đã bỏ trống.

 

Trực xả hết tốc lực, chiếc xe Honda đang chạy gấp, nó lao lên trên vũng máu và đám thịt nát vụn. Chiếc xe trượt bánh, hất tung Trực xuống mặt đường. Quên đau, Trực vội bò dậy. Dựng chiếc xe lên, chạy tiếp. Ngay lúc ấy, một toán người không rõ sắc phục xuất hiện ở cuối con đường, nổ một loạt đạn dài về hướng Trực. Hốt hoảng, Trực lao chiếc xe vào trong ngõ hẻm. Chiếc xe nằm quay ngang nổ máy. Chưa kịp hoàn hồn, một qủa pháo nổ ngay trước mặt làm bật tung cánh cửa. Thật nhanh, Trực chạy vào trong gọi lớn:

 

-Tâm, Tâm ơi!

 

Căn nhà vắng tanh không bóng người. Một cảm giác rợn lạnh đến với Trực. Trực rùng mình chạy ra phía sau. May mắn, Trực gặp ông bà Sinh, Tâm và mấy người em run rẩy trong căn hầm trú ẩn. Nghe tiếng người quen kêu gọi bên ngoài. Ông bà Sinh rồi Tâm lần lượt ra khỏi hầm. Sau phút bàng hoàng gặp gỡ nhìn nhau. Trực hỏi vội:

 

-Thưa bác, hai bác có đi không?

 

Ông Sinh vẻ vừa lo âu vừa chán nản:

 

-Đi làm sao kịp nữa hả cháu. Đường phố thì đầy những cướp bóc, lại còn đạn pháo không dứt!

 

-Nhưng tụi nó sắp vào đến nơi rồi bác ạ.

 

Ông Sinh khoa tay trước mặt làm một cử chỉ buông xuôi:

 

-Thôi mặc. Tới đâu thì tới. Đi cũng chết, ở nhà có khi cũng chết. Xin chiều theo ý của trời đất vậy.

 

Trực chưa biết tính ra sao. Nếu ông bà Sinh không chịu đi, dự định của Trực đêm qua, khi không theo Đặng làm chuyền tàu xuốt hoàn toàn mất ý nghĩa. Lý do, Trực muốn đến đón gia đình ông bà Sinh vào phi trường rồi cùng xa Đà Nẵng như đã bàn tính từ trước. Nhưng lúc này ông Sinh lại đổi ý làm Trực khó xủ. Như đoán biết được tâm trạng của Trực, Tâm bước đến trước mặt anh:

 

-Hay là anh đừng vào Sài Gòn nữa?

 

Trực lắc đầu:

 

-Không, anh phải đi. Hay em xin với ba mẹ để anh đưa em đi trước.

 

Khi  không nghe được lời đề nghị của Trực, chả biết nghĩ gì, bà Sinh bảo chồng:

 

-Hay là mình cho con nó đi với anh ấy?

 

Sở dĩ bà Sinh nói như thế là vì bà có lý do của bà. Cách đây hơn hai năm. Khi Trực đổi ra Đà Nẵng. Trực đã đến chào ông bà Sinh theo lời dặn của ông Tước, bố của Trực và là người bạn thân lâu năm của ông bà Sinh. Từ lần chào thăm hỏi ấy, Trực thường xuyên lui tới nhà ông bà Sinh. Rồi cả đôi bên, dù chưa có lễ hỏi cưới chính thức cho Tâm và Trực. Nhưng họ đã mặc nhiên chấp nhận tình cảm âý. Kế đến bà cũng nghĩ rằng. Trực làm việc trong phi trường, hy vọng sẽ có phương tiện đưa Tâm vào nam. Chết duối thì vớt lấy nước bọt, bà nghĩ thế. Phần gia đình bà, lúc này nếu có muốn kéo nhau đi cũng  chả còn phương cách nào khác, nên đành chịu. Khi nghe vợ hỏi ý kiến, Ông Sinh lặng lẽ một lát rồi hỏi con:

 

-Ý con muốn thế nào?

 

Tâm ôm chặt lấy bà Sinh:

 

-Má, hay cả nhà mình đi luôn đi, ở lại đây làm gì nữa?

 

Ông Sinh đôi mắt đỏ nhìn lên trần nhà, rồi nhìn ra khung cửa đã bị sập, tiếng ông dứt khoát:

 

-Ba mẹ sẽ ở lại nhà, nếu con muốn. Ba mẹ cho phép con đi trước.

 

Bà Sinh như hoàn toàn đồng ý với ý kiến của ông. Bà đi nhanh lại phía bàn thờ. Bà thắp cây nhang đưa cho Tâm:

 

-Chúng con lạy ông bà, lạy trời đất rồi đi mau lên, kẻo trễ.

 

Nước mắt tuôn hai hàng. Tâm run run cầm cây nhang trong tay. Nàng chưa kịp qùy lạy trước bàn thờ. Nàng đã oà lên khóc nức nở. Bà Sinh ôm xiết chặt con vào lòng:

 

– Thôi nín đi con. Mẹ khấn cầu trời đất cho chúng con đi dược bằng an. Nếu còn phúc còn phần, lo gì không có ngày gặp lại gia đình.

 

Tuy bà Sinh khuyên nhủ con nín đi, đừng khóc nữa. Nhưng chính trên khuôn mặt bà, chẳng lúc nào vơi dấu lệ. Bà không nói nên câu khi cầm tay Tâm đặt trong lòng tay Trực:

 

-Cháu Trực, hai bác tạm giao Tâm cho cháu. Cháu thưa lại với ba mẹ cháu đôi lời dùm bác.

 

Tiếng nói của bà tắc nghẹn lại giữa cổ. Ông Sinh vội quay mặt đi. Tâm qùy phục xuống trước mặt ông bà Sinh:

 

-Thưa ba mẹ…con đi.

 

Tiếng khóc vỡ oà trong gìơ tiễn biệt. Những bàn tay vội rời nhau. Tâm đi. Nàng được coi như là về nhà chồng trong ngày chạy giặc. Nàng đi không quần áo cưới, không xe kết hoa, không bàn tiệc. Riêng những người ở lại cầu mong cho nàng có được hơi thở tự do, không cộng sản. Không phải nhìn thấy những cái mũ cối những đôi dép râu làm hoen ố đời người.

 

Ra khỏi nhà, thật may mắn. Chiếc xe của Trực vẫn còn nằm nguyên trong vị trí cũ. Trực đến, dựng chiếc xe lên. Đạp máy, nhắm hướng trở lại phi trường.

 

Dù đoạn đường không xa lắm. Trực cũng mất khá nhiều thời gian mới vào được đến phi trường. Lúc này cổng phi trường đã không còn lính gác. Lớp sóng người chạy giặc đang ùn ùn kéo nhau vào. Trực dắt Tâm chạy bộ vào khu hầm trú ẩn tìm Phi. Căn phòng trống trơn. Khi chạy lên phòng phi hành. Tấm bảng vẫn ghi rõ gìơ bay cho các chuyến bay. Nhưng không thấy một bóng người. Trực hoang mang nhìn ra bãi đậu, gã chỉ thấy khói lửa nghịt trời. Giữa lúc đầy thất vọng, Trực giật mình vì tiếng gọi lớn từ phía sau lưng. Lúc quay lại, Trực nhìn thấy Phi, người bạn chung hầm đêm trước đang chạy đến:

 

-Mày làm gì bây gìơ mới tới. Muốn ở lại à?

 

-Còn cái cánh quạt nào hay không? Mà ông gìa, bà bô mày đâu sao không thấy.

 

Phi nhún vai tỏ vẻ không hài lòng:

 

-Rõ chán, đến gìơ phút cuối ổng đổi ý. Khi tao trở lại đây, chúng nó đã dông hết rồi.

 

-Mình ra ụ chứa tìm trực thăng…dọt luôn chăng?

 

-Ra đó là tan xác con ạ. Bọn ”đề lô” của chúng đã vào phi trường rồi. Bên an phi vừa tóm cổ được hai thằng khốn. Chúng gỉa dạng sỹ quan của mình đứng gọi máy khơi khơi ngay đầu phi đạo.

 

-Không liều, đứng đây chờ chết à?

 

Phi buông xuôi:

 

-Đành vậy. Vì có ra được, cũng không thể cất cánh.

 

-Tại sao?

 

-Rất đơn giản. Không một chiếc nào còn săng và không kiếm ra người đổ săng. Tàu không có săng cũng bằng không.

 

-Sao mày biết?

 

-Tao vừa từ ngoài đó trở về.

 

Trực buồn bã, đưa dôi mắt nhìn quanh. Ý định theo con tàu tháo chạy rời Đà Nẵng bị cắt ngang. Trực đề nghị:

 

-Ra bến tàu chăng?

 

Phi hất hàm cao ngạo:

 

-Hỏi câu ngu đến thế là cùng. Mình dân bay, ở đây có phương tiện còn phải bó tay. Ra ngoài đó, ai cho mày đi nhờ.

 

Vừa nói xong, đôi mắt Phi sáng lên, anh đập mạnh bàn tay trên vai Trực:

 

-Tao có cách rồi. Mày nhìn kia.

 

Theo hướng tay của Phi. Một chiếc máy bay hàng không dân sự kiểu Boeing 727 đang rà rà đáp xuống đường phi đạo. Không chậm trễ ba người kéo nhau lên chiếc xe Ford của quân cảnh không quân đậu gần đó. Trực ngồi vào ghế lái, phóng hết tốc lực chạy ra phi đạo.

 

Lúc ấy, vào khoảng gần trưa ngày 29-3-1975. Sau khi đáp xuống. Thay vì vào trong phi cảng, nó lại chạy vòng vòng dọc theo các con đường vào ra phi đạo. Đảo hết vòng nọ đến vòng kia, nhưng không dừng lại.  Cùng lúc, từng lớp sóng người tìm sống, cuồn cuộn chạy đuổi theo sau lưng nó. Chiếc máy bay chạy không nhanh hơn người chạy bộ, nhưng không một ai lên được. Đã thế, từng mỗi vòng bánh máy bay chuyển động, là có từng đoàn người ngã gục xuống đất. Họ ngã gục, một phàn vì số người đông đảo, đứng dọc theo hai bên đường phi đạo, dành giật, chen lấn nhau để đuổi theo chiếc máy bay. Phần vì đạn pháo mỗi lúc một nhiều và chính xác. Cứ thế, tiếp theo từng tiếng nổ là những tiếng rú gào thảm thiết. Khi ngã xuống, người còn nguyên vẹn, kẻ nát tan. Mặc, kẻ còn sức sống, lại thế chỗ trống ào ào tiến lên. Họ xô lấn nhau, đạp trên xác người. Lội qua vũng máu để đuổi theo chiếc máy bay là hy vọng duy nhất của họ đang rề rề chạy trước mặt.

 

 

Cái chết gần kề trong gang tấc, nhưng không ai sợ hãi và nghĩ đến việc bỏ cuộc. Bởi lẽ, nếu họ không nhanh chân bắt kịp chiếc máy bay kia. Họ sẽ bị bỏ lại. Như thế, thảm nạn của cố đô Huế trong tết Mậu Thân năm nào sẽ tức khắc tái diễn trong cuộc đời của họ khi lũ Hồ nhân và đảng vẹm nhe răng, trợn mắt kéo nhau vào thành phố của họ. Do đó, cảnh hỗn loạn dành giật nhau trên xác người, trong vũng máu càng lúc càng ghê rợn hơn.

 

Lúc đầu, chiếc xe Ford an phi mở còi hụ chạy đuổi theo sau máy bay. Không chạy được bao xa. Trực đổi hướng, anh chạy vòng qua các công sự chiến đấu, rồi theo ngã tắt, Trực lái xe ra ”taxi quay” chận ngang đầu chiếc máy bay. Trong toan tính của Trực, anh muốn dùng chiếc xe làm vật cản đường, bắt chiếc máy bay phải dừng lại.

 

Khi máy bay đến khá gần. Phi dõng dạc đứng lên trong bộ quần áo và cái nón sắt có chữ QC. Tay Phi cầm súng chĩa thẳng vào chiếc máy bay như có ý ra lệnh cho viên phi công phải dừng lại, nếu không Phi sẽ nổ súng. Kết quả, Viên phi công như coi thường cái lệnh ấm ớ của Phi. Máy bay vẫn tà tà tiến đến, nó đang thách thức với hiệu lệnh và chiếc xe của Trực. Đến lúc nghe tiếng thét của Tâm. Trực hốt hoảng ấn mạnh chân ga. Chiếc xe lao thẳng vào ụ cát bên đường vào đúng lúc chiếc máy bay chạy ngang trước mặt. Cả ba chưa hết bàng hoàng, bỗng thấy chiếc máy bay như ngừng hẳn lại trước mặt. Hơn thế, cánh cửa ra vào của máy bay từ từ mở ra. Không một chậm trễ. Trực nhảy xuống khỏi xe, đỡ Tâm xuống, rồi cùng Phi chạy như lao vào trong lòng chiếc máy bay cứu tinh.

 

Niềm hy vọng được cứu sống bỗng bùng lên trên những đôi mắt kinh ngạc. Đoàn người chạy giặc như thác lũ đổ ào đến chung quanh máy bay. Họ không còn thì gìơ thẩm định xem. Đâu là cửa vào trong thân máy bay. Đâu là lối đi lên khoảng trống bên cạnh nơi đặt chân dưới thân máy bay hoặc là nơi chứa hàng. Họ chỉ cần biết một điều. Bất cứ cái gì của máy bay, họ có thể bám vào được là họ sẽ bám thật chặt. Chẳng ai dại dột buông tay ra khỏi cái vị trí họ vửa nắm được! Bởi lẽ, nếu họ buông tay ra, người khác sẽ sẵn sàng thay thế và họ sẽ mất hẳn chỗ đứng.

 

Trực và Phi cũng không ngoại lệ. Khi vừa bám vào được thân máy bay. Phi, Trực rồi Tâm dắt díu nhau lên. Họ là một trong những người đầu tiên lên và chiếm được chỗ dung thân an toàn nhất trên chiếc máy bay đó.

 

Chỗ ”an toàn” này do chính lời của Trực kể lại như sau:

 

-”Vì hốt hoảng chúng tôi trèo vội lên chiếc máy bay. Nhưng sau khi leo lên máy bay, đi được vài bước, Phi và tôi biết là lầm. Nơi tôi đang đứng là khoảng trống nhỏ dưới thân máy bay bên cạnh khu vực chứa càng và chân máy bay thay vì trong lòng của nó. Tôi quay đầu bước trở ra để tìm lối lên khác, nhưng không thể trở lại được. Lý do. Phía bên ngoài đã chật cứng người. Nếu tiếp tục lách ra, tôi sẽ không có cơ hội trở lại và sẽ mất luôn vị trí ”an toàn” sẵn có. Tôi và người bạn đành ở lại, gĩư lấy chỗ trong cùng của khoảng trống nhỏ đó, rồi muốn tới đâu thì tới. Tuy thế, chúng tôi không cô đơn, vì có vào khoảng ba mươi người đã chen chúc nhau trong một căn buồng không mấy thú vị chung quanh nơi để chân máy bay này. Như thế, so với những người còn ở dưới đất. Tôi đã…may mắn hơn họ nhiều.”

 

Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, hút chưa xong vài hơi thuốc, chiếc máy bay như đã bị đè bẹp bởi làn sóng người di tản. Bên trong chật như nêm cối, bên ngoài hàng hàng lớp lớp người vẫn nối gót dành giật, kéo đẩy nhau lên. Ngay lúc ấy, một qủa pháo nổ làm rung chuyển mặt đất và thân tàu. Nhiều người có mặt tưởng tiếng nổ ấy đã xé tan tành chiếc máy bay ra hàng trăm nghìn mảnh vụn. May mắn, nó chỉ bị thủng một vài mảnh nhỏ bên thân cánh trái. Viên hoa tiêu vội vàng cho phi cơ chuyển bánh trước khi đóng cửa tàu.

 

Ai sẽ diễn tả nổi những tiếng gào thét trong kinh hoàng , đớn đau lúc bánh của con tàu bắt đầu lăn trên phi đạo. Bởi lẽ, dưới mỗi vòng quay của bánh xe là một đoạn dài những máu, những thịt của người Việt Nam chạy giặc. Họ là những người đang đứng trên đường hay là người bám vào trụ bánh, chân máy bay? Không ai có thể phân biệt được. Tuy nhiên, dưới sức nặng của con tàu và sự chuyển động mỗi lúc một nhanh dần đều của những vòng bánh đang quay là từng thớ thịt, lớp xương tan ra như cám trên đường. Vòng chuyển động tăng thêm, chiếc máy bay như lướt trên mặt đường từ từ rời phi đạo. Lúc nó rời phi đạo, nó còn mang theo lên không một số người vẫn ngoan cường bám chặt vào các trụ của chân bánh xe, hoặc là khung cửa. Chắc không có ai nỡ trách họ giỏi nghề đánh đu, hoặc là dại dột đem buộc mạng sống của mình vào trong hy vọng mong manh ấy?

 

Thử hỏi, cánh tay sắt nào có thể khóa chặt được thân người vào với những vị trí như thế? Chiếc máy bay lên cao dần, thân người mỗi lúc một nặng thêm. Những cánh tay mệt mỏi rã rời kia bắt buộc phải từ gĩa chân máy bay, và từ gĩa cụộc sống của chính họ. Họ bắt đầu lơ lửng giữa trời. Rồi chạm thật mạnh vào một vật cứng, người ta gọi là trái đất. Không một tiềng nấc, không một tiếng kêu đau đớn! Từng người, từng người. Nối tiếp nhau lơ lửng giữa không gian không dù. Tiếng kêu cứu không một ai nghe. Tiếng gào khóc không một ai hay biết. Chỉ thấy những cánh tay, cánh chân quờ quạng đảo ngược giữa trời xanh. Họ đang…bay. Bay với giấc mơ tự do không cộng sản. Bay với hơi thở cuối trên phần đất nặng đau thương nhưng lắm vương vấn này.

 

Máy bay đã lên cao, xa rời mặt đất. Nhưng không hiểu tại sao viên phi công không cho rút chân vào ụ chứa và đóng cái vỏ bọc phía bên ngoài lại. Phi bực mình chửi đổng:

 

-Đ.M. cái thằng lái tàu này, nó không biết rút chân và đóng cái bẩng phía dưới lại cho bố nó nhờ một tý hay sao? Bộ nó không biết hàng chục mạng sống trong cái lổ hổng nhỏ này sẽ chết vì sự ngu ngốc của nó à?

 

Phi chửi để mà chửi. Có chủi cũng chẳng ai nghe. Bỏi vì,

 

-Thứ nhất, nó sợ khi co chân lại sẽ kẹp chết người Việt Nam. Kẹp chết người nó phải tội và Chúa sẽ phạt nó.

 

-Thứ hai, nó sợ khi co lại sẽ kẹp dính người vào trong các trục chuyển động của bánh. Việc ấy sẽ gây ra trở ngại lớn khi nó muốn mở ra và đáp xuống.

Nhưng thật nhanh, do bản lãnh của những người đã từng bay. Phi bảo Trực cởi nút khóa dây thắt lưng ra, rồi khóa chặt thân người vào những trụ giây điện chằng chịt trong ụ bánh. Sở dĩ, Phi bảo Trực như thế. Vì khi bay lên cao độ, với áp xuất thay đổi, vị trí không an toàn, sẽ không thể nào điều khiển cánh tay của mình được như ý muốn. Kế đến, Phi rùng mình không dám nghĩ đến vịệc cái chân, cái bẩng đỡ phía ngoài nếu nó… nhất định không chịu co lên và đóng lại. Thì, vị trí nơi Phi, Trực đang đứng có khác gì cái hộp không đáy biết bay? Như thế, số mạng của những người đứng quanh đây chỉ có trời mới biết là còn hay mất.

 

Khi máy bay đã lên cao, chân máy bay vẫn không co lại. Những cơn gío mạnh như ngàn cơn lốc xoáy, theo nhau ào ào tràn ập vào khoảng trống. Khi vào chỉ có gió lộng, nhưng lúc trở ra, nó cuốn theo những thân người lỏng tay, không một bấu víu hoặc không thể cột người vào trong những vị trí khả dĩ vững chắc trong ụ tàu. Càng bay cao, gió càng làm lạnh buốt những thân người bé nhỏ. Rồi dù không muốn, những con người khôn khổ kia đành chấp nhận định mệnh khe khắt, rời tay, xa nơi có sự sống khổ đau. Trong khi đó, Trực, Phi may mắn hơn. Thân họ đã được khóa chặt vào trụ giây điện bằng những giây ba chạc, thăt lưng còn mang trên người, nhưng bốn cánh tay còn lại phải vòng qua, ôm chặt lấy và níu kéo sự sống lại cho Tâm. Chỉ một luc sau, Tiếng phi thét lên:

 

– Mày cởi nửa áo bên trên ra, cột người Tâm vào trụ giây điện. Nhanh lên, nếu không thì chết cả lũ bây gìơ.

 

-Được, mày ôm chặt nhá. Tao cởi áo đây.

 

Phi thét lớn hơn:

 

-Mau lên!

 

Tuy bảo Phi là ôm lấy Tâm để cho mình cởi nửa phần áo bay ở bên trên ra, nhưng Trực vẫn không dám rời Tâm. Một tay Trực ôm ngang người nàng. Cánh tay còn lại, cố gắng lắm, Trực chỉ mở được hàng nút áo trước ngực. Cởi một cái áo, công việc tưởng chừng như dễ dàng. Lúc này Trực thấy vạn nan. Lý do, người Trực đã khóa chặt vào trụ giây điện. Nếu mở ống khóa, có lẽ Trực sẽ tức khắc được nhảy dù không có dù về mặt đất. Nhưng không mở khóa, Trực làm sao cởi được áo?

 

Thoáng mắt, khoảng trống chung quanh ụ chứa chân máy bay. Lúc đầu chen chúc nhau có tới ba chục mạng người. Lúc này nhìn lại còn lác đác năm ba người. Tình cảnh ấy càng làm Trực lúng túng. Rồi khi nhìn xuống trên khuôn mặt sinh đẹp của người nữ sinh công lập Đà Nẵng, Trực không dấu nổi cơn đau. Trên nét mặt tái mét, xám xanh của nàng đã có vệt máu đỏ chảy ra từ hai bên lỗ mũi. Trực biết, Tâm đã hoàn toàn tê liệt. Nếu không có cánh tay của Phi, của Trực, Tâm không còn có mặt ở nơi đây. Trực chợt hối hận vì việc trở lại nhà ông bà Sinh và đưa Tâm ra đi. Trong khi đó, phía bên kia, chừng như sốt ruột vì mỗi lúc người Tâm một nặng, nhưng Trực vẫn chưa cởi xong cái áo. Phi lại chửi thề ầm ĩ, hét lên:

 

-Tao bảo mày buông tay ra, cởi áo mau lên, chết hết cả đám bây giờ.

 

Không hiểu nghĩ sao, Trực khẽ lách cánh tay giữa hai cột giây điện. Từ từ gỡ tay Tâm ra khỏi người Trực. Cùng lúc, Trực nhoài người đẩy Tâm xoay mặt về phía trước, bảo nàng:

 

-Em ôm Phi để anh cởi áo.

 

Tâm mở lớn đôi mắt nhìn Trực khẽ gật đầu. Sau cái gật đầu ấy, Tâm nới lỏng vòng tay qua người Trực. Nàng từ từ xoay người sang phía bên Phi. Nhưng đúng lúc Tâm nới vòng tay, quay người. Trực thấy hụt hẫng, rồi bàng hoàng nhìn theo. Cơn cuồng phong, đầy phẫn nộ giữa lưng trời đã nhanh tay cuốn người Tâm ra khỏi cánh tay của Trực và Phi.

 

-Á…..

 

Trực lao người đuổi theo:

 

-Tâm…!

 

Cùng theo tiếng thét kinh hoàng giữa khung trời ấy là toàn thàn Trực treo lơ lửng giữa cái hộp không đáy đang bay. Đôi mắt Trực như muốn rách toác ra theo bóng hình của người yêu dấu giống như một điểm đen, đang mờ nhạt giữa lưng trời. Nàng trở về với trái đất chăng?  Không nàng đã về với giấc mơ trốn chạy cộng sản , cũng là giấc mơ hãi hùng khủng khiếp nhất trong đời người!

 

 

Một lúc sau, chân máy bay co rút vào trong thân tàu và cái cánh cửa đạy phía bên ngoài cũng được khép nhỏ lại. Con tàu chở người di tản về đến không phận Sài Gòn. Nắp đạy và chân máy bay lại mở ra. Đợt gío mạnh, lạnh cắt da tràn ập vào ụ cánh. Nó đánh thức Trực và Phi dậy. Khi nhìn thấy nhà, nhìn thấy phố. Niềm vui được sống sót căng tràn lên đôi mắt đỏ. Khi chiếc máy bay là là xát trên mặt đất. Phi phấn khởi đứng thẳng người dậy. Anh cởi tung giây khóa ngang người ra khỏi trụ giây điện. Nhẩy bổng sang bên Trực hét lớn:

 

-Mình sống….ự…

 

Câu nói chưa dứt, chân máy bay chạm mạnh trên mặt phi đạo. Sức va chạm qúa mạnh, thân máy bay rung chuyển, chồm lên. Nó hất tung Phi lên cao và lộn ngược vào trong góc trống. Phi gập người xuống không nói năng, chỉ còn lại đôi mắt trừng mở. Trực run người, hai tay ôm chặt lấy trụ giây điện.

 

-Phi…mày có sao không…?

 

Phi không trả lời. Trực gọi đến rát cổ, Phi vẫn làm ngơ! Phi đã bỏ Trực, Phi đã bỏ đàn chim. Phi đã bỏ chuyến bay cuối. Và Phi đã gĩa từ giấc mơ tự do, hòa bình không cộng sản trong phút cuối cùng của chuyến bay di tản, khi nó đã đưa Phi an toàn về đến miền đất tạm dung.  Nằm trên chiếc bắng ca trong xe cứu thương. Trực nấc lên từng chập, nhưng không còn nước mắt, dù là giọt nước mắt thống khổ, dành cho cho Pjhi, cho Tâm… những ngưòi bạn đã bỏ Trực trong đoạn cuối cuộc hành trình đầy thê lương, kinh hoàng này…

 

Bảo Giang,

 

 

*******************************************************************************

********************************************************************************

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bình luận về bài viết này