Chuyện Dài/ Đồng Cạn

ĐồNG CẠN.

 

Bảo Giang

 

Chương Một.

Sau hơi thuốc lào dãn phổi, Bảng đứng dậy, nhịp nhàng vỗ đôi tay vào nhau:

– Báo cáo làng nước đã hết gìơ nghỉ. Yêu cầu làng nước tranh thủ trở lại lao động đi cho!

Tiếp theo tiếng nói và nhịp điệu gần như quen thuộc của Bảng, các xã viên thuộc hợp tác xã Xuân Thủy, chỗ tụm năm nơi túm ba, bắt đầu lom khom làm các động tác cần thiết khi đứng dậy. Người, với tay cầm lấy cái nón rách tả tơi đội lên đầu. Kẻ khác, đưa tay lại phía sau lưng, vỗ bèn bẹt trên đít quần vài ba cái cho rơi bớt bụi cát, uể oải chống tay trên cán cuốc, cán cào, lững thững bước từng bước chậm rãi trở lại nơi làm việc. Lại có người vẫn ngồi lỳ trên bờ cỏ, hút cho xong điếu thuốc dở, trước khi bước hẳn xuống cánh đồng cạn đang kỳ nắng hạn.

Theo cùng một nhịp điệu nhưng nhanh nhẹn hơn, Bảng cúi xuống xăn cao ống quần lên trên đầu gối, rảo bước dọc theo các bờ ruộng phân chia trên cánh đồng. Khi đi, Bảng ngửa cổ lên nhìn giời, rồi nhìn các xã viên bằng ánh mắt đầy mãn nguyện. Bảng mãn nguyện bởi vì:

– Thứ nhất, trải rộng dưới tầm mắt Bảng và trên khắp cánh đồng kia, chỉ có một màu xám đen. Một loại màu rất khó phân biệt giữa da người và màu đất bùn! Như thế, nhờ cách mạng, cái phồn vinh gỉa tạo không đồng đều, lắm màu sắc của Xuân Thủy trong thời trước đã thực sự bị đẩy lùi vào dĩ vãng. Ngày nay, nó được thay thế bằng màu nâu xòng, màu xám đen, màu đất bùn của xã hội mới. Nói cách khác, nhờ xã hội chủ nghĩa, màu da của nhân dân đã được đánh bóng ngang với màu đất. Có khác, chỉ là sự biết di động.

– Thứ hai, Xuân Thủy ngày nay có một dạng thức tiêu điều đói rách bằng nhau. Xuân Thủy không thể trở lại, hoặc tái diễn cảnh sức lao động của bần nông bị các tay địa chủ, phú hào bóc lột như xưa. Lý do, dọc theo cánh đồng từ người xa đến kẻ gần, người cày hay kẻ cuốc, đàn ông hoặc đàn bà, đều nằm trong danh sách bảo quản lao động chính hay phụ của nhà nước.

– Thứ ba, nhờ Việt Minh làm giải phóng, Xuân Thủy ngày nay đã xuất hiện một bản trường ca mới. Rồi nhờ bản trường ca mới này mà các xã viên trong hợp tác xã của nhà nước đã biết kéo cày thay trâu, dĩ nhiên, phần công điểm được tính ngang hàng với trâu  bò, không được tính ngang hàng với bác.

Khi nhìn những hình ảnh vui mới lạ này, Bảng thích chí bật cười rồi thêm phục nhà nước. Bởi lẽ, nhà nước đã khôn ngoan giao cái cày, cái cuốc cho những người làm chủ đất nước. Và biết trao con dao mã tấu vào tay những kẻ đầy tớ, nô bộc của nhân dân là các cán bộ, đảng ủy viên. Từ dạo đó, bất kể ngày đêm đi đâu người ta cũng thấy cảnh dép râu, mã tấu, ồn ào, tấp nập như mở hội vào thiên đường cộng sản. Khi vào thiên đường người ta thấy ánh cờ đỏ như máu dính trên tay đảng và hồng lên trên mặt bác. Nhưng xuyên suốt nửa chiều dài của đất nước từ ải Nam Quan cho đến bờ vĩ tuyến 17, hầu như người dân không thể tìm ra được một niềm vui nào, ngoại trừ một cảnh tiêu điều,  nhà hoang, chợ trống, đường vắng, đồng khô không bóng trâu cày. Riêng phận người làm chủ đất nước thì lặng lẽ như những bóng ma biết di động cả ngày lẫn đêm.

Nói thì như thế, nhưng thật ra, nhà nước cũng biết sáng chế ra một vài trò chơi vui mới lạ để thay thế cho những sinh hoạt buồn nản trong xóm thôn. Trước hết, một lũ trẻ là con cháu các nhà cách mạng Việt cộng được nhà nước quàng cho cái khăn đỏ, rồi xua chúng đi hết từ đầu trên đến xóm dưới hò hét, hô vang các khẩu hiệu lẫy lừng của nhà nước. Nếu bất cứ ai nhỡ mồm chống lại chúng, lập tức chúng sẽ đeo cho kẻ dại dột ấy một cái tội danh họ chưa một lần nghe thấy trong đời. Tội phản động, tội phản cách mạng. Nghe xong tội danh ấy, người dân lành kia có thể an tâm mà về nước… thiên đàng!

Kế đến, hộ khẩu nào có vài sào ruộng, con trâu, cái cày thì rủ nhau lên nằm như ăn vạ ở văn phòng hành chánh xã để khẩn thiết xin… dâng tài sản cho nhà nước. Khổ một nỗi, cán bộ nhà nước là những kẻ chỉ thuộc nằm lòng năm ba câu giáo điều láo lếu của bác đảng, rồi nhờ đường dao mã tấu để nên quan, còn phần chữ nghĩa thì rặn cả ngày không ra. Kết qủa, có người đi lên đi xuống hàng trăm lần, lá đơn tình nguyện xin biếu không tài sản cho nhà nước vẫn chưa được duyệt xét. Đơn từ chưa xong thì đi ra đi vào lo lắng. Kẻ nào may mắn làm xong lá đơn thì mặt mày hớn hở như vừa trúng số.

Sự vui mừng của người bất hạnh khá đơn giản. Bởi vì đất đai nhiều đời của họ từ nay thuộc về tay nhà nhà nước quản lý. Riêng người chủ cũ được nhà nước đền ơn, trao vào tay họ cái cuốc cái cày đi làm công. Hơn thế, nhà nước còn ưu ái, gạt cái tên của họ ra khỏi danh sách phú nông địa hào và ghi tên họ vào bảng vàng bao gồm những người làm chủ đất nước và lãnh đạo đảng. Từ đó, chả cần phải giải thích thêm, những người đã làm chủ đất nước thì lo gì thiếu lộc để mà hưởng.

Lý luận sắc bén vững chắc là thế, những tưởng mọi người sẽ hồ hởi tham gia vào chính sách. Nào ngờ, hơn một năm sau khi làm đúc kết, cán bộ Xuân Thủy mới phát hiện ra được một hộ có của ăn, của để nên không muốn ghi tên vào danh sách hưởng lộc của nhà nước. Người đó là ông Trần Lục.

Sở dĩ, ông Lục lờ đi trước việc phải hiến dâng tài sản cho nhà nước. Hoặc giả làm ngơ, không hay biết gì đến chính sách cải cách ruộng đất của nhà nước, cũng như chưa gia nhập vào hợp tác xã Xuân Thủy là vì ông có cái lý của ông:

– Thứ nhất, nhà nước đã phạm sai nhầm lớn trong chính sách cải cách ruộng đất. Tài sản nhiều đời của người ta nhà nước không thể dùng con dao và đến lấy một cách nhưng không như vậy được. Vẫn biết thời nào có luật lệ chơi của thời ấy. Nhưng lấy của nhân dân như thế thì không thể được. Ngay như bản thân ông, vài ba sào ruộng ông có là do chính mồ hôi của vợ chồng ông đổ ra trong một nửa đời người mới mua được. Nay bảo ông làm đơn biếu không thì cứ… từ từ rồi tính, đi đâu mà vội.

– Thứ hai, việc gia nhập hợp tác xã, theo lời cán bộ hướng dẫn trong học tập là do sự giác ngộ, và tự nguyện của quần chúng nhân dân. Việc ông chưa gia nhập hợp tác xã chắc không phải là một cái tội. Bởi lẽ, ông chưa gia nhập vì ông chưa giác ngộ.

– Cái lý do thứ ba quan trọng hơn. Ông Lục thuộc diện gia đình liệt sĩ của nhà nước. Ông có người con lớn và người em ruột đã hy sinh trong kháng chiến đánh tây. Đánh tây xong rồi, lộc ông chưa được hưởng, có lý nào nhà nước lại vơ hết ruộng đất của ông?

Theo đó, đã nhiều lần ông nghe biết chuỵện các cán bộ trong chi bộ Xuân Thủy bắn tiếng xa, tiếng gần về trường hợp của ông, ông vẫn không một thắc mắc. Trái lại, ông còn cười thầm trong bụng vì cái khờ khạo, ngu dốt của lớp cán bộ nhà nước. Chúng làm cán bộ nhưng không thông suốt chính sách bằng ông.

Trong khi đó, Nguyễn văn Bảng, đại diện đảng, chủ nhiệm hợp tác xã Xuân Thủy lại cho rằng ông Lục lập luận như thế là sai nhầm, là kém hiểu biết. Bởi lẽ, dân không thể hơn cán. Nếu ông ta không thuộc diện có công với đảng, với nhà nước, Bảng đã đóng gông vào cổ ông ta lâu rồi, chứ có lẽ nào Bảng phải hạ mình đến tận nhà ông ta để giảng giải, cắt nghĩa cho ông ta nghe về cái đường lối, cái chính sách cải cách ruộng đất của nhà nước đôi ba phen. Bảng tử tế như thế, ông ta đã không chịu nghe lời khuyên bảo, còn làm cho Bảng thêm bực mình. Và Bảng có khi nào quên được câu chuyện hôm nào vợ chồng ông ta đã ương ương giả nhời Bảng:

– Ông chủ nhiệm tính như thế cũng là phải, để rồi từ từ tôi sẽ bàn lại với nhà tôi. Vì thưa thật với ông, lúc này nhà tôi đơn chiếc lắm. Tôi cần đến con Mễ (tên ông Lục đặt cho con trâu) trợ giúp tôi đôi ba phần việc trong ngày mùa thôi, còn chính sách của nhà nước đề ra, ai mà dám chống. Tôi nói như thế có đúng không hả ông chủ nhiệm?

Nghe xong câu hỏi, Bảng đứng phắt dậy, rời nhà ông Lục. Gã lẩm bẩm một mình:

– Lão ỷ mình là gia đình liệt sỹ để chống đối ta chăng? Há lão ta không biết rằng đã sống trong thời đại của bác thì diện liệt sỹ, hay liệt… dương có khác gì nhau? Đảng chưa ra độc chiêu với lão ta không phải vì sợ, nhưng vì không muốn cho người ngoài nghĩ nhầm, đánh gía sai lạc là đảng vắt chanh bỏ vỏ đấy thôi. Tuy nhiên, Bảng vung một cánh tay lên cao, gằn dọng: Để xem lão ta còn gỉơ thói ngoan cố này được bao lâu nữa? Cứ gọi là sẽ biết tay ông chủ nhiệm này.

Ông chủ nhiệm này chính là Nguyễn văn Bảng. Bảng leo lên đến chức chủ nhiệm hợp tác xã Xuân Thủy, không phải vì Bảng là người có văn bằng phó tiến sỹ, hay phó tướng chỉ huy tại mặt trận. Gã vốn dĩ là một phục viên sau chiến dịch Điện Biên. Gặp thời cải cách ruộng đất, gã được nâng lên chức đội trưởng đội đấu tố ở Xuân Thủy. Rồi nhờ đường dao đấu tố, Bảng đã thênh thang bước vào con đường hoạn lộ với bác, với đảng.

Dĩ nhiên, khi bước vào con đường hoạn lộ này, Bảng sẽ không khi nào quên một trong những người bị đấu tố đã đưa Bảng đi vào lịch sử của đảng Vẹm (Vẹm là chữ ghép của hai chữ V và M. Nó chính là chữ viết tắt của tổ chức mang cái tên là Việt Nam cách mạng đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh. Các làng tề, làng chống cộng ở ngoài bắc đã nhất loạt gọi tổ chức này là bọn Vẹm. Nó vừa là ngụy ngữ để ám chỉ bọn Việt Minh, vừa có ý cho người ta thấy được cái mặt thật của bọn bất lương, thổ phỉ, cướp của giết hại nhân dân, đối kháng trực tiếp với những tổ chức cứu quốc của người quốc gia, nhưng lại tự mạo danh là cách mạng). Người đưa Bảng vào vinh quang với đảng Vẹm nói trên là ông Bính, bố vợ của Bảng.

Cái chết của ông Bính, có nhiều người nói ra nói vào mai mỉa. Nhưng, theo lý luận của nhà nước mà đội trưởng Bảng là đại diện, ông Bính, bố vợ Bảng phải chết như thế là đúng sách. Lý do:

– Ông Bính là một phú hộ có tới năm mẫu ruộng cấy lúa và ba dàn trâu cày. Ông Bính đã dùng năm mẫu ruộng này cho tá điền thuê mướn với gía cao. Dùng ba dàn trâu kia để bóc lột sức lao động của các bần cố nông, trong đó có chính bản thân Bảng.

– Lý do thứ hai quan trọng và đáng tội chết hơn. Trước đây ông ta dám phản đối việc gả con gái của ông ta cho cán bộ của nhà nước.

Bảng còn nhớ, trước ngày từ gĩa con trâu cái cày để đi làm cách mạng, Bảng đã phải lòng con gái ông Bính. Là thân tá điền, Bảng tự biết không thể nhờ người mai mối đến hỏi cưới Nụ theo kiểu thách cưới của ông Bính. Đến khi tình yêu vụng trộm của Bảng, Nụ lên men và bốc khói dưới chân đống rơm thì đổ bể. Khi đổ bể, ông Bính đã thiếu… suy nghĩ, gọi Bảng đến mắng nhiếc rồi đuổi Bảng ra khỏi hàng ngũ tá điền của ông.

Sau khi nghe rõ nhời chói tai của ông Bính, Bảng ra đi biệt xứ. Không ngờ, sau ngày Việt Minh chiếm được miền Bắc, Bảng trở về quê cũ như một anh hùng trong chiến dịch Điện Biên. Khi ấy, dầu không muốn, nhiều người đã phải nhìn Bảng bằng con mắt đầy tôn kính. Riêng ông Bính lại như người không có mắt. Ông ta ỷ mình có chút tiền của, tiếp tục miệt thị khinh khi, nhất định không chịu gả con gái cho nhà cách mạng Nguyễn văn Bảng. Bảng phải nhờ một người trong chi bộ đến động viên, ông Bính rét nên đành gật đầu. Việc làm của ông, theo Bảng, rõ ràng là một hành động cố ý áp bức các bạn bè tốt của bác. Do đó, bác không tha và Bảng chẳng khi nào quên.

Kịp đến lúc chính sách đấu tố phú nông địa hào ra đời, Bảng đã kiên quyết đề bạt tên ông Bính vào danh sách cường hào ác bá. Kết qủa, ông Bính đã nhận một nhát mã tấu ân huệ của nhà nước. Sau ngày ông Bính nhắm mắt lìa đời, Bảng đại diện ủy ban đến kiểm tra tài sản của ông để giao nộp cho hợp tác xã. Khi đi đến chân đống rơm cuối vườn, Bảng tần ngần đứng lại. Gã nhớ đến chuyện xưa, chuyện một đêm không trăng không sao với thị Nụ, trước ngày lên đường làm cách mạng.

Hôm ấy, khi màn đêm vừa buông xuống, Bảng vội vã ra khỏi nhà với một gánh hành trang khiêm tốn gồm cái điếu cày, cái đèn bật và gói thuốc lào bên mình. Sau khi đứng nhìn trời đen thẳm với những vì sao đêm lấp lánh, Bảng thẳng đường đến nhà ông phú Bính. Đến nơi, thay vì vào gõ cửa thăm Nụ, Bảng lại vòng ra phía sau vườn, lách mình qua hàng rào thô sơ và đến ngồi dưới chân một đống rơm chờ Nụ. Khi chờ, cái điếu cày của Bảng đã từng cơn kêu lên roong roóc giống như tiếng kèn thúc quân của đảng, nhưng vẫn không thấy bóng dáng người yêu dấu đâu. Càng về khuya, muỗi càng nhiều. Mặc, Bảng vẫn một tay đập muỗi, một tay vê thuốc lào cho vào cái nõ.

Đến gần nửa khuya, lòng buồn rời rợi, Bảng thu dọn hành lý và toan cho đống rơm mồi lửa trườc khi rút lui thì cánh cửa sau nhà ông Bính hé mở. Gã đứng lên, hồi hộp nhìn bóng người lách mình ra ngoài khung cửa. Lát sau, thay vì co chân bỏ chạy, Bảng nhảy ra khỏi đống rơm, ôm ghì lấy cái no tròn đẫy đà của Nụ:

– Sao mà ”nâu” thế, để người ta chờ mãi.

Nụ đẩy Bảng ra, mắng yêu gã:

– Gớm, chờ có một tý thôi mà cũng khéo trách. Người ta phải chờ cho thày u ngủ kỹ rồi mới dám ra đấy.

Bảng ngớ ngẩn hỏi lại:

– Thật à, thế khi ra đây niệu có ai nom thấy không?

– Không, cả nhà đã ngủ say rồi.

Bảng quên lo âu, gã kéo Nụ ngồi xuống chân đống rơm. Bàn tay chai cứng của gã, nửa hấp tấp nửa ngập ngừng luồn vào phía bên trong lớp áo của Nụ. Làn da bánh mật của Nụ run lên từng cơn dưới bàn tay hoạt động không ngừng nghỉ của Bảng. Bảng tham lam cúi xuống, tìm nụ hôn xã hội chủ nghĩa trong lúc Nụ bảo gã:

– Ấy từ từ thôi… kẻo tôi run qúa lắm.

Bảng mạnh tay hơn:

– Có việc gì mà phải run chứ?

Tiếng Nụ rên khe khẽ trong vòng tay tá điền:

– Tại… tại hở cái vạt áo, gío lùa vào lạnh lắm.

Bảng như nhớ ra một điều gì, gã bảo:

– Thế… thì tôi đặt vào cái… chỗ này, cứ gọi là ấm phải biết…

Bàn tay Bảng diễn tiến theo lời nói. Lát sau, gã bạo dạn đề nghị với Nụ bằng một thứ ngôn từ ngắn gọn, đầy tính đảng:

– Này, mai tôi đi rồi, mình… ủng hộ tôi một tý nhá?

– Ủng với lại chẳng… ủng. Lỡ mà có chửa thì khó sống với thầy u đấy.

– Tưởng gì chứ việc ấy thì chả phải…”no”. Có chửa đã có nhà nước no.

Nụ chống cự cho có lệ, rồi bảo:

– Vậy thì tùy ý đấy. Liệu làm sao cho gọn thì làm. Tôi thấy khó chịu lắm rồi.

Bảng không nói thêm một lời, gã cúi xuống làm công tác. Sau khi giải quyết xong cơn khẩn trương của bác, Bảng ôm cứng lấy thị Nụ và ngủ quên đi lúc nào gã không hay biết. Lúc gà gáy sáng trong chuồng, Bảng giật mình thức dậy. Gã tưởng nằm mơ khi thấy thị Nụ ngồi khóc rưng rức bên cạnh. Gã gắt nhẹ:

– Có việc gì mà phải khóc với lóc chứ?

Nụ úp mặt vào lòng đôi tay, khóc to hơn:

– Thế là tôi đã cho hết rồi đấy. Liệu mai này có mới, rồi bỏ người ta, hu… hu…

Bảng nói như thật:

– Sao lại nói nhời bạc như thế? Tôi thề độc là khi nào cách mạng thành công, tôi sẽ về và động viên chi bộ làm lễ tuyên bố cho.

Được lời thề, Nụ lau khô hai hàng nước mắt:

– Có nhớ nhời không đấy?

Bảng trả lời giống Hồ nhân:

– Đã là một nhà cách mạng nhớn, có khi nào tôi nuốt nhời.

Nụ xoay người về phía Bảng:

– Liệu mà gĩư lấy lời thề, nếu không thì chết với súng đạn đấy. Mà ngày mai anh đi xung công rồi phải không?

– Phải, sáng nay tôi đi rồi. Nhưng tự nhiên tôi thấy tiếc và không muốn đi nữa. Nếu biết trước thế này, có các… vàng tôi cũng chẳng đi.

– Ăn nói đến hay nhỉ. Có gì mà phải tiếc?

Nói xong câu ấy, chính Nụ cũng thấy quyến luyến gã tá điền khỏe mạnh này. Nhớ lại từ ngày gặp Bảng, rồi đem lòng thương yêu Bảng đến nay, Nụ thấy chẳng được mấy ngày vui. Đã thế, vì mối tình vụng trộm này, ông Bính đã mắng nhiếc và đuổi Bảng đi.

Thật tội cho Bảng phải đi vào khúc đường long đong. Nhưng nếu phải trách ông Bính là người khắc nghiệt đã đẩy Bảng vào đường cùng, khiến gã phải xung công theo Việt Minh, đi vác súng đạn để kiếm miếng cơm hẩm và manh áo rách thì Nụ không dám. Tuy nhiên, mỗi lần nghĩ đến chuyện phải chia tay với Bảng, Nụ thấy buồn. Buồn vì ông Bính không hiểu lòng Nụ. Tệ hơn thế, ông lại cấm cản, không cho Nụ có quan hệ tình cảm với nhà cách mạng Nguyễn văn Bảng để Nụ lỡ mối… lương duyên.

(Còn tiếp)

(Tiếp kỳ 2)

Rồi hôm nay, khi tiễn chân Bảng đi vào đường cách mạng với một nửa đời con gái của mình, Nụ càng buồn thấm thía hơn. Nụ quyết khóc thêm một lúc nữa cho vơi bớt hận sầu. Đến lúc nghe tiếng gà gáy dồn trong chuồng, Nụ thở dài, cúi xuống mở cái kim băng gài trên mép túi áo, lấy ra mấy đồng bạc gói trong miếng vải, dúi vào tay Bảng:

– Thôi, có tiếc anh cũng không ở lại được và tôi cũng không thể nằm ở đây cho đến sáng. Anh đi mạnh giỏi và nhớ lấy lời thề đấy. Phần tôi, tôi chẳng có gì nhiều để tiễn chân anh ngoài việc để dành được hơn chục bạc. Anh cầm lấy độ thân hoặc là mua bánh thuốc mà hút.

Bảng nghe thấy chữ tiền, mắt gã sáng lên. Tuy thế, gã vờ đẩy tay Nụ ra:

– Tôi chả lấy đâu, mình liệu gĩư lấy mà làm vốn. Tôi đi làm cách mạng, mọi chuyện nhớn nhỏ đã có tổ chức lo liệu. Quyết không cần tiền.

Nụ tưởng thật bảo gã:

– Chẳng gì thì cũng là một chút tình. Anh xa nhà, thế nào cũng cần tới nó. Còn tôi, ở nhà đã có thầy U! Thôi anh cầm lấy, tôi phải vào kẻo thầy U thức dậy rồi thì khổ.

Nói xong, Nụ đứng dậy phủi lớp rơm rạ dính trên người và trên đầu tóc. Phần Bảng, gã không muốn làm mất lòng Nụ. Gã nhét gói tiền vào túi áo trước khi vê bi thuốc cho vào cái nõ. Gã bật lửa, giọng tiếc rẻ:

– Mà hãy còn sớm chán.

– Sớm gì nữa, gà đã gáy sáng.

Nói xong, Nụ liếc Bảng lần nữa rồi quay gót bước đi.  Riêng Bảng, gã nhanh chân thu dọn hành trang, tìm theo lối cũ chuồn ra ngoài, nghĩ bụng:

– Phen này, lão phú hộ cứ gọi là ngậm phải qủa bồ hòn. Không muốn gả, cũng phải gả…

Đoạn tình sử ấy Bảng khó mà quên, nên sau khi kiểm tra xong tài sản của ông Bính, Bảng trở về văn phòng ủy ban. Lúc còn chân trong chân ngoài, Bảng đã nom thấy Thọ, bí thư chi bộ vừa ra ngoài điều nghiên về tới. Gã lột cái mũ cối ra khỏi đầu, hỏi Bảng:

– Công tác kiểm tra thế nào đồng chí, tiến hành tốt đẹp cả chứ?

– Báo cáo đồng chí tốt.

Thọ, tên viên bí thư chi bộ Xuân Thủy, bước hẳn vào văn phòng với nụ cười đầy mãn nguyện. Bảng bước theo và thả người rơi xuống trên cái ghế đối dịện với Thọ. Gã buông thõng:

– Thật là tức đến uất cả người lên.

Thọ ngạc nhiên nhìn Bảng:

– Có chuyện gì vậy đồng chí chủ nhiệm?

Bảng vào đề ngay:

– Đồng chí bí thư nghĩ thử xem, chẳng lẽ mình chịu thua lão ta mãi hay sao?

Thọ chưa hiểu Bảng muốn nói đến chuyện gì, gã hỏi lại:

– Có chuyện gì mà nom đồng chí vẻ mất bình tĩnh thế?

Bảng ngả người ra phía sau, nói nhát gừng:

– Còn việc gì vào đấy nữa? Tất cả đều tại cái lão Lục!

Thọ nhìn Bảng, gã à một tiếng trong cổ:

– À… tưởng gì chứ việc ấy chi bộ đã nắm rõ. Đồng chí cứ bình tĩnh, từ từ ta sẽ có cách giải quyết sau.

Bảng không đồng ý:

– Đồng chí bảo từ từ à. Từ từ thế nào được? Cứ cái đà này quần chúng nhân dân theo gương lão, họ rủ nhau ra khỏi hợp tác xã, hoặc không chịu gia nhập thì đồng chí bảo sao?

Thọ nhíu cặp chân mày:

– Việc khẩn trương đến thế cơ à? Đồng chí đã đến động viên ông ta chưa?

Bảng gằn từng tiếng một:

– Còn động với viên gì nữa! Đã mỏi mồm rồi, lão ta nhất định không nghe.

– Căng nhỉ?

Vừa nói, Thọ vừa nhoài người ra phía sau, đưa tay với lấy cái điếu cày để lên mặt bàn. Kế đến, gã thong thả cúi xuống, tay mở kim gài, tay cho vào túi lấy ra một cái hộp nhỏ bằng bạc. Trên nắp hộp, có khắc hình hoa vân khá tinh vi. Những tưởng đó là hộp bùa phép, Thọ lấy ra để trao cho Bảng đi thi hành diệu kế cho đảng. Nào ngờ, đó chỉ là một cái hộp đựng thuốc lào mà người dân đất bắc quen gọi là cái sáp. Tuy nó chỉ là một cái sáp dùng để đựng thuốc lào, nhưng lại được hưởng một quy chế bảo quản khá đặc biệt của Thọ. Bởi lẽ, cái sáp này trước đây không thuộc quyền Thọ, hơn thế, nó có một lý lịch không tầm thường. Phải nhờ đến cách mạng, nhờ chính sách đấu tố phú nông địa hào của Vẹm, bảo vật gia truyền này mới rời tay viên chánh tổng Lục Thủy để vào túi áo Thọ.

Sau khi lấy sáp thuốc ra, Thọ trịnh trọng xoay nhẹ bàn tay trên cái sáp. Gã mở và bỏ cái nắp vào túi trước khi gỡ nhẹ cái lá mít non đặt trên mặt lớp thuốc lào sang một bên. Gã nhìn Bảng trong lúc đôi ngón tay từ từ vê những sợi thuốc lại với nhau. Khi biết chắc đã có một bi thuốc vừa ý, Thọ cẩn thận xếp cái lá mít trở lại vị trí cũ, lấy nắp đạy lại, rồi bỏ cái sáp vào túi.

Tưởng cũng nên nhắc qua sự hiện diện của cái lá mít (thường là lá mít, đôi khi có thể là một loại lá khác) ở trong sáp thuốc. Dân ghiền thuốc lào có một sở thích giống nhau. Không một người nào thích hút thuốc khô và gẫy vụn. Hút thuốc khô, hơi thuốc nóng, rít không ngọt cổ. Trái lại, sợi thuốc mềm hơi thuốc không nóng, không xóc. Khi rít, hơi thông vào đến… rốn! Từ yêu cầu cơ bản đó, lá mít non có sẵn tính ẩm, mềm và có một chút mùi thơm nhè nhẹ, lại rất thịnh hành ở miền quê, nên các tay chơi thuốc lào thường ưu ái đặt nó nằm trên lớp thuốc với công tác bảo quản cho thuốc khỏi khô, khỏi dòn.

Thọ cũng thế, là một tay chơi có nhiều năm kinh nghiệm trong phương cách hút thuốc lào, gã không thể nào vi phạm vào hai nguyên lý cơ bản trên. Do đó, sau khi rướn người lên rít mạnh một hơi cho đầy lồng ngực, Thọ khoan khoái thổi hơi khói vào đốm lửa trên đầu cái đóm tre trước mặt, bảo Bảng:

– Đồng chí chủ nhiệm sốt sắng lo cho công việc của nhà nước như thế cũng là phải. Tuy nhiên, cái khó là lúc này chính sách cải cách ruộng đất đang được xét lại, theo đó, ta không thể tự ý làm bừa bãi như trước được nữa. Riêng việc gia nhập vào hợp tác xã, nhà nước đã có chỉ thị. Đây là sự giác ngộ tự nguyện của nhân dân, ta không có quyền áp bức họ. Ngưng lại một chút Thọ tiếp:

– Theo đó, cán bộ các cấp chỉ còn một phương án duy nhất, kiên trì giáo dục cho quần chúng nhân dân hiểu biết về phương cách cải tiến trong lao động và sản xuất. Dạy cho họ thấy được cái lợi trong làm ăn tập thể, khi ấy họ sẽ tự động xin gia nhập.

Bảng đứng bật người dậy, mồm gã oang oang:

– Nếu đúng như thế thì nhà nước ta phạm sai nhầm nhớn rồi đồng chí ạ. Cái bọn thợ cày này, cứ gọi là có giáo dục đến cả đời, chúng vẫn ỳ ra đấy, sẽ chẳng có một ma nào thèm tự nguyện mà gia với nhập. Hỏng! Nhất định hỏng!

Thọ trố mắt nhìn Bảng:

– Đồng chí bảo hỏng là hỏng cái gì?

– Thì… dựa theo nhời đồng chí vừa phát biểu đấy. Bọn quần chúng nhân dân nó nghe được rõ ràng lời giải thích như thế thì còn gì là nhà nước, còn gì là hợp tác xã. Đồng chí nghĩ có phải không?

Nói xong, Bảng đưa tay cầm lấy cái điếu cày đặt trên mặt bàn. Gã kê đầu cái điếu lên mồm, xì toẹt bã thuốc trong nõ xuống đất. Sau đó, vê bi thuốc cho vào nõ, nâng cái điếu để chệch sang một bên mép:

– Ấy là tôi cũng báo cáo cho đồng chí nắm rõ sự kiện để tùy nghi liệu định. Còn tôi, tôi thật đã hết cách. Vì nếu không có con dao trong tay thì phải có… phép lạ mới chỉ huy được đám quần chúng nhân dân này.

Thọ nhìn Bảng, gã thấy buồn lòng và thất vọng. Thất vọng vì Bảng đã dám nói lên một sự thật, rất thật. Không có con dao thì phải có phép lạ. Nhưng phép lạ kiếm đâu ra? Do đó, khi thi hành bất cứ một công tác nào của nhà nước, các đảng viên đều phải trông cậy vào sức mạnh của cái mã tấu. Nếu không có cái mã tấu công việc của nhà nước hỏng nom thấy. Riêng với công tác đảng, cái mã tấu còn đóng một vai trò quan trọng gấp trăm ngàn lần. Nó chính là người tổ chức, tạo ra sức mạnh và kỷ luật trong đảng. Không có nó, đảng không tồn tại. Và không có nó, dĩ nhiên, chẳng ai có thể chỉ huy được cái nhà kho của hợp tác xã.

Nói ra thì bảo là vạch áo cho người xem lưng, nhưng thực tế không ai chối cãi được. Cái nhà kho của hợp tác xã Xuân Thủy đã nắm giữ một vai trò rất quan trọng trong sinh hoạt của đảng bộ Xuân Thủy. Trớ trêu thay, tầm kích quan trọng của nó không phải là cái văn phòng, cũng không phải là hàng hóa vật tư của hợp tác xã, nhưng chính là cái căn buồng nhỏ nằm sâu trong khu chứa hàng.

Căn buồng nhỏ này được tổ chức và bảo quản chặt chẽ, kín đáo, rập theo khuôn mẫu trong sinh hoạt chỉ đạo của đảng bộ từ trung ương. Theo đó, tùy hoàn cảnh, tùy địa phương, căn phòng này không nhất thiết phải đòi hỏi được trang bị máy rét, hay đồ nghề giống như phủ của Hồ nhân, Nhưng nhất quán phải có một cái giường. Chính cái giường này là cơ sở, nắm vai trò chỉ đạo trong công tác của đảng và nhà nước. Không có nó, cán bộ nhớn nhỏ mất cơ sở gặp gỡ, ủng hộ nhau cho tình đồng chí thêm thắm thiết, bền chặt. Và không có nó, các bạn bè tốt của bác mất luôn địa bàn yêu cầu nhân dân ủng hộ cách mạng.

Chuyện các đồng chí dùng căn buồng này để ủng hộ nhau cho tròn nghĩa đảng, vẹn tình đồng chí thì chả ai muốn nói đến làm gì. Riêng về phía nhân dân, không muốn nhắc đến cũng không được. Bởi vì, theo sổ tay của đảng, các bà vợ bé, con côi của những tay phú hào, địa chủ đã lặng lẽ lìa đời, hoặc bị kết án vì cái mã tấu của nhà nước, hoặc chỉ là quần chúng nhân dân thường nhưng được mắt lãnh đạo, đều lần lượt được các bạn bè tâm phúc của bác mời đến. Trước là thẩm cung làm việc, sau đó tạo cơ hội, điều kiện cho họ ủng hộ… cách mạng.

Dĩ nhiên, khi nữ nhân dân được bạn bè của Hồ nhân yêu cầu, chiếu cố, chả ai dám phản đối. Hơn thế, sau khi được giải phóng, không một ai dám nói ra nửa lời. Họ không nói, không phải vì câm vì điếc, nhưng vì biết luật lệ của cây mã tấu. Biết căn buồng này không phải là một sáng tạo riêng rẽ của Bảng của Thọ. Nhưng biết nó được chỉ đạo theo khuôn mẫu sinh hoạt của đảng từ trung ương. Nên chẳng ai muốn rước thêm họa vào thân. Riêng Xuân Thủy, Bảng đã mọc rễ vào căn buồng này từ thời đấu tố. Như thế, Bảng còn, cái mã tấu còn. Cái mã tấu còn, căn buồng còn. Cái buồng kín còn thì chức vụ bí thư Xuân Thủy của Thọ vững như bàn thạch.

Thọ có lý luận ấy là vì Thọ biết rõ Thọ. Tuy gã dám nhìn đồng chí phục viên Bảng bằng đôi mắt đại bất kính, nhưng xét cho cùng, Thọ không hơn gì Bảng. Cả hai cùng xuất thân từ hàng ngũ chăn trâu, rồi xây dựng sự nghịêp cách mạng bằng nghề tá điền. Bước gian truân khác nhau, nhưng tựu trung cả hai chỉ biết vác cày, vác cuốc đi làm thuê, cày muớn cho các hộ giàu để kiếm miếng cơm manh áo qua ngày. Những tưởng đời Thọ, Bảng sẽ tàn theo cái cày, cái cuốc trên cánh đồng cạn. Ai ngờ có cách mạng, có lời kêu gọi của bác, Thọ đã giác ngộ. Kể từ khúc quanh đó, đời Thọ, Bảng đã bỗng dưng đổi khác. Đổi từ giai cấp chăn trâu tá điền thành giai cấp cán bộ rường cột của đảng, của nhà nước. Chúng leo lên và nắm gĩư những chức vụ béo bở như bí thư, chủ nhiệm giống như cảnh chó nhảy bàn độc. Công tác nào đề ra cũng hỏng, nhưng vẫn không bị hạ tầng công tác. Lý do, Thọ rồi Bảng đã thi hành xuất sắc công tác bảo quản và tìm người cho căn buồng nhỏ ở trong khu nhà kho của hợp tác xã.

Thế là qúa đủ. Thọ hãnh diện bảo thế. Trong đảng có nhiều loại công tác khác nhau, ta chỉ cần hoàn thành một công tác tốt là đủ nên danh phận ngàn đời. Tự nghĩ thế, nên sau khi làm thêm điếu thuốc và nửa bát nước chè đặc, Thọ hỏi trống:

– Hết cách thật à?

– Phải, tôi đã hết cách.

Thọ nhếch mép cười nhạt:

– Có phải thằng con út của lão gìa ấy đã đến tuổi đi thi hành nghĩa vụ quân sự rồi hay không?

Nghe Thọ hỏi, Bảng sáng đôi mắt, gã đập mạnh bàn tay xuống trên mặt bàn:

– Hay, qủa là đúng sách lược. Có vậy mà tôi nghĩ mãi không ra, đồng chí bí thư thật là người sáng suốt, đầy những sáng tạo.

Khen xong, Bảng hồ hởi cầm lấy cái nón cối. Cái nón cối mà nhân dân coi nó như một biểu tượng của sự tối ác độc, và ngu dốt thì Bảng lại coi nó như là một linh vật của đảng cần phải bảo quản. Gã trịnh trọng đội cái mũ cối lên đầu, ra khỏi văn phòng ủy ban. Qua trưa, Bảng trở về văn phòng của hợp tác xã là địa sở chính thức của Bảng cai quản. Đến nơi, Bảng trần ngực áo ra và lấy cái mũ cối ở trên đầu xuống. Gã cầm ngược cái mũ, quạt lấy quạt để cho khô bớt mồ hôi. Lát sau, Bảng đẩy cửa bước vào.

Vừa bước vào, Bảng đã chết đứng như Từ Hải. Gã nhìn thấy một ống quần khá rộng của người nữ đồng chí vô vàn kính yêu kéo cao lên qúa đầu gối, đang đặt vắt vẻo trên thành ghế dài kê xát tường. Tưởng rằng mình lạc vào chốn bồng lai, Bảng lặng thinh, di động đôi mắt theo ống quần rộng, rồi ngược đường lên phía phần đất có nhiều… sữa và mật ong. Nhìn cung cách của gã, mà tội nghiệp cho gã. Bởi vì, đây nào phải là chốn bồng lai. Hơn thế, cung cách này, nào có phải là một cung cách bất bình thường trong sinh hoạt thường nhật của người nữ đảng viên, đang nắm chức thư ký hợp tác đâu? Trái lại, đây là văn phòng của hợp tác xã nhưng cũng là nơi diễn xuất những công việc bình thường trong đời của Lê thị Lựu.

Lê thị Lựu, năm ấy đã vào lứa tuổi ba mươi. Một lứa tuổi mà các cụ ngày xưa thường bảo là toan về gìa. Như thế, thị chả còn gì để mất nên cũng không còn gì để phải gĩư gìn. Về phần nhan sắc và vóc dáng. Lê thị Lựu là một người nữ đồng chí không đẹp không xấu. Y thị không có cái vóc dáng vai u thịt bắp như phần đông những chị em chuyên về nghề lao động nặng. Lựu chỉ là người có da có thịt, nom mát mắt. Nói cách khác, Lựu có thân hình và đôi mắt rất mời chào. Nhìn thị, hiền nhân quân tử hay nhầm tưởng là Lựu đồng ý cho bác vào… hang, không ngờ lại đưa vào tù.

Về đường tình duyên, Lê Thị Lựu đã có chồng từ lúc đôi tám. Nhưng vì sớm giác ngộ chính sách ba khoan của nhà nước, y thị phải nhịn nên chưa có con. Kế đến, vào một sớm mùa thu ngày mùng hai, thị lại khuyên chồng ra đi theo bước chân sơn hà nguy biến. Kết qủa, chồng thị không trở về. Thế là đúng theo lời tiên đoán của ông thầy ngồi sờ… mu rùa ở lăng Ông về thị: Thị có duyên, nhưng không hợp số để sống chung với người chồng cán binh mang ẩn số chết bờ chết bụi của Việt cộng.

Thật tội cho duyên phận của thị. Khi chồng chết, thị không thể khóc, không thể để tang. Tệ hơn thế, thị không thể nấu chén cơm lạt cúng người qúa cố. Lý do, chồng thị chết ngày nào, chết ra sao và chết trong trường hợp nào thị không hay biết. Mãi đến gần một năm sau ngày chiến dịch Điện Biên chấm dứt, Lựu mới chính thức nhận được tin tức về người chồng của thị. Theo tờ giấy báo tin của nhà nước, thị biết, chồng thị đã lên bàn thờ đảng. Từ đó, thị chợt biết mình trở thành một góa nhân.

Sau khi nhận tờ giấy báo tử và mảnh bằng tuyên công của nhà nước, Lê thị tưởng rằng, đời thị từ đây sẽ bị vùi dập vào bóng tối, sẽ không còn ai nhắc đến thị, cũng không còn ai nhắc đến công lao và tên tuổi của nhà cách mạng hẩm hiu vắn số, nên thị buồn, thị khóc. Khóc xong, chẳng biết nghĩ gì, Lê thị đã đứng dậy rửa tay, tự ý chấm dứt với duyên nợ cũ, rồi tự coi mình là gái độc thân. Tuy thế, thị vẫn chưa có ý định sẽ điểm phấn tô son để ngạo với nhân gian một nụ cười. Nhưng bất ngờ, vụ cải cách ruộng đất nổ ra, Lựu đã vùng dậy, rồi gia nhập hợp tác xã phụ giúp giữ nhà kho. Không ngờ, con đường hoạn lộ của Lựu cũng nhờ đó mà thênh thang rộng mở. Lựu nắm lấy thời cơ. Lựu hăng hái tiến ngửa tiến nghiêng, tiến sâu, tiến không ngượng ngùng trong vòng tay đảng.

Tả như thế, có lẽ hơi… oan cho thị Lựu. Vì thật ra, đồng chí Lựu là người rất ý tứ. Trước khi Bảng vào, Lựu đã nằm gác một chân lên thành ghế. Đến lúc có khách, chả lẽ Lựu không đổi thế nằm để nhường cho khách một phần cái ghế hay sao? Tự nghĩ thế, đồng chí Lựu nhẹ nhàng xoay người sang tư thế nằm nghiêng. Một tay làm gối, một tay hờ hững đặt lên cái mông đẫy đà nhô cao lên trên mặt ghế. Đồng chí ấy bảo:

– Ở ngoài nóng lắm nhỉ, anh ngồi xuống đây cho nó bớt… vã mồ hôi.

Bên ngoài những tưởng trời đã nóng, không ngờ, trong nhà lại làm Bảng đổ tháo mồ hôi. Thật ra đây không phải là lần đầu tiên Bảng đặt đôi mắt đại bất kính lên trên người đồng chí Lựu. Nhưng ngay từ lúc khởi đầu cuộc đấu tố phú nông địa hào, nếu không có Thọ chen vào, Lựu đã nằm gọn trong tay Bảng lâu rồi. Nào ngờ con mồi lắm mưu nhiều kế, mỗi lúc một xa cách vòng tay chủ nhiệm, nên Bảng đành vọng chiếm bằng đôi mắt cho đỡ vã. Biết Bảng bị thiệt thòi, nên có lần Lựu bảo gã:

– Tội gì đồng chí phải rình nấp nhìn qua khe hở trong lúc tôi thay quần áo như thế? Nếu muốn, mời đồng chí cứ tự nhiên vào mà xem, tôi có mất gì đâu?

Lúc đầu Bảng tưởng là bị Lựu chửi xéo, gã liền lỉnh đi nơi khác. Mãi về sau này, Bảng mới biết là gã qúa ngu trước lời chào mời ấy. Phần Lựu, Lựu chả tin là thị sẽ hư hỏng đi vì nhời nói ấy. Lý do, khi xưa, Lựu chỉ là một cô gái bình thường như muôn vàn cô gái khác ở xóm thôn. Bỗng một hôm, bác rồi đảng thay phiên nhau đến cầm tay, dẫn Lựu đi vào đường cách mạng. Đường cách mạng với vinh quang, hạnh phúc ấm no ra sao Lựu chưa một lần nhìn thấy. Y thị chỉ thấy những nhà cách mạng tự nhiên lui tới, bình thản dục thị nên tự võ trang cho mình một ý thức và giác ngộ cách mạng cao. Để từ đó, Lựu sẽ tiến thân vào vinh quang với đảng qua ngả cái… giường.

Lúc đầu Lựu buồn nhiều hơn vui. Buồn vì chưa hiểu được ý tốt của đảng. Nhưng sau những lần vào ra với tình đồng chí, đôi chân nhỏ bé co duỗi trong căn buồng kín kia như có sức mạnh vạn năng dẫn Lựu đi vào bước vinh quang vĩ đại với bác. Từ đó, Lựu không từ nan và con đường công danh, bước hoạn lộ của y thị cũng mở ra một cách khác thường. Lựu mừng, Lựu quyết đem cả đời mình ra để đáp lại ân tình của đảng. Hơn thế,  Lựu còn đề xướng ra một chân lý cho đời cán bộ của người nữ đảng viên Việt cộng. Chân lý này rất cơ bản, rất đơn giản, chả người cán bộ nữ nào mà không thực hiện được:

– Đằng nào thì cũng vào… mình cả, chả đi đâu mà thiệt. Lựu chẳng còn gì để mất, nên cũng chẳng còn gì để phải giữ gìn!

Suy nghĩ thế là Lựu đã biết hoà mình vào cái xã hội chủ nghĩa Việt cộng. Bởi lẽ, khi đã xa chân vào đảng, dù tự nguyện hay không, công tác vẫn bó buộc phải thi thành. Hơn thế, cái xã hội này vốn nghèo khổ hơn nhời bác nói. Lựu không thể trông cậy vào cái búa cái liềm, cái khẩu hiệu lẫy lừng mà sống được. Lựu rất cần đến những hộp sữa cân đường, hay lít gạo chui ra từ cửa hàng của nhà nước qua bàn tay Thọ, Bảng. Lựu cần có tiền mua sắm cho mình cái quần, cái áo, ngoài tiêu chuẩn. Dẫu cho cái ngoài tiêu chuẩn ấy làm tang thương thêm cái đời cán bộ của Lựu. Lựu còn nhớ như in lời giáo huần của bí thư Tho hôm nàọ:

– Đồng chí có tư tưởng như thế là sai nhầm, không phù hợp với ý thức cách mạng. Đồng chí chả nên đem việc làm ủng hộ vì tình đồng chí ra so sánh với việc làm của những người bán trôn nuôi miệng. Nhìn chung, hai việc làm ấy tuy cùng phục vụ một công tác, nhưng nó hoàn toàn mang ý nghĩa khác nhau. Các đồng chí vì tình đồng chí và vì nghĩa đảng mà hành nghề, trong khi những người nữ kia chỉ làm vì đồng tiền. Hơn thế, công tác của các đồng chí là vì tương lai, vì lợi ích của toàn đảng, còn những người nữ kia chỉ biết nuôi một cái miệng. Đó chính là sự khác biệt về nội dung của hai việc làm, ta phải có giác ngộ cách mạng cao mới không bị nhầm lẫn khi thi hành công tác.

Khi nghe Thọ nói, Lựu tính bịt kín đôi tai, không muốn cho những lời kiểm thảo của Thọ chui vào. Đến lúc nhìn thấy thực tế cuộc đời, nghĩ đến cảnh chim lồng cá chậu, nghĩ đến bạo lực cách mạng và nghĩ đến cảnh phải trèo lên nấc thang trong đảng, Lựu đành nhắm mắt đưa chân vào giường.

Đến hôm nay Lựu đã thạo tay nghề, lại thấy Bảng đứng như tượng gỗ, y thị vờ vuốt ve cái gấu quần nằm trên đầu gối, hỏi Bảng:

– Ở ngoài nắng lắm hả đồng chí?

– Phải, nắng… nắng cực lắm!

Lựu buông thõng một cánh tay xuống, trách móc:

– Ăn nói đến hay.

– Nhời của quan trạng đấy.

Lựu liếc xéo Bảng:

– Có mà trạng lộn… đèo!

– Lộn thế nào được mà lộn?

Nói xong, Bảng đắc ý cười thành tiếng và ngồi ngay xuống trên phần ghế trống, ngang phía chân Lựu. Lựu không một phản ứng:

– Tự nhiên nhỉ. Cứ làm như là tình nhân không bằng?

Bảng cười híp mắt, Lựu tiếp:

– Anh muốn chết thật đấy à? Người ngoài mà họ nom thấy thế này thì khó sống với chị ấy.

Chẳng biết toan tính gì, Bảng trả lời:

– Cô ấy muốn ra riêng lâu rồi.

Lựu nhổm người dậy:

– Có thật thế à? Có phải tại… em không?

– Không, tại vì… tại vì…

Lựu vờ bảo Bảng:

– Anh nói ra làm gì, em không muốn nghe đâu.

Nói thế là Lựu đã biết rất rõ về Bảng. Bởi vì, có lần  Bảng đã nói xa nói gần với Lựu:

– Nếu như gặp được người được nết hơn, tôi cũng chả cầu nữa.

– Như em có chịu không?

– Được như đồng chí thì còn nói làm gì nữa?

Lựu ngúyt Bảng:

– Giời ạ, có ai rỗi hơi mà đi tin nhời mấy ông. Chả có ông nào gặp gái mà không kiếm cớ nói ra nói vào vài câu.

Tuy nói thế, nhưng sự thật là đã có lần Lựu nghĩ đến trường hợp Bảng và toan tính công việc cho riêng mình. Nếu Bảng bỏ Nụ, Lựu sẽ lấy Bảng ngay. Lựu lấy Bảng không phải vì yêu vì thích Bảng, nhưng là để tránh lo. Cứ mỗi lần vào buồng với lãnh đạo là Lựu lo tháo nguyên cả một tháng giời. Lo thế thì còn gì là khoái cảm.  Nên nếu có được Bảng rồi, lãnh đạo có thêm chân thêm tay như các nữ đồng chí khác thì hay biết mấy. Nhưng lúc sau này, Lựu biết câu chuyện của Bảng rất khó giải quyết. Lựu đành bỏ cuộc và không có ý xúi Bảng bỏ Nụ nữa. Tuy nhiên, Lựu lại không bỏ qua bất cứ một cơ hội nào có thể lợi dụng được Bảng. Thị bảo:

– Sao lâu nay không thấy đồng chí nhắc đến chuyện sang nhà em uống bát nước chè. Chắc đồng chí đã quên cả cái ngõ rồi nhỉ?

-Ai bảo thế?

Lựu thở dài:

-Chẳng ai bảo, em tự nghĩ vậy.

Nghe Lựu nói, Bảng quay lại. Gã bắt gặp một ánh mắt kém vui và một bàn tay ngập ngừng di động trên lưng bên ngoài lớp áo vải nhớp mồ hôi của Bảng. Bỗng nhiên, Bảng đâm ra hoang mang, mất tự chủ. Gã mở to đôi mắt nhìn thị Lựu như nhìn một hiền… mẫu hiếm hoi trên đời. Lát sau, chẳng hiểu toan tính gì, Bảng đưa tay vào trong cái xà cạp, xoa nắn nhè nhẹ trên gói qùa. Gói qùa có công tác trọng yếu trong việc làm trung gian hàn  xì lại khối tình đồng chí đã đến hồi tan vỡ giữa Bảng và Thọ. Nó tan vỡ vì Bảng đã nông nổi, nhỡ mồm súc phạm đến bí thư chi bộ. Rồi Thọ, vì tự ái đã chỉ tay lên giời thề độc:

– Từ đây cái tình đồng chí giữa gã và Bảng phải chấm hết.

Lúc đầu, Bảng nắm chặt cán dao trong tay. Gã cương quyết không chịu nhường bước, không chịu hàn gắn lại cái tình đồng chí sắp đến hồi thí mạng kia. Hơn thế, Bảng còn thảo sẵn kế hoạch để liều thân vì đảng vì Lựu. Theo kế hoạch này, nếu phải chết. Bảng cho chết cả hai cho gọn. Đến sau khi hạ hỏa, Bảng tự biết như thế là sai. Sai vì mảnh đất Xuân Thủy này, cần có Bảng và Thọ, giống như đất Triệu không thể thiếu Liêm Pha và Lạn Tương Như. Lạn Tương Như và Liêm Pha là ai, Bảng không biết, chỉ nghe người ta nói như thế, nên Bảng quyết định sắm qùa lễ, theo gương người xưa đến thỉnh tội với Thọ cho đất bằng thôi nổi sóng.

Không may cho Thọ, gần đến gìơ đi thỉnh tội, Bảng đổi ý. Gã đổi ý, không phải vì không nhớ đến tình đồng chí, cũng không phải vì không muốn làm theo gương người xưa, nhưng vì đôi mắt và phần da thịt hở hang của Lựu đã chiếm được ưu thế. Bảng nhũn người, đặt một tay lên hông Lựu:

– Này… Lựu! Tôi…

Lựu mở to đôi mắt lá răm, nhoẻn một nụ cười trên đôi môi ướt:

– Gì thế… anh, có qùa đặc biệt cho em đấy à?

Nghe hỏi, Bảng mạnh dạn hơn:

– Phải, tôi có qùa cho… cho… mình đây.

Lựu nhổm người dậy, hai thân người như kề xát vào nhau:

– Gớm! Sao mà qúy hóa qúa. Xem nào, anh nuôi có qùa gì cho em gái đấy?

Bảng mạnh dạn đặt gói qùa lên đùi, rồi lên tay Lựu:

– Chẳng có gì nhiều, trong này có gói trà sâm đặc sản, và một cái máy bật lửa Liên Sô. Tôi muốn biếu Lựu lâu rồi nhưng chưa có dịp…

Lựu nở nụ cười tươi như hoa buổi sớm:

– Anh đến là khách sáo, lại còn văn hoa bóng bẩy. Ngày nào anh không gặp em mà làm như khách văn nhân, phải ngồi chờ người tình bên chân đống rơm không bằng.

Sợ Bảng tự ái nhớ lại chuyện cũ, Lựu tiếp:

– Trường hợp không gặp em ở đây, buổi tối anh mang lại nhà cho em. Ai cấm?

– Vẫn biết thế, nhưng…

Lựu thừa biết Bảng muốn gì, tuy nhiên, y thị phải kiểm tra gía trị mặt hàng trước khi làm công tác cho khỏi thiệt. Thị bảo:

– Nào em có chê của bao giờ…

Nói chưa dứt câu, Lựu giật mình kinh ngạc vì cái gía trị của gói qùa lần này cao hơn là Lựu đánh gía. Lựu thật không ngờ, chủ nhiệm Bảng nom thế mà lại là kẻ biết của biết người. Sau khi cầm gọn cái máy bật lửa Liên Sô trong tay, Lựu tính đứng dậy bước vào trong, nhưng lại thôi. Lựu thôi vì cho rằng, món qùa tuy rất ngang giá trong công tác ủng hộ đảng, tuy nhiên, chả nên vội. Tự nghĩ thế, Lựu nguýt Bảng, quay đầu nhìn vào hướng căn buồng cuối nhà kho, tiếp:

– Nhưng chắc anh chủ nhiệm chê nhà em không trà, không rượu, nên không muốn đến chứ gì?

Bảng đi động bàn tay lên phía trên đầu gối Lựu:

– Cứ nói thế rồi khi người ta đến lại không chịu tiếp.  Tôi nào có cần rượu, cần trà…

Lựu cười nụ, y thị nghiêng hẳn cái ngực vĩ đại vào xát mặt Bảng trong lúc làm động tác để đứng dậy:

– Chẳng lẽ đồng chí chỉ cần… em?

 

**********************************************************************

Chương hai  ***************************************************

 

Sau khi khóa cánh cửa ra vào bằng một ống khóa to bản, Bảng kẹp cái mũ cối vào bên hông, bước vội ra đường. Trên đường về, Bảng gặp khá nhiều người qua lại. Họ là những người cùng trong lối xóm, nhưng không có mấy người buồn lên tiếng chào hỏi Bảng. Sự kiện im lặng, gặp nhau không thèm lên tiếng chào hỏi này phải được coi là một trong những điều bất thường, trái ngược với nếp sống đơn thuần, cởi mở ở thôn quê. Lúc đầu Bảng rất bực mình, nhưng riết rồi nó trở thành một thói quen, Bảng không bận tâm nữa.

Về gần đến đầu ngõ, Bảng nhìn thấy hai người đứng to nhỏ với nhau bên đầu hè, gần chỗ đặt cái chum đựng nước uống. Đây chính là hình ảnh của hai người đàn bà đã ghi đậm nét trong đời Bảng. Một người gã thương nhất, và một người gã thù nhất. Người gã thương nhất là Nụ, vợ gã. Còn người đàn bà bị ghét bỏ kia là bà phó Ba.

Bà phó Ba, tên gọi hình dung vị trí của bà. Gọi riết nó trở thành cái tên chính thức, còn cái tên thật của bà là gì, ít người nhớ. Bà phó Ba là cô ruột của Nụ. Khi còn trẻ bà là một người có nhan sắc, xinh đẹp nổi tiếng ở Xuân Thủy. Vì phận nhà nghèo và vì mấy mẫu ruộng, bà phải cam chịu cảnh gả ép, làm lẽ mọn hàng thứ ba cho một tay phú hào ở phủ Xuân Trường.

Khi nhận lời làm vợ lẽ hàng thứ ba cho ông phú Lộc, bà phó Ba lại nổi đình nổi đám hơn xưa. Bà nổi hẳn lên vì nhờ có hai loại vũ khí sắc bén trong tay. Lợi thế thứ nhất, bà là người vợ trẻ và có nhan sắc, nên rất được lòng ông phú Lộc yêu thương nể vì. Vũ khí thứ hai, ông phú Lộc đã trao quyền cai quản mấy chục mẫu ruộng cấy lúa, và hơn một chục dàn trâu cày ở Xuân Thủy vào tay bà. Từ đó, bà thay mặt ông trực tiếp giao dịch với nông dân, tá điền trong vùng. Cũng từ đó, hầu hết các hộ ở Xuân Thủy, đặc biệt là thôn Đông, đều có hàm ân riêng với bà. Khi thì mượn lúa vay gạo. Lúc thuê trâu, mướn ruộng ăn chia làm rẽ. Dĩ nhiên, chả khi nào bà phó Ba cho thuê, cho mướn mà quên tính lời. Tuy thế, người nghèo trong vùng vẫn thích giao dịch với bà hơn là phải nói chuyện với người quản gia cũ của ông phú Lộc.

Thật không may cho bà phó, vào giữa lúc tên  bà như ánh sao nổi lên ở Xuân Thủy thì cũng chính là lúc xuất hiện một tay chơi không thua bà, tên là Hồ chí Phèo, được Đặng văn Khu chỉ điểm, đưa về Xuân Trường kiếm ăn. Việc trước tiên, gã cho đàn em đến… mượn đỡ của ông phú Lộc hai con bò và dăm tạ gạo, gọi là góp công góp sức cho kháng chiến. Mấy hôm sau, chiến thắng chưa có. Vẹm lại cho người đem sổ đến tính thuế trên tài sản của ông phú Lộc. Bà phó Ba bực mình không thèm trả lời. Vẹm cũng không vừa, nửa đêm chúng hô dân công đến cướp hết kho thóc của ông phú Lộc. Đã thế, chúng còn mượn luôn mười chiếc xe và dàn trâu, bò của ông kéo đi cho tiện. Đến sáng, ông phú đi trình quan thì đã muộn.

Sau chuyến ăn hàng của Vẹm, ông phú Lộc đã buồn càng buồn thêm. Kịp đến lúc chúng hò hét trở về sau ngày Điện Biên. Gà vịt, heo bò của ông lại được dịp lìa đời vì Vẹm say men chiến thắng. Chúng tự cho mình có đủ quyền hành để lôi heo, bò của ông phú Lộc ra mổ bụng đánh chén cho bõ những ngày lao khổ. Trước cảnh chướng tai gai mắt ấy, ông phú Lộc đã quyết một phen lành làm gáo vỡ làm môi. Vào một buổi sáng đẹp trời, sau khi dặn dò vợ con đôi câu. Ông trịnh trọng trong chiếc áo chùng thâm quần the trắng, đầu đội khăn xếp, chân mang giày Gia Định bóng, tay cắp ô, mồm gọi võng cáng ông ra khỏi nhà.

Nhìn cử bộ của ông, gia nhân bảo nhau tránh sang một bên vì sợ cảnh cháy thành vạ lây. Nhưng vừa ra đến đầu ngõ, ông phú Lộc nom thấy đôi dép râu của Hồ  chí Phèo treo lủng lẳng trên đầu cái cọc cắm trước cổng. Tự nhiên, hàm râu lưa thưa của ông chổng ngược lên giời, riêng làn da mặt thì tái nhợt như tàu lá chuối. Ông vờ giận dữ, cắm mạnh đầu cái ô đen xuống đất. Ông nhìn quanh, bụng đánh lô tô, ông sửa lại bộ vó, đưa tay vuốt cho mấy sợi râu cụp xuống. Lát sau, ông nuốt toàn bộ những giận hờn vào dạ dày, bước quay vào. Ông định bụng, chờ cho đến khi ổn định xong chính quyền mới, ông sẽ hỏi tội những quân nghịch tặc này cũng chưa muộn.

Chẳng may cho ông, món nợ cũ chưa thanh toán xong, phong trào di cư vào nam lại nổi lên như sóng nước vỡ bờ. Ông phú Lộc hoang mang cùng các vợ con bàn tính và sửa soạn hành lý để ra đi. Đến phút cuối, giữa lúc chân trong chân ngoài ngưỡng cửa, ông quyết định ở lại. Sau này, bà phó Ba mới tiết lộ cái lý do là vì ông phú Lộc tiếc của. Hôm ấy, ông đứng dạng chân giữa nhà, bảo vợ con rằng:

– Thứ nhất, đi là phải, nhưng chính quyền nào thì cũng phải nương những người lắm bạc nhiều tiền tại địa phương. Ông giàu có, tiền của ăn mấy đời không hết, ai dám đụng tới ông?

– Thứ hai, phần lớn lớp cán bộ, những quan chức mới ở trong vùng, đều là những tá điền là người ăn kẻ ở của ông trước kia. Ông coi chúng như con cháu trong nhà. Gọi chúng dạ, bảo chúng vâng. Chẳng đứa nào dám cãi ông nửa lời. Được thời như thế, chả việc gì ông phải bỏ sản nghiệp này mà đi.

Kết qủa, ông phú Lộc đã nhầm. Nhầm vì Việt Minh  không toan tính như cái tính toán của ông. Việc ông định bụng sẽ trị tội chúng, ông không thực hiện được. Đã thế, chúng không tỏ dấu là sẽ kiêng nể những người giàu có, lắm thế lực trong làng trong xã như ông nghĩ. Trái lại, chính những người này là mục tiêu, gần thì của lớp cán bộ địa phương chia nhau đến rỉa rói, xa thì nằm trong kế sách lột sạch của nhà nước. Đến khi biết mình nhầm lớn, ông phú Lộc thở dài rồi lại tính chuyện trốn đi. Không may cho ông, con đường vào nam đã bị Hồ nhân kéo hàng rào, gài mìn từ lâu rồi, nên ông phải ở lại với gã. Ít lâu sau, ông phú buồn vì cảnh đời trớ trêu, buồn vì bị bọn ViêtệMinh chẹn cổ, ông thổ huyết, ngã lăn ra mà chết. Ông chết uất vì bác đảng đến. Và ông chết nghẹn, vì sợ bà vợ trẻ đẹp của ông sẽ rơi vào tay Hồ Chí Phèo.

Nói về cái chết của ông phú Lộc như thế e là hơi… oan cho bác và đảng. Vì thật ra, khi ông chết, nhà nước chưa mở chính sách đấu tố phú nông địa hào, chưa hỏi đến tội bóc lột nhân dân của ông và bác cũng chưa… hiếp bà phó. Khi ấy, cán bộ nhà nước mới đến mượn tạm của ông một ít tài sản. Ông tiếc của, ông giận bác. Ôâng chết là lỗi tại ông, không phải do lỗi của nhà nước. Ông và vợ con ông chả nên trách bác. Riêng trường hợp của bà phó Ba, vợ ông, không chết vì tay Hồ Chí Phèo vào thời đấu tố phải được coi là một chuyện may mắn.

Ngay sau khi ông phú Lộc nằm xuống, bà cả, bà hai và con cháu của hai bà đã vùng lên, đòi lại quyền làm chủ. Từ trước, hai bà chẳng ưa gì nhau, nhưng quyết một lần hợp tác, đến tịch thu toàn bộ tài sản của bà phó Ba. Tất cả những bằng khoán về đất đai, giấy vay nợ của tá điền, đến trâu bò, do ông phú Lộc di miệng lại cho bà đều được thu hồi, trả lại cho hai bà lớn. Phần người ăn, kẻ ở trong nhà cũng trực thuộc quyền cai quản của hai bà. Riêng trường hợp của bà phó, vì nể tình người đã qúa vãng, và nhớ công của bà Ba hầu hạ ông phú bấy lâu nay. Hai bà đã không đuổi bà phó ba đi, trái lại, phát chẩn cho bà phó Ba hơn mẫu ruộng, một cặp trâu cày và một căn nhà ngói năm gian làm cơ nghiệp riêng. Về phần nhang khói cho ông, bà phó Ba không có con với ông phú. Bà cả, bà hai miễn luôn cho bà phó Ba việc cúng lễ cho ông hàng năm. Từ đó, coi như bà phó Ba tạm ly biệt với giang sơn nhà chồng.

Tuy tài sản bị tịch thu, bà phó Ba vẫn lấy làm mãn nguyện. Lý do, ngoài của nổi hai bà lớn tặng cho bà làm cơ nghiệp riêng. Lúc sinh tiền, ông phú Lộc như đã nhìn thấy trước cảnh lẻ loi đơn chiếc của bà khi ông khuất núi. Ông đã âm thầm tặng cho bà một số của chìm như vòng vàng nhẫn bạc. Nhờ của chìm của nổi này, bà phó Ba vẫn đủ ăn đủ tiêu, vẫn có gia nhân đi về hầu hạ bên cạnh bà cho đến hết đời. Kế đến, nhờ bà, người anh của bà là ông Bính, bố của Nụ, đã có đến năm mẫu ruộng và ba cặp trâu cày. Và đặc biệt, khi chính sách đấu tố ra đời bà phó ba mới thấy được cái… phúc nhớn của bà trong vụ bà cả, bà hai đến tịch thu tài sản của bà.

Bảng và ba phó Ba biết nhau từ lâu, nhưng họ không thể xích lại gần nhau được. Cả hai, cứ nhìn thấy nhau là như nom thấy kẻ thù truyền kiếp. Việc hai người tự ý coi nhau như kẻ thù, bắt nguồn từ một nguyên nhân khá xa xưa.

Theo cái nhìn của Việt cộng, Bảng được sinh ra và lớn lên từ giai cấp lãnh đạo đảng và nhà nước. Đó là giai cấp bần cố nông. Bố mẹ Bảng không có tài sản riêng, họ sinh sống bằng nghề cày thuê cuốc mướn độ nhật qua ngày. Nên khi Bảng mới lên 7 lên 8, thay vì đi giày tây sách cặp da đi học, Bảng đã được bố mẹ cho đi ở đợ, làm nghề chăn trâu cho một gia đình khá giả trong làng.

Khi đi ở đợ, Bảng những tưởng sẽ sung sướng hạnh phúc ngang bằng những đứa trẻ sống trong trường nội trú. Không ngờ, phải vất vả cả ngày mới có chén cơm đỡ lòng. Tệ hơn thế, mỗi khi ham rong chơi bỏ bê việc chăn trâu, vớt bèo, cắt cỏ, Bảng còn được thưởng thức tính hà khắc, hay đánh đập gia nhân của gia chủ dành cho Bảng. Đến khi lên 12, 13 tuổi, Bảng đã phải làm quen với cái cày, con trâu. Lúc được 16 tuổi, Bảng đã anh dũng gia nhập hàng ngũ tá điền trong nhà bà phó Ba, là một trong những người thuộc giai cấp bóc lột.

Tá điền ở ngoài bắc thường có hai loại. Loại thứ nhất, có nhà riêng và chỉ đến thuê ruộng, thuê trâu cày của nhà giàu để làm ăn chia với chủ. Việc ăn chia này không nhất định, tùy theo vùng và tùy theo sự hà khắc hay rộng rãi của những phú nông địa hào. Loại thứ hai, không có đất cắm dùi, không có chỗ ở, phải đến xin ở nhờ trong khu nhà sau của những nhà phú hộ, nên còn được gọi bằng một cái tên khác là canh điền. Người canh điền làm một lúc hai công tác. Canh tác đất đai và canh giữ tài sản, nhà cửa, ruộng đất cho các phú hộ. Tuy thế, khi một tá điền được cho vào sinh sống trong khu nhà của phú hộ, phải được kể là một ân huệ riêng từ ông hoặc bà phú hộ ban cho. Họ được coi như là những gia nhân thân tín trong nhà, đôi khi làm ít nhưng vẫn no bụng. Bảng thuộc diện thứ hai, diện hưởng hàm ân riêng.

Phần bà phó Ba, kể từ ngày bước vào khung cửa đài các, bà sinh ra nhiều tật lạ. Trước tiên, bà tập được cái thói thích nghỉ trưa. Khi ngủ dậy, bà thường đứng trước cửa buồng vươn tay vươn chân vài lần cho dãn gân cốt. Sau đó, bà bước đến bên thau nước do gia nhân dọn sẵn, với lấy cái khăn ướt lau mặt. Khi rửa mặt, bà không quên rút cái nút cột giải yếm ở phía sau lưng ra và lau qua hàng dừa cho nó xanh tươi. Không ngờ, việc lau chùi… bẹ sữa của bà đã làm khổ cái thằng Bảng.

Nếu bảo Bảng chỉ tình cờ nom thấy là sai. Bởi lẽ, đây không phải là lần đầu tiên Bảng nom trộm hai qủa vú sữa của bà phó. Trái lại, Bảng đã có đôi mắt tò mò này từ lâu. Tuy nhiên, là người cẩn thận, bà phó Ba không vội lên tiếng trách đứa trẻ con. Đến hôm nay, chỉ không may cho Bảng, giữa lúc Bảng há mồm ra chiêm ngưỡng khoảng da thịt hở hang của bà phó bằng một đôi mắt người nhớn, bà phó ngẩng đầu lên và bắt gặp ánh mắt tội lỗi của nó. Nó làm bà phó thẹn thùng. Bà khép vội lại mảnh tà áo và không thể không lên tiếng hỏi:

– Đứa nào đấy, có phải thằng Bảng không?

Đang xem phim, Bảng giật thót người lên, nó trả lời theo một phản ứng tự nhiên:

– Dạ phải, bà phó cho gọi con?

Bà phó vẫy tay bảo:

– Phải, vào đây tôi nhờ tý việc.

Chuyện Bảng được bà phó gọi vào và nhờ tý việc rất thường xảy ra. Điệp khúc này, Bảng đã nghe hàng trăm lần. Nghe từ khi Bảng mới đến nương nhờ bà phó cách đây mấy năm về trước. Bảng còn thuộc lòng câu kế:

– Đi rửa tay rồi vào đấm lưng, bóp… đùi cho bà!

Lúc đầu, Bảng bỡ ngỡ không hứng khởi. Sau một thời gian, Bảng khám phá ra là Bảng rất thích và hãnh diện được làm công tác đặc biệt này. Lý do, nó vừa nhẹ nhàng lại dễ kiếm ăn. Tuy nhiên, câu gọi quen thuộc này, lâu nay bà phó đã bỏ quên. Bà bỏ quên vì hai nguyên do:

Thứ nhất, Bảng đã lớn, nó không còn thích hợp cho việc đấm lưng bóp chân xuông. Nói ra thì bảo là lẳng lơ hoa nguyệt. Nhưng sự thật, mấy lần cuối nó đấm bóp cho bà phó, nó mạnh tay quá khiến bà phó thấy người nao nao, rạo rực khó chịu lắm, nên bà có ý thôi không muốn gọi nó nữa.

Thứ hai, Bảng phải tham gia những công việc có tính cách người lớn như đi cày, đi cấy. Nó không còn rảnh rỗi như khi xưa.

Đến trưa nay, gặp ngày không phải đi lao động, lại đang lúc trời nóng nực, Bảng chỉ mặc trên người một cái quần đùi rộng ống, ra đứng khuất dưới gốc dừa phía sân sau hóng mát. Không ngờ sung rụng, Bảng mừng rỡ, miệng há hốc ra và đôi mắt thì nhìn dán chặt vào hai bẹ sữa của bà phó. Ngày nắng thành ngày hạn. Khi biết việc bại lộ, Bảng toan theo gương Hồ nhân tìm đường tẩu vi thượng sách thì bà phó ra tay vẫy gọi.

Âm thanh của tiếng gọi khá ngọt ngào êm đềm,  tiếng tôi cũng nhỏ hẳn đi. Nhưng Bảng giống như một tội nhân, gã nghe lời gọi êm ái kia mà ngỡ như nghe một án lệnh. Bảng toát mồ hôi, đôi tay bóp chặt vào nhau đếm bước trở lại bậc thềm căn nhà trên. Khi đến trước khung cửa, Bảng len lén nhìn lên khuôn mặt tôn kính của bà phó như để thẩm định xem chuyện gì sẽ xảy ra. Liệu có phải là một trận nổi cơn lôi đình vì sự bất cẩn của Bảng hay không? Lạ! Bảng không tìm thấy một nét giận giữ nào trên khuôn mặt ngoài ba mươi  của bà phó. Đã thế, Bảng thấy bà phó còn ẻo lả bước đến bên cái ghế tràng kỷ. Một tay vịn trên thành ghế, một tay cầm cái quạt phe phẩy trước mặt.  Gặp gió tà áo mỏng để buông xuôi không cài lại có dịp đong đưa bên ngoài cái yếm ngắn. Chờ Bảng bước qua khung cửa, bà phó mỉm cười ngồi xuống ghế và làm Bảng giật mình vì một câu nói không có trong sách vở của bà:

– Đóng cái cánh cửa lại!

Trống ngực Bảng đập mạnh hơn, gã lính qúynh làm theo lệnh rồi khép nép đi lại phía sau cái ghế nơi bà phó đang ngồi:

– Bẩm bà phó cho gọi con, bà có gì sai bảo chăng?

Bà phó Ba liếc nhìn Bảng, mỉm cười:

– Nào có sai bảo gì. Gọi vào mà ăn củ… khoai!

Bảng ngơ ngẩn, gã ngơ ngẩn vì hôm nay bà phó nói toàn câu lạ. Đã thế, âm thanh của lời nói êm ái như rót mật vào lòng. Ngày thường, bà phó vốn dĩ không phải là người hay càu nhàu, la hét đám gia nhân như phần đông những gia chủ khác, nhưng chắc chắn chả mấy khi Bảng nghe được lời nói ngọt như thế. Từ lo âu đến thắc mắc, Bảng nhìn lên khuôn mặt của bà phó để tìm xem lời nói ấy có ý nghĩa gì. Bảng chịu thua, không hiểu được gì thêm ngoài khuôn mặt thật xinh, hiện rõ nét tươi tắn với đôi môi hồng chúm chím gợi tình.

Liếc sang bên cạnh, trên mặt bàn là những hình ảnh khá quen thuộc trong tầm mắt Bảng. Trong một cái khay có bình trà và bộ tách qúy, bộ trà dùng để chưng bày nhiều hơn là dùng. Kế bên bình trà là hai cái dĩa kiểu. Một cái đặt nải chuối tiến, một để mấy củ khoai còn bốc khói. Đây là những thức ăn nhẹ dành cho bà phó sau giấc ngủ trưa, do gia nhân dọn sẵn cho bà theo lệnh của ông phú Lộc.

Ông phú Lộc không có mặt thường xuyên tại nhà bà phó. Theo thói quen, mỗi tháng ông xuống một lần và thường ở lại với bà phó dăm ba ngày, tùy theo nhu cầu của công việc và bà phó đòi hỏi. Đôi khi vì bận việc với những nơi khác, vài ba tháng ông phú Lộc mới xuống thăm bà phó một lần. Gặp trường hợp như thế, thời gian ông phú ở lại với bà sẽ lâu hơn. Ông phú Lộc có một tật xấu khó chừa. Ông thích ăn qùa vặt sau giấc ngủ trưa. Từ ngày ông lấy bà phó, ông đã tập luôn cho bà cái tánh hư ấy. Do đó, những thức ăn nhẹ dành cho bà phó sau giấc ngủ trưa như kẹo bánh, trái cây, hoa qủa tuỳ theo mùa chẳng bao gìơ vắng mặt.

Nhìn bề ngoài, ai cũng cho bà phó là người sung sướng hạnh phúc bậc nhất. Ruộng vườn, bà là chủ nhân của mấy chục mẫu ruộng cấy lúa. Gia nhân, người ăn kẻ ở lớn nhỏ lúc nào cũng túc trực bên bà để gọi dạ bảo vâng. Phần chưng diện, ăn uống, bà muốn gì được nấy. Tuy nhiên, khi nhìn ánh mắt và nụ cười của bà sẽ thấy bà phó như còn đang thiếu thốn một điều gì. Không biết có phải vì bà phó mới hơ hớ ngoài ba mươi cái xuân xanh, trong khi ông phú Lộc đã lục tuần lại ít được gặp nhau?

Thấy Bảng đứng lóng ngóng mãi, bà phó vươn mình, quay lại nhìn gã và chỉ cái ghế trước mặt, bảo:

– Ngồi xuống đấy, lấy… sôi chuối mà ăn.

Bảng liếc nhìn dĩa sôi, nải chuối. Nước bọt ứa ra chân răng, gã định đưa tay ra cầm lấy nhưng lại thôi. Nhớ lại lúc trước, sau mỗi lần đấm lưng bóp chân cho bà phó, Bảng thường mở lời nhắc nhở bà phó đừng phê, rồi bỏ quên công lao của người vừa hành nghề đấm bóp cho bà. Đến khi có qủa chuối, củ khoai trong tay, Bảng hân hoan leo lên ngồi xổm trên cái ghế trường kỷ này như ông chủ con. Nhưng hôm nay, Bảng thấy lúng túng ngập ngừng thế nào ấy.

Chừng như thông cảm được nỗi lòng của Bảng, bà phó với tay, cầm lấy dĩa khoai luộc đưa ra trước mặt Bảng. Bất đắc dĩ, Bảng nghiêng người về phía trước cầm lấy một củ:

– Cám ơn bà phó cho qùa.

Trong lúc Bảng nói thuộc lòng câu nói ngày năm xưa, bàn tay Bảng chạm vào tay bà phó. Bốn ánh mắt đồng mở lớn gặp nhau. Bảng hốt hoảng cúi xuống, tay run run nắm gọn và xoa nhẹ trên củ khoai. Để trấn tĩnh mình, Bảng tự nhiên tái diễn lại những động tác quen thuộc của ngày năm xưa. Gã vén quần ngồi xổm xuống trước mặt bà phó. Bà phó nhìn thấy… bác, bà giật mình đánh thót người lên.

Thật là đại bất kính và gây ra ngượng ngùng, khó nghĩ cho bà phó. Thằng con trai đã 17, 18 tuổi đầu, trên người chỉ mặc vỏn vẹn một cái quần đùi rộng ống lại ngồi xổm để lòi… ấy ra trước mặt bà phó. Bà phó trẻ vừa nom thấy bác là ngượng đỏ mặt, vội quay mặt đi nơi khác:

– Đã bảo là ngồi lên ghế. Ai lại ngồi để…

Bà phó lấy cái quạt lên che ngang miệng, kịp giữ lại đoạn cuối câu nói dở. Trong lúc ấy, Bảng không cần nghĩ ngợi, gã bình thản từ chối lời mời:

– Cám ơn bà phó, con ngồi thế này đã quen rồi.

Chẳng ai nỡ trách Bảng vì một thói quen, chỉ tội cho bà phó Ba. Tội vì bà phó Ba không phải là người lẳng lơ thích chuyện trăng hoa. Kể từ khi bà về với ông phú Lộc đến nay, số đêm bà phải vò võ một mình trong căn nhà vắng nhiều hơn những đêm bà được cận kề bên người chồng răng long tóc bạc. Tuy thế, bà luôn thủ tiết, không bao gìơ có ý nghĩ phản bội ông trong lúc ông đi vắng.

Nhưng hôm nay, từ lúc bà lỡ đưa mắt nhìn rõ… bác sống động trong quần Bảng, lòng bà phó bỗng rung lên một nỗi niềm sao xuyến lạ kỳ. Bà thật không ngờ, cái hình hài ấy lại có sức mạnh mãnh liệt ghê gớm như thế. Nó không những làm bà chới với mà còn đánh thức toàn bộ những ước muốn thầm kín, và làm bật dậy những rạo rực nóng bỏng trong cơn khẩn trương của bà.

Bất giác, bà phó Ba khẽ rùng mình rồi tự thở dài. Thở dài vì từ lâu nay bà vẫn cho rằng, những sự rung động thèm muốn ấy đã thực sự chết ở trong bà. Nó chết từ lúc bà cô đơn lẻ bóng trong căn phòng lạnh lẽo. Và chết từ lúc bà nhỡ miệng, gật đầu nhận lời về làm lẽ mọn cho ông phú gần đất xa trời. Kể từ đó, bà những tưởng đời bà sẽ chẳng còn biết đến sự thèm muốn ân ái kia là gì. Ngờ đâu, nhờ có bác trong Bảng, từng cơn sóng lòng lại cuồn cuộn theo nhau nổi lên. Nó cuốn dạt bà theo hơi thở gấp. Bà mất chủ động, không kiểm soát được chính mình.

Đã mấy lần bà phó Ba tính quay mặt đi nơi khác để tránh cái nhìn trực diện với nó. Nhưng không hiểu lý do gì, mỗi lần bà muốn quay mặt đi lại là một lần bà nghe rõ lời kêu gọi khẩn thiết của… bác. Cuối cùng, bà đành phó mặc cho con nước trôi, quay lại nhìn, tự mỉm cười và trịnh trọng đổi thế ngồi.

Thế ngồi của bà phó Ba lúc này không còn gĩư nét đài các tôn kính nữa. Bà ngồi duỗi thẳng hai chân, đẩy hẳn người ra trước mặt. Rồi thay vì dục Bảng bóp chân cho bà như xưa, bà gợi chuyện:

– Năm nay bao nhiêu rồi, mà nom đã… lớn tướng?

Bảng ngay thật gỉa nhời:

– Bẩm bà, con đã 17 ngoài.

– Chóng thế?

Rõ chán cho cảnh vờ vịt của bà phó! Bởi lẽ, bà còn lạ gì cái lý lịch của thằng Bảng. Cách đây bốn, năm năm về trước, bố nó dẫn nó đến, xin bà nhận làm gia nhân trong nhà và cho tập việc cày cấy. Lúc đầu, bà không có ý nhận Bảng. Đến sau khi nghe bố Bảng trình bày về cái gia cảnh không mấy khá của gia đình ông ta, bà mới nhận lời.

Mấy năm qua, Bảng ở với bà. Bàn tay của nó đã bao lần đấm lưng bóp chân cho bà, bà còn lạ gì Bảng. Xa hơn thế, nó có tật xấu có thói gian nào mà bà không biết. Tuy thế, vào lúc này, có một sự việc bà phó biết rất rõ, nhưng lại cố tình quên hay làm như không nhớ. Đó là một Bảng đã ở vào lứa tuổi 17, 18 với những bắp thịt nẩy nở cuồn cuộn trên vai và trên đôi chân. Như thế, nó đã là một người thanh niên đầy sinh lực, không còn là một thằng Bảng bé bỏng như xưa.

Vì nhầm tưởng Bảng còn nhỏ bé như xưa, bà lại muốn Bảng quay về nghề cũ. Khi vừa có ý định táo bạo ấy, bà chợt thấy người nổi đầy gai ốc, rồi đê mê nhớ đến cánh tay của Bảng đã vờn vẽ, di động làm rát bỏng người bà trong cái lần cuối cùng nó trèo lên… giường. Nghĩ đến đó, bà si dại nhìn Bảng. Đôi đồng tử mở lớn lên rồi đôi môi mấp máy, bà muốn áp lên người nó. Tự nhiên, bà muốn nó không phải là thằng Bảng, nhưng là người tình. Bà cần tình, bà cần nó, không biết cần cho một công việc gì, nhưng nhất định không thể thiếu. Tự nghĩ thế, bà níu chặt cánh tay trên thành ghế, vươn hẳn người ra trước mặt Bảng rồi táo bạo đem so sánh cái lực lưỡng trai trẻ khỏe mạnh, rắn chắc của Bảng với cái lão nhược suy yếu của ông phú Lộc. Bà thấy lửa rát trên thân. Bà vội vã đứng dậy và ấn một bàn tay lên bờ vai trần của nó:

– Thôi để xuống đấy, lát nữa hãy ăn. Vào đây tôi… nhờ tý việc đã!

Bảng không một phản ứng, nó bỏ củ khoai xuống trên cái dĩa, lững thững đi theo sau lưng bà phó. Đi được mấy bước, Bảng nhìn xuống đôi tay. Đôi tay đã chai đá, có lẽ không còn thích hợp cho việc đấm lưng bóp… đùi xuông nữa. Tuy nghĩ thế, nó vẫn không biết phải làm gì và cũng không tìm ra lý do để từ chối.

Phần bà phó, vừa bước qua cánh cửa buồng ngủ, bà đứng lại, đan tay sau ót, giả như còn ngái ngủ rướn cao người lên trước mặt Bảng. Vươn xong, bà cố tình gác một cánh tay lên vai Bảng trong lúc cài lại cái then cửa buồng, bà bảo:

– Này… cởi cái nút thắt giải yếm ở đằng sau ra hộ tôi cái.

Bảng lẳng lặng vòng tay ra rút cái nút cột giải yếm phía sau lưng bà phó ra. Mảnh yếm điều từ từ rơi xuống. Đôi tà áo không cài khó che kín khoảng ngực trần. Bà cười nụ, bà thôi miên, nghiêng người, đưa giải yếm lên trước mặt Bảng. Rồi tình tứ, đặt một ngón tay trên má, trên cằm Bảng. Bỗng bà phó Ba giật thót người như chạm phải điện. Bà tròn vo đôi mắt khi nhìn thấy một bàn tay khác của bà đã nằm ngay trên cái giải rút quần trước bụng thằng Bảng. Bà kéo thằng Bảng lại gần.  Mảnh yếm rời tay cùng lúc với thân hình bà áp vào người Bảng. Hình như bà đã thơm nó một cái trước khi ẻo lả nằm úp mặt xuống trên gối.

Trong khi đó, ngoài một đôi mắt mở rộng, Bảng đứng khép chặt đôi chân nom cứng như thân tượng gỗ giữa buồng. Nó hết nhìn cái giường lại nhìn bà phó, rồi hoang mang không biết phải làm gì, nói gì. Đã thế, bà phó lại kín đáo. Ngoài những cử chỉ khác thường, bí ẩn. Bà lên giường nằm như chờ đợi, nhưng lại không nói năng chi nên Bảng chẳng hiểu bà phó muốn nhờ Bảng làm gì. Mãi một lúc sau, Bảng mới nghe thấy tiếng bà phó gọi nhỏ:

– Lại đây… ngoan nào…!

Nghe tiếng gọi, Bảng nhìn thấy màu nắng xuyên qua khung cửa sổ, hắt lên tấm lưng thon, dài, nửa kín nửa hở sau vạt áo cuốn của bà phó. Bảng mon men từng bước, đến ngồi ghé bên mép giường. Thấy Bảng đến, bà phó Ba khẽ nhích người, nằm quay mặt vào phía trong. Bà vén cao lưng áo lên, rồi tự nhiên, nắm lấy tay thằng Bảng để lên trên thắt lưng của bà. Sau đó, bà dùng một bàn tay, xoa nắn lan dần trên lưng, trên đùi Bảng như có ý dục nó vào công tác. Kết qủa, đôi tay nó run và nằm chết cứng trên cạp quần của  bà phó. Nó tự biết người nó bắt đầu nóng rực lên theo một nhịp phách kỳ lạ. Nó định rút tay về và nhích người ra xa một chút để tránh bàn tay táo bạo của bà phó. Không ngờ, bà phó xoay người, nắm lấy cạp quần của Bảng, bảo nó:

– Này… cởi ra… đấm… lưng nhá!

Thằng Bảng hốt hoảng, rút tay về giữ lấy cái quần.  Trong khi đó, bà phó Ba lại nhổm người lên, ôm ghì chặt lấy người nó, rồi thả ngả người ra phía sau. Thằng Bảng mất đà, ngã đè lên người bà phó. Nó loay hoay chống tay nhổm dậy. Bà phó bạo dạn tụt cái quần đùi của nó xuống, dục:

– Cởi ra… đấm… đấm đi…

Tiếng nói bà chưa dứt, thằng Bảng đã mất hồn vía, nó dựng người lên khi thấy bác không có lấy một mảnh vải che thân. Nó hoảng hốt vùng dậy, thoát ra khỏi vòng tay tham lam của bà phó. Chân vừa chạm đất, nó kéo vội cái quần lên rồi tung cửa, cắm đầu chạy như bị ma đuổi. Sự việc đã diễn tiến ra ngoài dự trù của bà phó. Bà chưng hửng, nằm giang rộng chân tay trên giường, mắng với theo:

– Đúng là đồ ngu. Sôi không ăn thì ăn… cám.

Phần câu chuyện này, được ghi rõ ràng trong hồ sơ lý lịch đảng tịch của Bảng. Các cán bộ Vẹm khi ấy đã đánh gía Bảng như là một đồng chí kiên cường, dũng mãnh. Đã hiên ngang chống lại cường hào áp bức, chống lại giai cấp bóc lột. Hành động cụ thể này chính là một ý thức cách mạng cao độ, đáng được ghi vào sử đảng, để đời đời làm gương cho toàn đảng noi theo.

Riêng Bảng, sau khi vùng thoát khỏi căn buồng đầy ma lực với đôi tay tội lỗi của bà phó, nó dừng lại và nép người vào gốc cây mít cuối vườn. Khi nép, nó vừa thở vừa len lén lo âu nhìn về phía căn buồng của bà phó. Dù từ căn nhà của bà phó không vang ra bất cứ một lời nói, hoặc một câu quát mắng nào, Bảng cũng thấy lòng lo lắng hồi hộp. Lát sau, nó thấy bóng bà phó đứng chống tay ngay trước cửa ra vào, nó lẳng lặng bỏ đi. Nó đi và chẳng biết đi đâu. Đến khi chiều sắp tàn, nó lần bước về nhà nó. Mẹ và các em nó đang chia nhau những hạt cơm dính trong đít nồi. Thoáng cơ cực, nó ra bên chum nước, uống một gáo nước đầy thay cho bữa cơm chiều. Đêm ấy, Bảng ở lại nhà và báo cho mẹ nó một bản tin buồn. Nó không trở lại làm việc cho bà phó nữa. Mẹ nó kinh ngạc hỏi lý do, rồi bảo:

– Không làm cho bà ấy thì kiếm đâu ra chỗ ăn chỗ ở? Nếu con có lỡ làm điều gì lỗi thì mai u sẽ lên xin thưa lại câu chuyện với bà phó. Người ta chỉ đánh kẻ chạy đi, ai nỡ đánh kẻ chạy lại bao giờ!

Mặc cho bao lời khuyên nhủ, Bảng cương quyết không trở lại đấm lưng cho bà phó nữa. Lý do, cần gì phải có bà phó gã mới có miếng ăn. Kết qủa, suy luận của Bảng đúng có một nửa. Bởi lẽ, trong vùng Xuân Thủy không có nhiều hộ giàu, sẵn sàng nhận gia nhân. Bảng gõ cửa mấy nơi, Bảng chỉ nhận được lời từ chối khéo. Họ từ chối Bảng vì nhiều lý do, trong đó có việc thắc mắc vì lý do gì Bảng giã từ hàng ngũ gia nhân của bà phó Ba. Họ không muốn chuyện lôi thôi, cũng không muốn mất lòng bà phó Ba, họ từ chối Bảng. Cuối cùng, Bảng phải cắn răng đến xin giúp việc tại nhà ông Bính, là anh của bà phó.

Phương cách đối sử của ông Bính với Bảng, hoàn toàn khác với bà phó. Bà phó ngọt ngào êm dịu bao nhiêu, ông Bính la hét khó chịu bấy nhiêu. Tuy thế, Bảng không có ý định rời xa nơi tạm dung này. Một phần vì công việc và miếng cơm manh áo và một phần vì Bảng đã phải lòng Nụ, con gái ông Bính. Ít lâu sau, ông Bính nghe được những lời to nhỏ của đám gia nhân về việc vụng trộm của Bảng và Nụ. Ông Bính dứt khóat cho Bảng thôi việc. Khi mất việc, Bảng đâm ra thâm thù bà phó. Bảng thù bà phó vì cho rằng bà là người lắm chuyện, đặt điều. Bảo với ông Bính là nuôi Bảng có khác gì nuôi ong tay áo. Và nhất là không để cho nó có cơ hội gần cái con Nụ. Kết qủa, ông Bính nghe lời cố vấn của bà phó nên Bảng đành quảy gánh ra đi, và mối tình giữa bà phó và Bảng thì khôn hàn gắn…

Khi thấy hai người vẫn to nhỏ bên chum nước, Bảng rất khó chịu. Gã vờ vịt đứng lại ngoài ngõ, gỉa ngửa cổ lên nhìn giời nhìn đất như để xem nắng mưa thế nào, nhưng thật ra là có ý để cho bà phó Ba nhìn thấy mà lánh mặt. Một lúc sau, bà phó Ba biết ở lại không tiện, bà vắn tắt câu chuyện rồi nhanh chân bước ra. Cả hai người nhìn thấy nhau ngoài đầu ngõ, họ nhất định không một lời cho nhau.

Khi bóng bà phó Ba đã khuất hẳn ở cuối con đường, Bảng mới vào trong nhà. Gã giận lẫy, ném cái nón cối là linh hồn của đảng Vẹm lên trên cái chõng đặt ở gian trống, nơi dùng làm phòng khách. Sau đó, gã đi ra phía sau hè, đến bên chum nước, múc nước đổ ra tay rửa mặt. Rửa xong, gã đi trở vào. Đi được vài bước, Bảng đứng lại như vừa nhớ ra điều gì quan trọng. Gã trở lại bên chum nước, nhìn trước nhìn sau rồi cởi phăng bộ quần áo mặc trên người ra. Gã múc nước dội ào ào lên người.

Tắm xong, Bảng với tay lấy bộ quần áo treo trên đầu cái cọc gần nơi úp rổ chén bát đi vào trong nhà. Vừa đi, Bảng vừa lau khô người bằng một cái khăn đã rách tả tơi. Sau khi thay quần áo, Bảng   vặn tréo cái quần dùi ướt trên tay rồi máng lên giây phơi. Cùng lúc, có bóng Nụ đi qua, Bảng hất cằm hỏi trống không:

– Cơm nước đã thổi chửa?

Nụ không trả lời, Bảng nhăn mặt nhìn theo. Gã thấy một tay Nụ cắp rá gạo, tay kia cầm cái nồi đi ra phía cầu ao. Bảng giậm chân, nói đổng:

– Tối mẹ nó rồi mà cơm nước gìơ này chưa thổi. Biết đến bao gìơ mới được ăn để còn đi họp đi hành đây? Chuỵện gì mà lắm chuyện thế, ngày nào cũng to cũng nhỏ.

Nụ nghe rõ nhưng không trả lời trả vốn câu nào, Bảng bực mình đi thẳng lên nhà trên. Gã rót lấy bát nước, đến ngồi bó gối bên cái điếu cày, nhìn chừng ra ngoài sân trong lúc đợi ăn cơm chiều. Thật ra, Bảng ít để ý đến giờ giấc của bữa cơm chiều. Bởi lẽ, khi thì gã về sớm, khi về trễ, không có chừng mục và bữa cơm chiều cũng theo đó dãn nở như giây thung. Tuy nhiên, chiều nay vì câu chuyện hẹn hò với Lựu, nên Bảng thấy nóng ruột. Có lúc, Bảng bước ra cửa tính bỏ bữa cơm chiều, nhưng lại thôi. Một lúc sau, Nụ bưng mâm cơm lên và đặt xuống trên cái chõng thay vì cái bàn như thường lệ. Bảng bước đến, gã chán nản nhìn mâm cơm xã hội chủ nghĩa với đầy đủ những nét hỷ, nộ, aí, ố… nhục.

Cảnh đạm bạc trong đời cán bộ phục viên, hiện gĩư chức chủ nhiệm hợp tác xã của nhà nước như Bảng đã tái diễn như thế này qúa nhiều lần. Rất ít khi chủ nhiệm Bảng ngửi thấy mùi thịt, mùi mỡ trong bữa ăn. Tuy nhiên, Bảng không thể tìm ra phương cách nâng cấp cho bữa ăn. Lúc trước, gà vịt của nhân dân còn, cán bộ có hành nghề trộm cắp về đêm thì cũng còn kiếm được miếng ăn. Lúc này, dù có tận lực hành nghề cán bộ cũng chỉ nhìn thấy sau lớp rào thưa kia là một cán bộ khác đang phục binh, đợi thời, và tuyệt nhiên không còn thấy bóng dáng gà vịt ở trong chuồng của nhân dân. Theo đó, nếu Bảng còn được bữa ăn như chiều nay, phải được kể là do bàn tay đảm đang và khôn khéo của Nụ. Nếu không có Nụ, đồng chí Bảng chỉ còn một cách đem cái chức chủ nhiệm của nhà nước ban cho ra mà ăn dần, riêng phần cơm gạo thì xin… kiếu.

– Nhà không ăn luôn một thể à?

– Không, tôi còn phải đi tắm cái đã.

Không cần chờ và hỏi han thêm nữa, Bảng vục cái bát vào nồi cơm. Sau khi có một bát cơm đầy, Bảng gắp miếng cá và mấy cọng rau muống cho vào bát. Gã nhìn lên bức chân dung của bác kính yêu rồi lùa cơm vào miệng. Khi ăn, Bảng không một thắc mắc. Bởi nếu có thắc mắc, Bảng cũng không tìm được câu trả lời thỏa đáng. Trái lại, Bảng sẽ nhận được những lời thẳng thừng của Nụ:

– Đã làm cán bộ thì phải phấn đấu, khắc phục khó khăn để làm gương cho quần chúng nhân dân noi theo chứ? Đất nước còn nhiều khó khăn, có đâu cán bộ ngồi mâm cao cỗ đầy.

Mỗi lần nghe câu nói móc ấy, là một lần Bảng thấy như có đôi đũa nhọn chọc sâu vào cổ họng gã. Gã đau đớn, quắc mắt nghiến răng, muốn mắng vào mặt vợ gã:

– Đéo mẹ mày, ăn nói nó ngu vừa vừa một tý. Có hô hào khắc phục, phấn đấu là để đánh lừa cái thằng dân thôi chứ. Đã làm cán bộ việc gì phải kham khổ, phải khắc phục?

Tuy nghĩ thế, Bảng vẫn không dám nói ra nửa lời. Bởi lẽ, vợ gã chửi gã như thế là đúng lắm. Hơn nữa, cứ mỗi lần Bảng nhỡ mồm than không có gì ăn, là một lần Nụ nhắc đến cái chết của ông Bính với lòng căm thù Bảng:

– Anh muốn có miếng cơm ngon, muốn có manh áo đẹp à? Hãy lôi bố tôi ra mà đấu tố, ra mà chém như lời bác đảng dạy dỗ anh. Chém giết rồi đó, tài sản tịch thu hết rồi đó. Anh đã được miếng cơm ngon, miếng thịt tốt, manh áo mới nào chưa? Hay cứ mở mồm ra là hò hét những lời láo khoét đảo điên, gian trá?

Bảng nóng mặt, toát mồ hôi hột khi nghe Nụ lớn tiếng, nhưng Bảng tự dằn bụng là không nên có phản ứng. Bởi lẽ, lời qua tiếng lại người ngoài nghe thấy, họ sẽ đánh gía gia đình chủ nhiệm Bảng mất cảnh giác cách mạng và cá nhân Bảng là để mất lập trường của giai cấp đấu tranh. Bảng đành xuống nước:

– Ông ấy bị chém đầu là do lệnh đấu tố của nhà nước, của đảng, nào phải do tôi? Không mở mắt ra mà xem, bên Hành Thiện, thư ký thứ nhất của đảng đã đấu bố mẹ đẻ để làm gương cho toàn quân, toàn đảng noi theo thì đã sao. Riêng trường hợp của tôi, tôi chỉ là một cán bộ thừa hành, thấp kém, làm sao tôi có thể cứu được tội lỗi to lớn của ông ấy?

Vừa nghe Bảng nhắc đến câu tội lỗi to lớn của ông ấy, Nụ liền nổi điên, nàng xăn tay áo bước tới trước mặt Bảng:

– Chứ không phải chính anh là người đã hạ quyết tâm đề bạt tên bố tôi vào cái danh sách ấy à? Ở đời, tôi chưa nghe thấy có thứ con cái nào phản phúc đến như thế. Dù không phải là bố đẻ ra anh, thì cũng là bố đẻ ra vợ anh, mà anh dám làm chuyện trái với luân thường đạo đức, kề cái mã tấu vào cổ bố tôi à? Anh là người hay là đảng viên?

Bảng lồng lộn lên như con heo bị thọc huyết:

– Đéo mẹ mày, câm mồm. Con phản động kia, mày dám chửi cả bác, cả đảng à? Có phải mày muốn đi theo thằng bố mày hay không?

Nghe hỏi, Nụ tiến lên lôi tuột cái tấm hình của Hồ nhân đang treo lủng lẳng trên bức vách xuống:

– Phải, có giỏi thì giết đi, giết đi. Không dám à? Tôi là con gái của địa chủ, của phú nông địa hào đây, theo tôi làm gì? Có giỏi thì ra xin với bác với đảng cho ở riêng đi. Việc gì phải nhờ cả cái chi bộ ấy đến nhà mà năn nỉ và xin lỗi tôi. Cán bộ oai phong lừng lẫy lắm, trên không sợ trời dưới không vị đất, việc gì phải về cái nhà này mò bát cơm nguội như thế?

Nói xong, tiện tay Nụ quăng ngay cái tấm hình có nắm lông mồm kia ra ngoài sân, ý thị muốn tống khứ cả Bảng đi cho khuất mắt. Bảng giận đến run ngươi. Run vì giận, run vì thương bác nhưng không biết phải sử trí ra sao. Bởi  há miệng thì mắc quai. Ở ngoài xã hội, Bảng lơ láo theo bác theo đảng đá cá lăn dưa. Điều nhân lễ nghĩa trí tín không một lần nghe biết, nên Bảng không có lấy một người bạn, gã chỉ có những đồng chí và kẻ thù quanh mình. Khi về nhà, Bảng lại theo bác ra chiêu đâm cha chém chú. Kết cuộc, người ta cho gã là một loài ký sinh, và những kẻ đi làm cách mạng như Bảng như bác không có lỗ dung thân.

Tại sao những nhà cách mạng lại gặp cảnh hẩm hiu thế? Bảng hỏi, và không tìm ra câu trả lời. Gã chỉ nhớ mang máng là từ ngày xa bà phó và tự xóa bỏ giai cấp của mình đến nay, đời gã như bước vào nhiều khúc quanh khắc nghiệt hơn. Làm công cho ông Bính mới được vài năm thì vướng vào vòng tình ái với Nụ. Kết qủa, Bảng phải ngậm đắng nuốt cay mà đi. Giữa lúc lang thang cùng đường, Bảng thấy một gã trung niên đang co ro ngồi kéo điếu thuốc lào. Buồn ngủ gặp chiếu manh, Bảng ghé lại hỏi thăm. Không ngờ ánh sáng của Việt cộng đã từ cái đốm lửa trên đầu cái đóm hút thuốc soi dọi vào ruột gan Bảng một niềm mơ ước lớn. Mơ ước đi làm cách mạng để có cơm ăn, thuốc hút. Đang lúc đói, bốn chữ sau cùng này như có ma lực hấp dẫn Bảng. Gã không ngần ngại đứng lên vái bác một cái rồi hai người cùng lên đường.

Ngay từ khi đồng hành với bac, Bảng đã được bác dậy cho phương cách làm người khác người của bác. Ban ngày trốn chui trốn nhủi như những con chuột hoang, dấu mình trong bờ cây bụi cỏ, không dám nhìn ánh sáng mặt trời. Đến khi đêm xuống thì len lén chia nhau ra theo từng toán, từng đội vác mã tấu lên vai. Ngoài miệng, nói là đi đánh đuổi thực dân đế quốc, và lật đổ cường hào ác bá, trừ hại cho dân. Nhưng trên thực tế, chúng phải thay tên đổi họ để không ai biết chúng là ai. Sau đó, chia nhau vào các làng mạc gần đó để cướp của giết người kiếm miếng ăn.

Qua phương cách sinh hoạt này, nếu bảo rằng đời Bảng đã đổi từ khi có bác thì có đổi thật. Bởi vì, ngày xưa Bảng phải làm đầy tớ, làm gia nhân cho bà phó sai khiến, rồi làm lao công cho ông Bính mới có được miếng cơm manh áo. Còn ngày nay, Bảng đã thanh thản hơn. Bảng chỉ cần theo bác, đè con dao vào cổ nhân dân là có gạo có tiền.

Đến lúc lên đường vào Điện Biên, nhân chứng của đảng là đồng chí Bảng không còn một hình tượng giống như ngày đầu đi theo bác. Đã thế, trước mặt chỉ thấy một màu xanh thẳm của núi rừng, còn phía sau lưng, ngoài những bánh pháo nặng trĩu trên vai là lời hò hét, hô hào khắc phục tiến lên của cấp chỉ huy. Tiến lên cũng chết, mà không tiến lên thì khó sống với nòng súng ngắn của lãnh đạo. Cũng may mà Bảng bị thương sớm.

Ngày xuất viện trở về làng, Bảng những tưởng sẽ có nhiều người đổ xô ra đường hò hét, hoan hô Bảng là anh hùng cứu quốc như lời cán bộ an ủi Bảng trong thời gian nằm viện. Và từ đây, đời Bảng mới thực sự là đời đáng sống. Kết qủa, chẳng có một ma dại nào ra chào đón hoan hô Bảng. Ngay đến các đồng chí của Bảng trong chi bộ Xuân Thủy, cũng không một người dòm ngó tới Bảng.

Bảng còn nhớ như in buổi sáng hôm rời viện. Khi gã lê thân trên đôi nạng gỗ vào đến văn phòng uỷ ban nhân dân Xuân Thủy. Những người có mặt đã bỡ ngỡ nhìn Bảng như nhìn một tên khất thực. Sau khi Bảng trình giấy tờ liên hệ chứng minh, người ủy viên thư ký miễn cưỡng chỉ cho Bảng cái ghế ngồi chờ. Đợi qua trưa, anh ta trở lại phát cho Bảng cuốn sổ phục viên với tiêu chuẩn mua lương thực theo hộ của Bảng là hết nhiệm vụ. Bảng thấy bất bình, gã lên tiếng:

– Anh biết tôi là ai không?

Người ủy viên chống mắt nhìn Bảng:

– Là ai? Ông giời à?

Nói xong anh ta bỏ đi. Bảng nóng mặt hét lớn:

– Anh kia, thủ trưởng của anh đâu?

Một người khác hỏi chen vào:

– Chuyện gì thế, anh muốn làm loạn  cơ quan à?

Nghe hỏi, Bảng đứng ngay như cán cuốc, đưa cuốn sổ vừa nhận ra trước mặt như muốn phân trần vài câu. Thấy Bảng chống nạng, anh ta bước đến cầm lấy cuốn sổ:

– À tưởng gì, chuyện này dễ thôi đồng chí ạ. Phiền đồng chí tuần sau đến phòng thương binh xác minh thêm lần nữa, rồi trở lại đây chúng tôi sẽ đăng ký hộ khẩu cho đồng chí sau.

– Còn cuốn sổ này?

– Đây mới chỉ là bước đầu kiểm tra thôi. Cuốn sổ này chưa dùng được, phiền đồng chí một tý nhá.

Bảng đỏ mặt, thu hồi lại cuốn sổ rồi cắm mạnh đôi nạng gỗ xuống trên mặt đường. Cùng lúc đó, lòng căm thù, nỗi uất hận dâng lên nghẹn cổ. Gã không tiếc lời thóa mạ Hồ chí Phèo, kẻ đã dẫn gã đi làm cách mạng.

Kịp đến lúc chính sách đấu tố phú nông địa hào ra đời, đảng ủy địa phương nhớ lại cái tên Bảng. Qua phần đánh giá, chúng đến động viên Bảng bằng một lý lẽ vô cùng sắc bén. Xúi dục Bảng hãy vì đảng mà đổ hết mọi uất hận, căm thù lên đầu lên cổ những tên cường hào ác bá và con cháu của chúng. Bởi vì, chính chúng là kẻ đã gây ra cái khốn cùng của Bảng vào ngày hôm nay. Nghe nói thế, Bảng đứng bật dậy và cương quyết đi theo bác một lần nữa rồi muốn đến đâu thì đến. Nhưng trong lần này, gã muốn cái tên Nguyễn văn Bảng phải thăng hoa chung với mùa đấu tố. Bác chiều Bảng, và đảng trịnh trọng trao cây mã tấu và chức đao phủ vào tay Bảng…

Chắc chắn không một người nào có thể hình dung ra được những hình ảnh chuẩn xác về mùa đấu tố. Chỉ may ra, những người trực tiếp đứng nhìn cảnh đấu tố, nói toạc ra là đứng nhìn cảnh Việt cộng giết người cướp của ở trên đất bắc dưới chiêu bài cải cách ruộng đất, vào thời kỳ 55- 58 mới khả dĩ thấy, và hiểu được phần nào cái dã nhân, cái vô đạo của Hồ chí Minh và Đặng Xuân Khu trong trò chơi chết người này.

Riêng vùng Xuân Thủy, Con số những người bị đấu tố chết đến nay không ai biết được đích xác. Tuy nhiên, từ mấy ngày trước khi cuộc đấu tố nổ ra, làng nước đã xôn sao bàn tán về chuyện Nguyễn văn Bảng tự nhiên được đặc cách lên làm đội trưởng đội cải cách Xuân Thủy. Tin đồn, lời bàn tán, chuỵện to nhỏ chưa lắng xuống đã nghe bên Lục Thủy, Lục Giao, Hành Thiện đồng loạt khai dao mở hội và mời Bảng sang dự khán.

Thật ra, Nguyễn văn Bảng không tự nhiên được đặc cách như làng nước bàn tán, nhưng gã được đưa vào chức vụ này là do qúa trình tranh đấu của bản thân, và do qúa trình giáo dục, kiến tạo và nuôi dưỡng lâu dài của đảng. Đảng đã đứng trên đỉnh cao để huấn luyện Bảng từ trong trứng nước, đã biến gã từ một kẻ nông phu áo vá trở thành một kẻ sát nhân lành nghề. Chính đảng đã nuôi Bảng trong hận thù để Bảng ra tay trong mùa đấu tố này. Nên ngay khi nhận cây mã tấu và chức vụ đội trưởng đội đấu tố Xuân Thủy, Bảng lập ngay một danh sách dài những nạn nhân, trong đó có nhiều người trước đây từng gia ơn cho chính bản thân Bảng, bố mẹ Bảng cũng như dân làng. Trong số ấy, phải kể đến mấy người quen mặt như ông phú Lộc, ông chánh Khuyên, ông lý Tạo… bà phó Ba, và ông Bính bố vợ của Bảng.

Sau khi lập xong danh sách những thành phần bị ghép vào tội cường hào ác bá ở Xuân Thủy, Bảng hội ý với chi bộ rồi chọn ngày, chọn địa điểm để khai mạc đại hội múa dao. Đúng 7 gìơ chiều ngày khai dao ở Xuân Thủy, khi trời vừa chạng vạng tối, Bảng cho đốt lên một số ngọn đuốc ở chung quanh khu đất trống đầu thôn đông, nơi được chọn làm pháp trường, rồi sai các cháu ngoan của bác lùa toàn dân sống trong vùng ra tham dự đại hội.

Gọi nó là đại hội múa dao bởi vì chỉ một lát sau, dưới ánh đuốc chập chờn, đội trưởng Nguyễn văn Bảng quần ống thấp ống cao, hai tay nâng cao cái mã tấu trên đầu, anh dũng dẫn đầu đoàn múa tiến vào pháp trường. Đi sát theo sau lưng Bảng là đội thiếu nhi quàng khăn đỏ. Đội này bao gồm cả trai lẫn gái, là con cái của những nhà cách mạng tuổi khoảng từ 10 đến 15 tuổi. Chúng vừa đi vừa hát vang bài Đấu Tố Ca của nhà thơ lừng lẫy Xuân Diệu. Nối gót theo sau là đội bảo vệ, rồi đến các đảng ủy viên trong chi bộ Xuân Thủy. Đi đoạn hậu của đoàn kiệu là các biểu diễn viên, được liệt kê vào danh sách phú nông địa hào.

Đoàn biểu diễn viên đêm nay, không đi đứng theo thủ tục rườm rà với lễ nghi kiểu cách, bao gồm cái áo chùng thâm, quần dài trắng, tay cắp ô đen ngồi trên cáng vuốt râu! Thay vào đó là kiểu trang phục đơn giản. Một cái quần cụt, một manh áo ngắn và đi chân đất. Khi đi, ngoài những khuôn mặt hoặc hốc hác với vài ba chòm râu lưa thưa, hoặc bị biến sắc dị thường dưới ánh lửa. Cánh tay của biểu diễn viên đều vắt ra phía sau lưng và được giữ lại nguyên vị trí đó bằng một đầu sợi giây nhợ. Đầu giây còn lại, được kết thành vòng hoa giống như cái thòng lọng đặt nằm gọn trong cổ người diễn viên đi kế. Đoàn biễu diễn hội múa dao đêm nay gồm có 15 người. Họ là những người lớn tuổi và vì khúc dây còn lại từ tay người đi trước đến cái cổ của người đi sau hơi ngắn, nên họ đã đồng loạt khom lưng cúi đầu cất bước trên đôi chân không thẳng.

Vào đến… hí trường, chi bộ và đội thiếu nhi khăn đỏ phụ diễn văn nghệ đi vào vị trí của mình. Riêng đoàn diễn viên được đội trưởng Nguyễn văn Bảng và hai cán bộ bảo vệ, cầm giây dẫn đi một vòng quanh sân để chào khán gỉa. Bởi vì đây là lần đầu tiên có hội múa dao đấu tố ở Xuân Thủy, bà con ta chưa quen xem trò diễn xuất mới của nhà nước nên họ quên mất phần vỗ tay cổ võ. Tệ hơn thế, lại có người ti tỉ như tiếng khóc cha, khóc chồng văng vẳng quanh đây.

Sau khi dẫn diễn viên đi chào khán giả, đội trưởng Bảng ra lệnh cho các tay lý trưởng, chánh tổng hoặc bá hộ trước kia qùy mọp giữa pháp trường. Kế đến, đội trưởng quàng khăn đỏ, theo lệnh của Bảng, bước ra đọc tên tuổi và tội lỗi của từng người cho dân làng nghe. Trong khí thế hừng hực của ngọn đuốc đấu tranh, và khí thế sôi nổi giết người để cướp của của Việt Minh cộng sản, mà đại diện ở Xuân Thủy là Bảng đã ra oai hò hét, thúc dục các gia đình cách mạng và những kẻ muốn theo bác lập công ra lời đấu tố những người đã ban ơn cho mình trước kia.

Kết qủa, nhờ công lao tận lực hò hét của Bảng, nhờ lòng sôi nổi đòi giết người trả ân của những gia đình cách mạng Việt cộng, ủy ban đấu tố Xuân Thủy đêm nay đã thuận ghép tượng trưng ba tay thuộc hàng lý trưởng, chánh tổng và bá hộ trước kia vào tội chết chém. Lệnh vừa ban ra, đầu của những tay được gọi là cường hào ác bá, có nợ máu với… bác rơi phịch xuống đất và máu bắn vọt lên giời. Riêng cây mã tấu của Bảng vẫn không một vết đỏ. Như thế, dưới ánh lửa chập chờn man dại, pha lẫn với màu máu đỏ trong đêm tối, bác và chính sách đấu tố mặt đỏ như vang, những kẻ khác mặt vàng như nghệ.

Chém xong, nhân dân giải tán. Trên đường về không ai dám nói với ai một câu nào. Riêng thân nhân của người chết, sau khi được ủy ban cải cách cho phép đã âm thầm mang theo manh chiếu,  đến nhặt lấy đầu người vừa bị chém, ghép liền với thân người chết và đưa họ về bên kia thế giới. Có người đã giữ lấy sợi giây cột tay của nạn nhân làm kỷ niệm. Nhưng có người thay vì giữ lấy vật kỷ niệm ấy làm vốn, họ lại dùng chính sợi giây ấy để buộc vào cổ mình sau khi đưa nạn nhân về miền đất lạnh.

Rồi theo lệnh của bác, những người bị… cắt tiết là những kẻ có tội. Khi đem chôn, cấm không được phép tiễn kèm theo những thủ tục rườm rà như kèn trống, hàng quân danh dự. Cũng không nhang đèn, không chén cơm, không bát nước để cúng tế. Đặc biệt, tuyệt đối cấm không được phép xây lăng mộ giống như lăng của bác.

Đợt ba, ông Bính, bà phó Ba nằm chung trong một danh sách. Trước gìơ khai đao, bà phó Ba nhanh miệng kêu oan với ủy ban:

– Rằng bà nhà nghèo, bà bị ép buộc làm lẽ mọn cho người ta. Nhờ đó, bà có miếng đất, có ruộng vườn và cả đời bà chả bóc lột ai.

Nghe thế, Bảng bật cười, riêng ủy ban thấy bà nói có tình có lý nên thuận cho phép bà được sống. Tuy nhiên, tội chết có thể tha, tội sống không được dung! Nhà nước truyền lệnh cho bà phó phải giao nộp tài sản lại cho nhân dân. Bà phó Ba mừng đến run chân tay, vội đứng lên tế đội trưởng Bảng như tế sao và xin dâng hết mọi thứ cho bác.

Đến phiên ông Bính, thay vì kêu oan với ủy ban như bà phó, ông lại giận dỗi nhìn mặt đội trưởng Bảng mắng gọn:

– Nhà tao không có loài vô phúc như mày.

“xoạt”, tiếng kêu nghe rất ngọt, rất nhẹ nhàng. Đầu ông Bính lăn quay trên mặt đất, Nụ lao ra chỉ mặt Bảng chửi như tát nước. Mặc, đội trưởng Bảng không một nao núng. Lý do, Bảng là đội trưởng, Bảng là bạn thân của  Hồ chí  Phèo, Bảng chả cần phải sợ ai! Bảng nghĩ đúng, nhưng dân làng trông thấy Bảng lại ngỡ là gặp ác qủy, họ muốn lánh cho xa. Trước oan tình này, Bảng bình chân cho là nhân dân nghĩ nhầm. Nhầm vì Bảng chỉ là đồng chí, là bạn chí cốt của bác, không phải là ác quỷ.

Nói thì như thế, nhưng thật ra, không thể đem Bảng so xánh với bác được. Bởi lẽ, kể từ khi Nụ bỏ đi, có nhiều đêm sau cuộc say men đấu tố chém giết trở về, Bảng đã không tìm được một giấc ngủ yên. Khi vừa chợp mắt là Bảng kinh hoảng gào thét lên vì mơ thấy nhiều hồn oan hiện về đòi trả lại mạng. Một trong những lần kinh hoàng nhất là lần Bảng nom thấy bộ quần áo của gã vất ở góc nhà từ từ đứng dậy. Nó quơ tay múa chân, di động tiến về phía giường Bảng đang nằm. Khi cánh tay áo vừa chụp xuống, Bảng hoảng thần hồn, hất tung nó ra rồi cắm đầu đạp tung cánh cửa chạy ra ngoài. Bảng hốt hoảng chạy ngang qua cái ao cạn lúc nào cũng không hay. Khi sang đến bờ bên kia Bảng vẫn chưa hoàn hồn, gã lại cắm đầu chạy tiếp. Chạy đến cuồng chân, Bảng ngồi xuống đường bó chặt đôi chân vào nhau thở dốc. Khi ấy, bụng thì lo, nhưng mồm Bảng lại lẩm bẩm:

– Khéo mình nhầm. Đã có bác đảng ở đây, ma qủy làm sao có thể hiện hình được?

Nhờ lý luận sắc bén ấy, cơn khủng hoảng lắng xuống, Bảng lại quay trở về. Về đến nhà, Bảng thận trọng nghe ngóng trước khi bước qua khung cửa. Sau đó, rón rén từng bước đi về phía góc nhà. Bảng sờ rồi nắm chặt lấy cán cây mã tấu. Khi có linh hồn của đảng trong tay, Bảng tự tin hơn. Gã quơ tay tìm cái đèn bật trên chõng. Gã nín thở bật lửa. Lạ! Cái đèn bật của Bảng thường rất nhạy, nhưng không hiểu lý do gì đêm ấy gã bật đến bốn năm lần ánh lửa chỉ lóe lên rồi tắt. Bảng toát mồ hôi, gã co chân toan bỏ chạy lần nữa. Cũng may, cùng lúc ngọn lửa bắt cháy trên cái tim đèn. Bảng vội châm lửa vào cái đóm tre và cái đèn dầu. Sau đó, một tay cầm dao, một tay cầm đèn đi một vòng quanh nhà để kiểm tra.

Khi đi đến cái buồng ngủ của Nụ, gã vén rèm cửa nhìn vào. Căn buồng trống trơn với gối chăn lạnh. Gã đứng nhìn một lát rồi trở ra. Soi hết phòng trong, Bảng quay ra nhà ngoài. Tuy không bắt được ma, Bảng vẫn không hiểu nổi lý do tại sao bộ quần áo của gã nằm mỗi nơi một cái. Gã vội nhảy lên giường trong lúc tay không rời nắm dao. Rồi không chờ ai dục, Bảng lâm râm lời khấn hứa với thần linh. Gã thề sẽ từ bỏ con đường gây ra nghiệp chướng thay vì lời hứa tuyệt đối trung thành với bác và với cái mã tấu.

Không may cho Bảng. Khi bình minh vươn lên đầu ngọn cây, đồng chí Bảng lại nghe thấy lời kêu gọi đi tìm vinh quang với bác văng vẳng bên tai. Bảng lại đứng lên, quên hết âu lo đêm trước. Mặc lại bộ quần áo cũ, chân xỏ vào đôi dép râu, đầu đội cái nón cối, tay cầm chắc cái mã tấu của đảng ra đi. Ra đi hành nghề giết mướn cho đến hết đời…

Hết đời! Bảng giật mình răng cắn phải lưỡi. Gã khựng lại một chút, lùa hết miếng cơm trong bát vào miệng. Trước khi đứng dậy, Bảng gắp thêm cọng rau muống, chấm chút tương cho vào miệng nhai nhóp nhép. Nhìn ra phía ngoài, biết đã muộn, gã tranh thủ xuống bếp lấy ấm nước. Lúc đi ngang cái sân trống, Bảng thấy Nụ đang lúi húi tắm bên cầu ao, nhưng không lên tiếng hỏi hoặc dục Nụ vào ăn cơm. Lát sau, Bảng cầm cái đèn bật và cái xáp thuốc cho vào trong túi áo. Gã đứng lên đi ra cửa, nói vọng lại phía sau lưng:

– Tôi đi đàng này có chút việc khẩn trương đây, chắc là về tối đấy.

Dù không có tiếng trả lời, Bảng vẫn bước đi…

 

 

 

 

Chương ba  *****************************************************

******************************************************************

 

 

 

Ra đến đầu ngõ, Bảng thấy một bóng người chạy xầm xập lại trước mặt. Gã quát hỏi:

– Ai đó?

– Tôi đây! Thưa ông chủ nhiệm.

– Anh làm cái gì mà chạy rầm rập như là đi ăn cướp vậy?

Người mới đến vừa thở vừa nói:

– Thật là may qúa, tôi cứ sợ đến đây mà không gặp ông chủ nhiệm thì không biết đi tìm ông ở cái chỗ nào.

Bảng mất hứng khởi khi nhìn rõ mặt người đối diện. Gã đứng chống tay ngang hông, lên giọng:

– Có chuyện gì mà anh đến tìm tôi vào gìơ này ?

– Báo cáo ông chủ nhiệm, nguy… nguy… đại nguy rồi!

– Anh nói cái gì mà ấp a ấp úng, nguy với lại đại nguy là thế nào?

Người xã viên đứng chỉ tay về hướng trước mặt:

– Báo cáo ông, cháy… cháy nhớn tại nhà kho.

Bảng xếch ngược đôi mắt lên:

– Cháy…? Cháy cái gì tại nhà kho?

– Báo ông chủ nhiệm, cháy mấy đống rơm ạ.

Câu báo tưởng chừng đơn giản hoặc trò chơi. Không ngờ, vừa nghe thủng  câu chuyện, Bảng hốt hoảng, luống cuống cả tay chân. Sở dĩ có câu chuyên bất thường này là vì, ở ngoài bắc, đặc biệt là vùng nông thôn. Rơm rạ là một đặc sản vốn dĩ qúy. Qúy vì đời nghèo, người ta dùng rơm rạ trong nhiều trường hợp khác nhau. Rơm tốt lợp nhà, rơm xấu, trộn lẫn với bùn đất làm tường. Rơm rạ nuôi trâu bò trong những ngày đồng không, cỏ cháy. Rơm rạ dùng để nấu ăn, trải ổ nằm. Do đó, sau mỗi mùa gặt, rơm rạ được xếp gọn ghẽ lại thành từng đống để phòng khi cần dùng đến.  Sau này rơm rạ trờ thành hiếm. Hiếm vì ngày trước, nó thuộc quyền quản trị của các địa chủ và nông dân. Sau này, rơm thuộc về nhà nước và do hợp tác xã bảo quản.

Sự việc bảo quản rơm rạ đã tạo cho Bảng một uy quyền ngoại hạng. Quyền cấp phát hoặc cho nhân dân vay mượn rơm rạ của nhà nước. Với lợi thế đó, Bảng mặc tình làm tội nhân dân. Chả có một hộ nào khi nhìn thấy cái nhà bị giột, bị tróc nóc mà không đến cầu lụy Bảng. Những lúc ấy, Bảng biết mình đang đứng trên một đỉnh tháp cao oai phong lừng lẫy. Nên lúc này, lúc nghe bản tin cháy những đống rơm, trách chi gã thấy người rát như phải bỏng:

– Thế là chết bỏ mẹ nhà nước rồi! Anh chạy về ngay văn phòng, đánh trống khua chiêng, hô hào cho dân chúng đến chữa lửa. Còn tôi, tôi sẽ đến sau.

– Báo cáo ông chủ nhiệm, trống với chiêng để ở đâu ạ? Nếu để trong nhà kho thì tôi không có chìa khóa. Không có chìa khóa thì chẳng ai dám vào nhà kho lấy trống ra mà đánh. Lúc tôi chạy đi tìm ông chủ nhiệm thì ở hiện trường đã có rất nhiều người tụ họp. Nhưng  đa phần là muốn chờ ông chủ nhiệm đến chỉ đạo, phân công cho các tổ đi lấy nước chữa lửa, không ai dám tự chuyên ạ.

Bảng nhìn người xã viên đến nổ đom đóm mắt:

– Chữa lửa thì ai chữa chả được, việc gì phải chờ chỉ với đạo.

– Báo cáo ông chủ nhiệm, trên đã có lệnh là bất cứ công tác nào cũng phải có chi đạo, nên chả ai dám trái lệnh!

Nghe thế, Bảng muốn ho ra máu, hét lên:

– Mà nó phát hỏa từ bao gìơ?

– Báo cáo ông chủ nhiệm, nghe nói lửa phát cháy từ chập tối ạ.

Tự dưng Bảng nổi nóng:

– Cháy từ chập tối? Giờ này còn mẹ gì nữa mà báo với bổ. Thật đúng là quân gian ác, chúng giết người không gươm không giáo.

Nghe Bảng than, anh xã viên ngớ ngẩn hỏi lại:

– Ông chủ nhiệm bảo gì ạ?

– Còn bảo với ban gì nữa, anh chạy ngay về bên đấy, hô hoán cho to lên để làng nước ra mà chữa lửa. Tôi sẽ đến ngay.

– Thưa ông chủ nhiệm, làm thế khéo mà hỏng việc ạ. Bởi vì, chưa có lệnh của ông chả ai dám vào hiện trường của hợp tác xã. Họ chỉ đứng ở ngoài hò hét thôi.

Bảng tức đến uất cả người, gã dậm mạnh đôi chân trên mặt đường:

– Tại sao lại ngu đến như thế chứ. Cúu hỏa thì cần gì phải lệnh với lạc, phân với công? Cứ việc gánh nước đến mà đổ té vào là xong.

– Thưa ông lấy thùng ở đâu ra mà gánh nước ạ? Chỉ có vài cái thùng và vài cái gàu của tập thể thì để hết ở trong nhà kho và chìa khóa thì do ông chủ nhiệm bảo quản. Chả ai dám đập gẫy ống khóa của nhà nước. Đã thế, quần chúng còn chưa biết là phải lấy nước lên từ cái ao nào mà cứu hỏa. Nên đề quyết là chờ ông chủ nhiệm đến rồi mới tính.

Càng nghe, máu nóng càng uất lên cổ. Bảng đi như chạy. Vừa chạy vừa hô tru tréo lên là cháy nhà. Dân làng ơi, mau đi cứu hỏa.

Lúc đến nơi, Bảng không nom thấy ngọn lửa cao vút lên trời như anh xã viên mô tả. Trái lại, Bảng thấy có khá nhiều người đứng lố nhố quanh khu vực nhà kho và ngọn lửa thì chỉ còn lại vài làn khói xẹp. Nhìn qua hiện trường, Bảng rất mừng. Mừng vì nhân dân ngày nay đã ý thức được tinh thần làm chủ tập thể đất nước. Họ đã ra sức bảo vệ của công cũng như của riêng chứ không ỷ lại như người xã viên vừa báo cáo. Gã nghĩ, thật không uổng công nhà nước đã giáo dục họ bấy lâu nay. Lúc nhìn lại, Bảng toát mồ hôi. Số người đến khá đông, nhưng chẳng có mấy người mang theo gàu, hoặc thùng múc nước chữa lửa. Gã bực mình, nhìn đám dân cày bằng ánh mắt đổ lửa, sau đó, lăn cao ống quần lên, bước vào hiện trường.

Con số thiệt hại sau một vòng kiểm tra làm Bảng rúng động, 11 đống cháy trụi và 2 đống cháy dở. Nghĩa là chỉ còn lại mấy đống ở ngoài xa là chưa bén lửa thôi. Bảng như người trúng tà, đứng chết lặng trước những đống tro tàn còn vương lại chút khói pha lẫn với mùi cay nồng của hơi nước. Trong khi đó, dân làng vẫn nói cười quơ tay múa chân. Rõ ràng là họ đi chữa lửa mà vui như là đi xem hội cháy rụi nhà nước Việt cộng.

Bảng hậm hực đi thêm một vòng nữa. Đầu óc bén nhậy và đầy kinh nghiệm dưới thời xã hội chủ nghĩa báo cho Bảng biết, gã không thể sai nhầm trong việc đánh gía. Rơm của nhà nước đã bị ăn trộm trước khi bốc cháy. Gã cay đắng trở lại giữa đám đông, vỗ hai bàn tay vào nhau kêu bôm bốp mấy tiếng:

– Im lặng, im lặng, mời làng nước im lặng!

Ồn ào lắng xuống, tiếng Bảng nổi lên:

– Trước tiên tôi xin cám ơn các ông các bà, các xã viên đã… tận tình cứu nguy cho tài sản của nhà nước tối hôm nay. Tuy làng nước ta đã hết lòng hết sức cứu hỏa và bảo quản tài sản chung, nhưng hiện tình ngọn lửa đã gây ra thiệt hại to nhớn cho hợp tác xã. Nhất thời, tôi chưa thể báo cáo với dân làng về nguyên do của vụ hỏa hoạn. Tuy nhiên, Bảng gằn từng tiếng một, theo dự kiến ban đầu, tôi không loại trừ gỉa thuyết cho rằng đã có kẻ xấu ra tay phóng hỏa với ý đồ phá hoại sự an ninh của tổ quốc, cũng như phá hoại của công. Vì chẳng có lý nào những đống rơm này tự nhiên phát hỏa, hoặc có người mang lửa bởi giời xuống mà đốt. Về diện kiểm tra này, yêu cầu đồng bào  bình tĩnh về nghỉ ngơi để mai còn đi lao động sớm, và tôi sẽ có đúc kết làm báo cáo sau.

Bảng vừa dứt tiếng, một tràng pháo tay nổ vang trời. Dân làng thơ thới hân hoan ra về, riêng ột mình chủ nhiệm Bảng đau tức giữa lồng ngực. Cùng lúc ấy, Bảng trông thấy Túc, tên người xã viên đến tìm Bảng đi ngang trước mặt, gã liền gọi:

– Này anh Túc. Mời anh ở lại một tý, tôi có chuyện muốn nói với anh.

Túc mau mắn lên tiếng:

– Bẩm ông chủ nhiệm có dạy bảo gì ạ?

Bảng thân thiện bảo Túc:

– Nào có dạy bảo gì đâu, chỉ tại thấy những đống rơm to như đống núi mà tro chỉ độ một nắm, nên muốn hỏi thăm anh xem có biết nguyên do tại sao thôi.

Túc không hiểu ý Bảng. Anh ta liền đáp:

– Ông chủ nhiệm nói phải. Than rơm rạ nó nhẹ lắm, có hơi nước tạt vào là tan ra ngay.

– Anh có nghĩ  kẻ xấu đến lấy trộm rơm của hợp tác xã, rồi phóng hỏa để phi tang không?

– Báo cáo ông chủ nhiệm tôi chả dám nghĩ đến việc ấy. Làm gì có người to gan dám ăn trộm rơm của nhà nước?

Bảng ra vẻ sành sỏi, chỉ tay vào đống tro tàn bảo Túc:

– Cần gì phải suy luận, cứ nhìn đống tro này là biết chắc có kẻ ăn trộm rơm trước khi lửa cháy.

– Ai lấy trộm vậy hả ông chủ nhiệm?

Bảng chưng hửng nhìn Túc, gã buông thõng đôi tay:

– Thật rõ chán! Tôi đang tính hỏi anh có nghi ai không thì anh lại hỏi tôi. Thôi anh về nghỉ đi.

– Vâng, xin chào ông chủ nhiệm.

Túc vừa quay đi, Bảng lại gọi:

– Mà này anh Túc, thong thả đã!

– Thưa ông, ông muốn dạy gì thêm ạ?

Bảng cười xã giao:

– Anh cứ thưa với gởi cho nó khách sáo xa lạ, mất tự nhiên. Ngưng lại một chút, Bảng tiếp: Nếu tôi chưa nói ra anh đã biết, sự kiện phát hỏa tối hôm nay có tầm mức vô cùng nghiêm trọng. Trước tiên, nó tiêu hủy một số tài sản của nhà nước. Kế đến, những người làm đơn xin rơm như anh bị ảnh hưởng nặng, không thể giải quyết được. Khi chưa giải quyết được, gặp trời mưa bão vợ con và bản thân anh biết lấy gì mà trú mưa che nắng. Nghĩ đến hoàn cảnh của những gia đình như anh là tôi rớt nước… mắt. Tôi đề quyết là  anh nên tiếp tay với nhà nước để tìm kẻ phá hoại. Khi tìm ra, anh là người có công sẽ được ưu tiên cứu xét giải quyết yêu cầu. Anh nghĩ thế nào?

Túc chưa trả lời, Bảng tiếp:

– Việc tìm ra thủ phạm tôi đề quyết không phải là việc khó khăn. Lý do, những kẻ ăn trộm chắc chắn chưa thể… ăn hết số rơm của nhà nước. Tôi nhờ anh đi dò xét một số hộ quanh đây, nếu anh phát hiện được chuyện gì khả nghi, anh báo tin cho tôi nhá.

Túc giãy nảy người, đứng lùi ra khỏi cánh tay Bảng:

– Báo cáo ông chủ nhiệm, từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến bây gìơ tôi chả bao gìơ làm công việc rình mò ấy. Xin ông chủ nhiệm nhờ bên công an hay xã đội họ tìm giúp thì hơn, còn tôi, xin ông chủ nhiệm cho… kiếu!

Nói xong Túc vội vàng bước đi, Bảng rất giận, nhưng không thể bỏ tù Túc vì sự kiện anh ta vừa từ chối. Đám đông đã tản hàng, khu vực nhà kho trở lại yên tĩnh, Bảng lững thững chắp tay sau lưng đi ra con đường cái. Bất ngờ, gã lặng lẽ quay trở lại khu vực nhà kho và đến ngồi nép người dưới chân một đống rơm  chưa cháy

Việc Bảng trở lại và đến ngồi dưới chân đống rơm này không phải không có chủ đích. Thói đời thường hay chờ nước đục thả câu. Nghĩa là, có kẻ sẽ nhân cơ hội cháy nhà đến hôi của. Tự nghĩ thế, Bảng ở lại chờ.  Lý luận sắc bén là thế, ai ngờ sôi hỏng bỏng không. Trộm, không có một tên nào lai vãng đến, trong khi đàn muỗi thay phiên nhau tấn công Bảng. Bảng giận lắm nhưng không thể đưa tay đập muỗi. Lý do, Bảng sợ khi đập sẽ gây ra tiếng động. Kế đến, ngồi lâu nhạt mồm. Bảng muốn hút một điếu lại sợ trộm nom thấy ánh lửa hoặc ngửi được mùi thuốc, chúng không đến nữa.

Kết qủa, khi giăng cuối mùa đã lên, Bảng mới biết mình nhầm. Nhầm vì vào lúc Bảng ngồi gác đống rơm, ngoài đường không còn lấy một bóng người qua lại. Nếu có, thì đó chính là những bóng đen chập chờn, khi ẩn, khi hiện như ma quái của cán bộ có công tác về đêm. Còn trộm đạo tìm đâu ra? Gã giận dỗi, đổ lửa hai ba lần trên cái nõ điếu trước khi rời chân đống rơm.

Ra đến đường cái, Bảng bắt đầu để ý đến những vật màu trắng nằm rải rác trên đường. Sinh nghi, Bảng cúi xuống nhặt vài cái đưa lên ngang mặt. Dưới ánh trăng không sáng lắm, Bảng vẫn quyết đoán đó chính là những cọng rơm mới. Càng nhìn, Bảng càng thấy nó vương vãi nhiều ở trên đường. Chợt Bảng đứng dừng lại, ném mạnh cọng rơm xuống đất:

– Thôi chết bỏ mẹ rồi. Tiếng là đi chữa lửa, nhưng thực ra là đi hôi rơm của nhà nước. Ối giời ơi là giời! Bác ơi là bác! Xã hội chủ nghĩa sao có nhiều người… tốt đến như thế?

Than xong, Bảng nắm chặt bàn tay đưa lên ngang trước mặt, tiếng gã rít qua hai kẽ răng:

– Sẽ không một kẻ nào thoát khỏi bàn tay chủ nhiệm Bảng này.

Dọa xong, Bảng nhíu cặp chân mày, đi theo dấu rơm rạ một lúc rồi quay trở lại con đường cũ. Con đường mà Bảng nghĩ rằng sẽ đưa gã vào một cuộc tình không có ở trên hạ giới. Đi được một lúc, Bảng nhìn trước nhìn sau rồi đứng khuất vào chỗ tối ở bên lề đường. Đôi tay của gã lần xuống phía dưới mở nút quần, trong lúc miệng gã  nghêu ngao bài kinh nhật tụng của đảng:

-”Như có Bác Hồ trong quần không cài nút,

Vừa móc ra là Bác đã… ngóc đầu…

–  Gâu… gâu… gâu!

Tiếng con Mực sủa vang làm Bảng giật bắn người lên. Gã ngưng hẳn tiếng hát và thụt lùi lại phía sau vài bước. Trong lúc vội vàng thụt lùi lại phía sau, cái vòi nước chưa kịp tắt đã tuôn ướt một bên ống quần. Bảng giận dữ nhìn vệt nước chạy dọc ống quần, rồi trợn ngược đôi mắt lên ngó con chó mực đứng sừng sững trước mặt:

– Thằng bố mày, dám hỗn với cán bộ nhà nước à?

Chửi thế là Bảng đã có đủ những toan tính, nhưng con Mực hình như  không ngán củ riềng của Bảng. Hơn thế, còn ra vẻ anh dũng như  có người chống lưng. Nó hiên ngang đứng chắn đường Bảng. Thấy vậy, Bảng liền chỉ tay vào mặt nó và kê ra một bản án:

– Hí…hí… hì… hì!… Mày… chính mày là kẻ đã gây ra biết bao nhiêu tai họa cho các cán bộ đảng viên trong khi hành nghề về đêm. Không một cuộc mò gà bắt vịt nào, không một chuyện hủ hóa nào của cán bộ mà không bị một tay mày phá vỡ. Thật là ngu, đại ngu. Đã sống dưới thời của bác, mày không biết ngậm mồm mà sống cho qua ngày lại còn to mõm phá rối. Những tội lỗi to lớn như thế, hỏi có trời nào tha, bác nào dung thứ được. Đã không dung thứ được thì tao sẽ thay mặt đảng để cho mày vài củ riềng. Hí… hì! Sống trên đời phải ăn miếng dồi chó, mai mốt thác theo bác xuống âm phủ không biết có hay không?

Mắng xong, Bảng đứng cong người thủ thế rồi dậm mạnh đôi chân trên mặt đường. Ý Bảng muốn tìm hiểu xem con Mực này thuộc hộ nào, sau đó có thời giờ rảnh rỗi, Bảng sẽ tìm đến gia chủ mà tranh thủ miếng rựa mận. Phần con Mực, mãi đến lúc này nó mới biết là gặp phải tay đối thử lợi hại, nên vội quay đầu, cúp đuôi chạy thẳng vào trong ngõ. Bảng nhìn đuổi với theo sau con chó. Lúc đến nơi, Bảng giật mình đứng lại:

– Nhầm… nhầm  nhớn! Tưởng là được miếng thịt chó, ai ngờ…

Cùng với tiếng than não ruột của Bảng, con Mực sau khi bỏ chạy vào đến trong sân,  nó tự nhiên lấy lại khí thế. Nó hiên ngang nhảy lên bậc thềm, to mồm áp dụng kế chó cậy gần nhà. Nhìn con mực hiên ngang sủa tru tréo lên, Bảng dở khóc dở cười. Đã hai ba lần Bảng dậm chân xuỵt miệng, có ý bảo cho con Mực im đi, đừng sủa như thế sẽ mất lòng nhau. Bởi vì, chủ nhiệm Bảng là bạn, là… đồng chí tốt của chủ nó, tuyệt đối không phải là kẻ thù. Tuy nhiên, con Mực giống như gà phải cáo, nhất định không nhìn, không tin chủ nhiệm Bảng là đồng chí tốt, nên tiếng sủa của nó càng lúc càng gấp rút mãnh liệt hơn.

Thường thì ở vùng thôn quê miền Bắc, các gia đình đều có một kiến trúc na ná nhau. Nghĩa là, gia đình nghèo hay phú hộ đều có một con ngõ dẫn từ ngoài đường vào trong sân nhà. Con ngõ này là một sở hữu riêng tư, được coi là bất khả xâm phạm. Kích thước của con ngõ thường dài ngắn, rộng hẹp khác nhau. Nhà giàu, con ngõ thường rộng và dài. Hai bên lối đi thì được điểm trang bằng hai hàng cau, hoặc những khóm hoa nhài hoa lý.

Phận nhà nghèo, con ngõ cũng nhỏ hơn. Và thay vì hoa nhài hoa lý, hoa hồng là những cành tre khô được đan kết lại với nhau như cái dàn để cho đậu đũa, đậu ván hoặc giây mùng tơi leo lên. Gia chủ nhờ đó kiếm thêm mấy trái đậu, hoặc bó mồng tơi cho khẩu phần ăn trong gia đình. Rồi phía ngoài đầu ngõ, cũng thường có cái cổng thô sơ để tạm ngăn chia ranh giới giữa của công và tư. Người lạ, khách đi đường, không ai đi vào trong con ngõ nhỏ riêng tư này. Trường hợp khách muốn vào thăm gia chủ, họ thường lên tiếng gọi từ đầu ngõ hoặc trước sân.

Luật lệ là thế, nhưng ở trường hợp của Bảng rất khó nghĩ. Bởi lẽ trời đã khuya, Bảng không muốn cho hàng xóm biết Bảng đến gõ cửa nhà một phụ nữ góa chồng. Hơn thế, Bảng và người góa phụ chủ của căn nhà này có hẹn hò riêng với nhau. Khi đã có hẹn, người vào cứ lặng lẽ mà vào, còn người chờ sẽ mở rộng vòng tay ra đón nhau vào… giường, chứ có ai dại dột làm ồn để tự tố cáo một cuộc hẹn hò bao giờ. Lý luận  sắc bén, vững chãi là thế, nhưng nếu không lên tiếng, con Mực tiếp tục to mồm chống đối thì Bảng không biết phải áp dụng phương sách nào.

Thật may cho Bảng, giữa lúc gã bối rối chưa tìm ra phương cách đối phó với con Mực, cánh cửa ra vào của căn nhà hé mở. Nó mở, và hắt theo ra ngoài khung cửa một thứ ánh sáng mờ nhạt với bóng hình người đàn bà đẫy đà đang cài lại cái nút áo ngực. Bảng vừa nom thấy, gã mừng run cả chân tay:

–        Ai đó?

Thay vì chạy vào, Bảng đứng khưng lại khi nghe rõ tiếng lanh lảnh của người góa phụ kia vang ra tận ngoài ngõ. Lúc đầu Bảng cho rằng đó chẳng qua là tiếng gọi hỏi bâng quơ, nhưng có chủ đích. Gia chủ nào nghe tiếng chó sủa mà không hỏi trống như thế. Nhưng khi nhìn biết ngưoì khách đến thăm là ai thì chủ nhân sẽ tự xuỵt  miệng cho chó ngưng sủa rồi ra đón khách. Tự nghĩ thế, nên ngay khi nghe gia chủ lên tiếng hỏi, Bảng vội bước nhanh vào trong sân, như có ý cho chủ nhân nhìn thấy hơn là việc Bảng phải lên tiếng trả lời. Tiếc thay con Mực lại không hiểu ý Bảng. Thấy bóng người lùi lũi đi vào, nó lại phóng ra và sủa ầm lên. Cực chẳng đã Bảng phải đứng lại.

Trong khi ấy, Lựu, tên người gia chủ, không cần mở mắt cũng biết người đang mò vào trong sân nhà y thị là ai. Thị tự mỉm cười và cố ý làm rất chậm chạp công tác ra lệnh miệng cho con chó ngừng sủa. Đến khi đẩy cửa bước ra, Lựu còn bồi thêm câu hỏi nữa:

– Đêm khuya vắng ai vào nhà tôi rình rập gì đấy?

Cực chẳng đã, Bảng phải lên tiếng:

– Tôi… tôi đây!

Tiếng Lựu reo lên mừng rỡ:

– Tưởng ai… té ra là đồng chí chủ nhiệm. Mời đồng chí qúa bộ vào trong nhà uống bát nước chè nóng đã, làm gì mà thập thò ngoài đầu ngõ thế kia?

Bảng nghiến răng, đứng chết như trời trồng giữa sân. Gã không thể ngờ sự việc xảy ra tréo cẳng ngỗng thế này. Rõ ràng Bảng có vật trao đổi rồi được mời đến tối nay như là một thượng khách. Nhưng vì lý do gì người đàn bà kia lại bẻ cong cái lưỡi?

Hỏi xong, Bảng giật nẩy người khi nhận ra cái xe đạp của Thọ dựa trên vỉa hè. Thật vô ý qúa, nếu nom thấy cái xe đap sớm hơn một tý thì chắc chắn Bảng đã co chân chuồn trước khi phải lên tiếng. Đến lúc này vào cũng dở mà đi thì không xong. Đang lúc Bảng hoang mang rối trí, Lựu bước đến bên Bảng, nói như lời trần tình:

– Anh đừng giận em nhá. Thật lòng, em chả muốn thế, nhưng tại có… thằng bí thư nó ngồi lù lù ở trong nhà, em bó buộc phải nói vài câu cho nó khỏi nghi ngờ. Anh thông cảm cho em nhá.

Bảng mất chủ động, gỡ vội tay Lựu ra:

– Nếu vậy thì để tôi… về.

Lựu chê kế của Bảng, thị nói:

– Đàng nào cũng lỡ rồi. Ta không nên tạo cho nó nghi ngờ. Anh cứ vào ngồi chơi, rồi mai mốt em cho cái hẹn khác. Khi ấy, anh muốn gì em cũng xin chiều.

Bảng tiến thoái lưỡng nan trước bài tính gọn nhẹ của Lựu. Lát sau, gã vờ nói trống không vài câu trước khi theo Lựu vào nhà. Cùng lúc, Thọ thở phào khói thuốc ra trước mặt đón Bảng:

– Đồng chí chủ nhiệm đấy à? Thật may qúa, có đồng chí đến chơi, nếu không, lát nữa tôi lại phải đạp xe đến tìm đồng chí.

Bảng chưa biết vào đề bằng cách nào, Thọ đã đẩy cái điếu sang trước mặt Bảng:

– Sao, mấy hôm rồi không gặp, đồng chí khỏe chứ? Công việc của hợp tác xã có trở ngại gì không hả đồng chí?

– Báo cáo đồng chí, tốt đẹp cả.

Một người rất giỏi trong nghề vờ vịt đóng kịch như Lựu cũng phải cúi đầu khâm phục cái tay nghề của Thọ. Lựu liếc mắt nhìn cả hai người một lượt rồi như có sẵn dự kiến, Lựu đứng quay lưng về phía Thọ, và nghiêng hẳn người về phía trước mặt Bảng để rót nước mời khách. Từ trước, Bảng đã biết Lựu là người nữ có da có thịt, lúc này, dù không cố ý nhìn, Bảng vẫn bị lôi kéo vào cái khe hở nhấp nhô trước mặt. Tự nhiên, gã nghĩ đến một ngày có thể phải vào tù. Thọ tiếp:

– Mấy hôm rồi tôi không gặp đồng chí để đi vào thảo luận.  Đồng chí đã gặp bố con ông Lục chưa?

Bảng thản nhiên trả lời:

– Báo cáo đồng chí, trường hợp này tôi thấy hơi căng đấy.

– Đồng chí đã điều nghiên vấn đề và có phương án cụ thể rồi chứ?

– Theo tôi, có lẽ ta phải hoãn lại một thời gian đồng chí ạ.

Thọ nói không cần suy nghĩ:

– Thì tôi đã tính như thế, chỉ tại đồng chí nôn nóng sợ vỡ hợp tác xã nên ta mới có quyết định sớm. Đồng chí không nhớ, chính đồng chí đã bảo tôi là nếu quần chúng nhân dân theo gương ông ta, không chịu gia nhập, hoặc xin ra khỏi hợp tác xã thì còn gì là chính sách, còn gì là nhà nước kia mà.

– Thì chính vì cái khoản ấy nó mới căng! Không mạnh tay thì sợ vỡ kế hoạch, mà làm gấp e rằng thất nhân tâm.

Nói thế là Bảng chỉ muốn đóng kịch, muốn cho Lựu hiểu rằng gã là một người đầy tình cảm, đầy nhân nghĩa. Gã không giống như những lời đồn nhảm cho rằng gã là người gian ác, là kẻ giết người không gớm tay. Không ngờ, Thọ lại nhân cơ hội này lên chân:

– Tôi biết làm thế là có nhiều khó khăn cho đồng chí lắm. Tuy nhiên, khi đảng đã đề ra chính sách, ta cứ việc nhắm mắt mà thi hành. Bởi vì ta và nhân dân khác nhau, một bên thì lo bảo vệ lấy vật sở hữu riêng tư, một bên thì phải lo xây dựng công ích cho mọi người. Như thế, khi làm việc tất có chuyện va chạm. Tình huống này đảng đã dự kiến trước, nên mới trao tay cho đồng chí con dao mã tấu. Đồng chí biết rồi đấy, con dao ấy có khác gì cái thước công lý của nhà nước. Tôi chả tin đảng muốn tặng đồng chí con dao để dùng trong việc bửa củi nấu cơm.

Nghe Thọ lên lớp, Bảng nóng mặt, gã tính bảo:

– Đéo mẹ nó, nói thuộc lòng thì ai chả nói được. Nhưng người đè cái mã tấu vào cổ nhân dân là ai? Cái tội đấu tố giết người kia ai chịu tiếng đây?

Tuy nghĩ thế, nhưng Bảng không dám lên tiếng. Gã không dám vì cái mã tấu của Vẹm, thật ra  đã đè vào cổ Bảng từ lâu rồi. Đè từ lúc Bảng vung dao trong mùa đấu tố. Việc xong thì cá nhân Bảng cũng chẳng nên giữ làm gì. May cho Bảng, Thọ chưa ấn mạnh lưỡi dao xuống là vì còn muốn lợi dụng Bảng thêm một thời gian nữa. Điều này chính Bảng cũng biết, nhưng gã không còn con đường nào khác để đi nên đành im lặng vác dao theo Thọ. Thọ tiếp:

– Thật ra trên mặt lý luận thì như thế, nhưng khi làm việc ta phải đắn đo cho có tình có lý để nhân dân được hưởng… hạnh phúc! Thọ chợt ngừng lại, nhìn sang phía Lựu: Có phải như thế không đồng chí thư ký?

Hỏi xong, không chờ người nữ thư ký cho ý kiến, Thọ tiếp:

– Do đó, riêng trường hợp của ông Lục, đề nghị với đồng chí sáng mai đến mời ông ta lên ủy ban, để uỷ ban và ông ta điều nghiên lại vấn đề. Ta sẽ mở ra con đường cả tình lẫn lý để cho ông ta lựa chọn. Đồng chí thấy ý kiến ấy thế nào?

– Tôi thì nhất trí như thế.

Thọ hí hửng, xoa đôi tay vào nhau:

– Tốt, ta cứ theo phương án ấy mà thi hành. Tối nay đồng chí về ngủ ngon rồi nhá.

Những tưởng Bảng sẽ ngoan ngoãn đứng lên sau câu chúc ngủ ngon khéo léo của Thọ. Ai ngờ, Bảng gan lỳ với lấy cái điếu cày để trước mặt:

– Còn một chuyện nữa là…

Thấy Bảng ngập ngừng, Lựu mau mắn hỏi:

– Chuyện gì vậy hả đồng chí?

– Chuyện… chuyện ở nhà kho hợp tác xã.

Vừa nghe Bảng nhắc đến chuyện nhà kho, Thọ kín đáo nhìn Lựu. Phần Lựu, giống như người có tật thì giật mình. Y thị cúi mặt xuống phía bụng thay vì ngó người đối diện, tự nghĩ:

– Thật là dại qúa! Nhà giường chiếu có sẵn mà lại vội vàng đưa nhau vào cái buồng ấy.

Nghĩ lại, có lẽ là dại thật. Bởi vì, hôm ấy, Lựu đã dặn cái Cách, tổ trưởng tổ sản xuất một, khi đi lao động về nhớ ghé văn phòng hợp tác xã nói câu chuyện riêng. Không ngờ trong lúc chờ Cách, Thọ đến. Vì đã lâu không gặp nên Lựu phải chiều Thọ. Chẳng may giữa lúc Lựu và Thọ sắp đúc kết hội diễn bài ca: Ta có bác Hồ trên giường trong buồng kín… thì Cách đứng ngoài cửa nhìn vào. Việc Cách vào đến trong buồng kín cũng khá bất thường. Trước đây Lựu dẫn Cách vào. Nay có hẹn với Lựu, lúc đến, không thấy Lựu ở gian trống, nơi làm văn phòng của hợp tác xã. Lại thấy cửa ngăn giữa nhà kho và văn phòng mở toang, nên Cách tự ý đi thẳng vào bên trong réo gọi. Không ngờ được xem phim hội diễn của Thọ và Lựu. Sự kiện đổ bể, buộc Thọ phải ngừng công tác, thúc Lựu mặc vội cái quần vào rồi ra ngoài đặt vấn đề với Cách:

– Chị vào đây làm gì thế?

– Ơ hay, chị hỏi hay nhỉ? Chị có hẹn với tôi là đến đây tìm chị mà.

– Tôi  hẹn là hẹn chị ở ngoài văn phòng chứ chẳng hẹn hò gì trong cái buồng kín này. Có phải chị lợi dụng lòng tốt và sự vắng mặt của tôi để lén vào đây lấy trộm đồ của hợp tác xã không?

Cách ngạc nhiên trước thái độ ngược chiều của Lựu:

– Chị Lựu, chị ăn nói hay nhỉ.

– Chẳng chị chẳng em gì. Chị chả nên vờ vịt nữa.

Nhìn thấy quần áo Lựu xốc xếch:, Cách bảo:

– Tôi vờ vịt? Có phải chị muốn cả vú lấp miệng em để tôi khỏi nói chuyện tập diễn bài ca của chị ra ngoài hay không?

Lựu lúng túng ra mặt, nhưng khi nghe tiếng hắng dặng của Thọ từ buồng kín. Y thị xăn tay áo lên:

– Chị ăn nói càn dở thế à? Đã lén lút vào đây với ý đồ đen tối lại còn muốn vu oan gía họa cho cán bộ nhà nước hay sao? Có cả ông bí thư ở đây làm chứng, chị có muốn đối chứng hay không?

Con Cách nghe nói đến ông bí thư là mặt xanh như tàu lá chuối. Cô ta tính nói qua loa vài câu rồi ra về cho yên chuyện. Không ngờ, Bảng xuất hiện. Bởi lẽ, chẳng phải chỉ có một mình Cách được xem phim, nhưng chính  Bảng đã thu hình từ đầu đến cuối:

– Đề nghị đồng chí để cho cô ta về và nhắc cô ta đừng có dại dột mà trống mồm.

Nói xong, không chờ ý kiến Thọ. Bảng tự ý tha tội vào nhà kho không có phép cho Cách sau khi có vài lời giáo huấn. Được tha bổng, Cách mừng như chết đi sống lại, riu ríu cám ơn ông chủ nhiệm Nguyễn văn Bảng. Phần Lựu, y thị ngượng ngùng rời nhà kho…

Câu chuyện này coi như đã có đoạn kết, bây gìơ lại tự ý nổ lớn là thế nào? Có phải vì Bảng nôn nóng rồi lập kế chăng? Tự nghĩ thế, Lựu vội hỏi:

– Chuyện nổ lớn à?

Bảng đáp gọn:

– Phải, đến nước này chả còn dấu ai được nữa.

Khi Bảng mới bước vào, Lựu cười thầm trong bụng vì cho rằng y thị là người thắng lớn. Đến lúc này, Lựu lại nhấp nhổm mất chủ động. Sự bối rối mất chủ động của Lựu bắt nguồn từ sự kiện Lựu cho là Bảng phản thùng hơn là do con Cách nói ra. Nếu đúng như Lựu suy diễn, Lựu khó mà tránh được những con mắt đầy khinh miệt của nhân dân, vốn dĩ tin rằng, Lựu được đề bạt lên cái chức thư ký, rồi phó chủ nhiệm hợp tác xã là vì Lựu thạo việc dạng… chân trên giường. Khi ấy, Lựu hơn gì cái con Bích?

Nhắc đến cái Bích là nhắc đến một mảnh gương vĩ đại của xã hội Việt cộng. Khi con Bích mới lên mười thì bố nó chết vì bệnh thương hàn. Mẹ nó tự biết một tay khó nuôi nổi vài mặt con nên đã tái gía với Đậu văn Linh. Phần lý lịch bản thân, Linh có một dĩ vãng của tuổi thơ gian truân u buồn không kém Bảng. Ngoài phần gia cảnh bi đát, Linh không có nhiều tật xấu. Tuy thế, Linh rất khó lấy vợ. Lý do, Đậu văn Linh thuộc giòng dõi vô sản, không ai muốn gả con gái cho Linh. Nên việc lấy mẹ cái Bích, bề ngoài xem ra Linh bị thiệt thòi. Bởi lẽ, mẹ Bích là gái đã có vài mặt con. Trên thực tế, phải được kể là cái phúc lớn của Linh. Vì ít ra Linh đã có một mái nhà độ thân, và có một mảnh… ruộng để bừa!

Chẳng bao lâu sau ngày về ở với mẹ con Bích, Linh được bác rỉ tai, tuyên truyền. Kết qủa, vào một chiều thu Linh cởi áo trả mẹ con Bích và thoát ly gia đình. Một thời gian sau, Linh được điều lên khu tư rồi vào nam để phục vụ đảng và nhân dân. Trước khi đi xa, Linh có về thăm nhà mấy lần.

Một trong những lần lén về thăm nhà, Linh đã theo gương bác, đứng há mồm ra để nhìn con Bích nằm ngủ trưa với lòng xã hội chủ nghĩa. Mẹ Bích bắt gặp, y thị nói mấy câu. Sau đó, yêu cầu Linh muốn cho cơm lành canh ngọt thì phải chừa cái đảng tính ấy đi. Nghe vợ lên mặt dạy luân lý, Linh chống tay lên sườn nói y như thật:

– Bà chỉ khéo lo bò trắng răng! Tôi có đứng nhìn nó, có chăm sóc hoặc có kéo cái… chiếu đắp lên mình cho nó là vì tôi đã coi nó như con tôi. Đã là cha mẹ, tôi phải biết cách thương yêu, bao bọc nó như lời đảng dạy dỗ tôi chứ. Bà tưởng người đi làm cán bộ như tôi đã mất hết nhân tính, hoặc không còn biết đến điều luân thường đạo đức nữa hay sao?

Hỏi xong Linh hậm hực bỏ đi. Phần mẹ bích tự biết đã rước sói vào nhà, bà âm thầm lo lắng bảo vệ con thay vì lời vô bổ qua lại.

Ít lâu sau, khi bà vừa dẫn đứa con nhỏ đi ăn giỗ người anh ở làng bên thì Linh về tới. Gã đã mừng vì vợ vắng nhà, trời chiều còn giúp gã bằng cơn mưa lũ. Là người giỏi tính toán, Linh bình tĩnh ngồi trên cái chõng, vừa hút thuốc vừa dòm chừng ra đầu ngõ. Đến gần nửa đêm, ngoài trời mưa mỗi lúc một thêm gào thét, trong nhà căn buồng mỗi lúc thêm lạnh. Linh tụt xuống khỏi giường, đi kiểm soát lại các then cài cửa rồi nhẹ nhàng vén màn chui vào buồng cái Bích. Sau khi nhảy lên giường, Linh ôm chặt lấy cái Bích rồi đem… bác ra bảo cái Bích ngủ chung cho nó ấm.

Tội nghiệp cho con Bích. Nó mới 14, 15 tuổi, giống như một bông hoa chưa hé nở. Nó chưa biết gì về quan hệ yêu thương với bác… râu, đã được bố ghẻ là Linh mang ra thực tập. Nó căm giận, nhưng không dám gọi ai. Bởi lẽ, phần vì con dao dí vào cổ, và phần vì … bác hiên ngang qúa. Lúc trời vừa hừng sáng, Văn Linh cho bác gỡ gạc thêm “qủa” nữa rồi mặc quần áo đứng dậy, chỉ tay vào mặt cái Bích:

– Mẹ con mày muốn sống thì im mồm. Hở ra một câu là sẽ chết không kịp trối.

Nói xong, Linh khăn gói qủa mướp chuồn ra khỏi nhà trước khi vợ gã về. Đến sau khi Việt cộng lấy được miền bắc, Bích đã lớn, y thị có quan hệ tình cảm với Đáng. Nói cho ngay, quan hệ tình cảm giữa Bích và Đáng là một quan hệ khá chênh lệch. Đáng sứng đôi với mẹ Bích hơn là Bích. Tuy nhiên, mẹ Bích không phản đối vì cho rằng Đáng là người tử tế, lại có chút tài sản riêng. Hơn nữa, Đáng lớn tuổi không lo bị sung công vào bộ đội hay thanh niên sung phong. Kịp lúc Linh áo gấm về làng, mẹ Bích báo tin vui và nhờ Linh lên ủy ban nhân dân Xuân Thủy xin làm tuyên bố cho con. Linh gỉa hoan hỷ nhận lời.

Đến buổi tối khi thấy cái Bích lén lút ra khỏi nhà, Linh có sẵn kế hoạch nên nối gót theo sau. Gã theo Bích vào tận bức vách căn nhà của Đáng ngồi chờ. Nhìn đèn trong nhà vặn nhỏ xuống như một con đom đóm, Linh qủa quyết đã đến gìơ hành động. Gã liền đốt đuốc, hô hoán lên. Người lối xóm nghe động, họ ùa tới. Linh hăng hái dẫn đầu, đạp tung cửa xông thẳng vào trong nhà. Trước ngọn đuốc sáng trên tay Linh, Bích trần như nhộng vội ôm lấy cái chiếu quấn vào người. Linh anh dũng tiến lên vả vào mặt Bích vài cái, mắng gọn:

– Đéo mẹ thằng bố mày, đồ con đĩ. Mày dám làm nhục gia đình cán bộ nhớn thế này à?

Mắng xong, Linh cho trói Bích và Đáng lại rồi kéo đi dọc làng để lên trình diện uỷ ban. Trước mặt ủy ban, Linh nhân danh một người cán bộ đảng viên trung ương Vẹm, tố cáo Bích và Đáng là những kẻ gian phu dâm phụ, làm băng hoại nền luân lý và đạo đức cách mạng. Chúng đáng bị trừng phạt để làm gương cho những người khác. Linh bảo:

– Tôi không thể vì tình cảm… cha con mà bao che cho những kẻ tội lỗi này.

Nghe lời kết tội, Bích xấu hổ cúi gằm mặt xuống đất. Lát sau, không hiểu nghĩ gì, Bích công khai thú nhận tình cảm của Bích và Đáng. Bích xin ủy ban thuận cho hai người được lấy nhau. Rồi giữa lúc bất ngờ, Bích tố cáo với ủy ban về việc Linh đã dùng bạo lực, lợi dụng chức năng là cán bộ, lợi dụng tình cảm ”cha con” giả tạo để cưỡng hiếp Bích ngay từ khi Bích mới 14, 15 tuổi. Dù bị Linh cưỡng hiếp nhiều lần, nhưng Bích sợ bị Linh giết nên không dám nói ra với ai. Nghe chưa xong lời tố cáo của Bích, ủy ban nhân dân với chủ trương là tạo hạnh phúc cho dân, nên đã thuận cho con Bích lấy Đáng. Riêng việc Bích tố cáo Linh, ủy ban không nhắc nhở gì đến và cũng không trừng phạt Bích vì cái tội cáo gian cho bạn bè của bác.

Chuyện của con Bích hoàn toàn khác với chuyện của Lựu, nhưng Lựu vẫn sợ cái kết qủa của nó giống nhau. Nếu chẳng may mà Lựu bị vợ Thọ bắt được và đẫn đi giống như cái Bích thì chẳng thà chết đi còn hơn. Tự nghĩ thế, Lựu mất bình tĩnh trách Bảng:

– Hôm ấy, chính đồng chí đã hứa…

Nghe Lựu trách, Nguyễn văn Bảng mỉm cười hạnh phúc. Gã bảo :

– Đồng chí nghĩ đi đàng nào rồi?

Lựu ngượng đỏ mặt, vội hỏi khỏa lấp:

– Thế là chuyện gì?

– Chuyện… phát hỏa tại nhà kho trước khi tôi đến đây.

Thọ liếc nhìn Lựu, gã thở ra một hơi nhẹ bỗng người. Từ nãy, trong lúc Lựu lo lắng thì Thọ đánh lô tô trong bụng. Gã vò đầu bứt tóc tự trách mình đã chèn ép Bảng qúa đỗi, để đưa đến cảnh tức nước vỡ bờ. Lúc này, đôi mắt Thọ sáng lên. Bởi lẽ, bản tin không có hại cho Thọ, trái lại, nó còn tạo cho Thọ thêm cơ hội nắm gọn tên đồng chí hay tráo trở trong tay. Thọ nhổm người dậy:

– Đồng chí nói cái gì? Cháy hết rơm của hợp tác xã rồi à?

Bảng chết nửa người:

– Báo cáo đồng chí còn vài… đống!

– Chỉ còn vài đống thôi à?

Bảng như một tử tội:

– Đề nghị đồng chí tìm biện pháp…

Thọ buông thõng bằng tiếng nói đầy thất vọng:

– Còn tìm với kiếm gì nữa. Bác đến đây cũng không cứu được đồng chí, nói chi bí thư Thọ này. Tài sản của nhà nước bị tiêu hủy quyết không phải là một chuỵện trò chơi. Trừ trường hợp…

Thọ bỏ lửng câu nói, Bảng chồm người lên định hỏi nhưng lại thôi. Gã thôi vì chợt hiểu kế của Thọ. Đó là một cái kế khá đơn giản mà trước đây nhiều lần Thọ đã nói xa nói gần cho Bảng nghe. Tình đồng chí, xử với nhau như thế là qúa bạc, nhưng Thọ là con cáo gìa, gã cứ để cái thòng lọng treo lơ lửng trong cổ Bảng. Lâu lâu, Thọ xiết sợi giây lại một tý cho Bảng khó thở.

– Trừ khi… đồng chí tìm ra thủ phạm.

– Tìm ra thủ phạm à?

– Phải!

Trả lời như thế là Thọ đã nắm rõ đầu mối. Thứ nhất, kẻ phá hoại không bao gìơ ra nhận tội. Thứ hai, quần chúng nhân dân không tố giác, kể cả trường hợp, họ biết rõ. Lý do, cháy rơm của hợp tác xã, nghĩa là cháy tài sản của nhà nước chứ không phải là của nhân dân. Nếu không phải là của nhân dân mà bốc cháy là họ mừng. Cháy càng nhiều, mừng càng nhớn. Không ngờ Bảng cao giọng.

– Việc ấy dứt khoát tôi sẽ tìm ra.

Thọ chưng hửng vì câu nói chắc như đinh đóng cột của Bảng:

– Đồng chí đã có đầy đủ chứng liệu?

– Những dấu vết rơm rạ còn rơi rớt trên đường, có lý nào tìm không ra.

– Chúng còn để lại nhiều dấu vết à?

Hỏi xong, Thọ tự mắng thầm trong bụng:

– Cái thằng này, sao làm ăn hớ hênh và ngu đến thế?

Cái thằng này là Khải, cháu của Thọ. Mấy hôm trước, Khải đến nhờ Thọ nói giúp bên hợp tác xã cho Khải mượn thêm ít rơm về lợp lại cái nhà. Thọ có nói cho Bảng nghe, Bảng trả lời:

– Hiện tình những đống rơm ấy không thể xuất được nữa, phải chờ ít nhất là sau vụ hè thu. Lý do, danh sách các xã viên chờ đến phiên được cấp phát rơm rạ đã công bố. Theo danh sách này có người đã chờ đợi ngoài hai năm.

Thọ bảo Khải như thế, nó không hài lòng. Lúc ra về,  Khải hậm hực bảo:

– Vậy, chỉ còn mỗi cách là đến ăn cắp.

– Chúng mà bắt được thì tù mọt gông.

– Bắt thế nào được mà bắt. Cứ theo sách vở mà làm, lấy một ít rồi phóng hỏa là xong.

Thọ trợn mắt lên nhìn nó, gã không ngăn cản vì cho rằng Khải chỉ mạnh mồm, không dám làm. Không ngờ, Khải liều lĩnh thế! Bảng tiếp:

– Phải, rơm rạ còn rơi rớt khá nhiều trên đường. Cứ theo dấu vết tôi dự đoán không phải một vài người.

Thọ cười nhạt:

– Lý của đồng chí hỏng nom thấy. Đó chỉ là những người đi hôi rơm, không phải là thủ phạm phóng hỏa.

– Bắt đem trả lại.

– Yêu cầu chủ yếu không phải là sự kiện bắt người đến hôi rơm khi lửa cháy, vì họ không vơ vội lấy vài nắm thì rơm cũng không còn, nhưng là thủ phạm phóng hỏa, phá hoại tài sản của hợp tác xã. Liệu đồng chí có đủ chứng liệu để bắt những kẻ này hay không? Hay là lửa lại bắt từ cái đóm của đồng chí hút thuốc cũng nên.

Bảng ngồi im như thóc ngâm, bất ngờ Lựu che tay lên miệng ngáp, Thọ hiểu ý, gã bảo:

– Mà thôi, trời cũng khuya rồi, ta phải về cho đồng chí thư ký nghỉ ngơi. Còn việc phát hỏa chiều nay, đề nghị đồng chí đưa ra ủy ban thảo luận và làm báo cáo sau. Ý đồng chí thế nào?

Câu hỏi như lời đúc kết, Bảng không dám ngồi lỳ thêm. Gã đứng dậy, Lựu kéo mớ tóc dài sang một bên vai:

– Còn sớm chán, đồng chí ngồi chơi thong thả đã.

Nói xong, Lựu đi ra phía cửa:

– Đồng chí về ngủ… ngon nhá!

Bảng đau tức giữa lồng ngực theo tiếng kêu cọt kẹt của cái cánh cửa đang mở ra. Con mực nằm trên hè, nghe tiếng động nó giật mình trở giấc, tru tréo lên vài tiếng. Bảng giận cá chém thớt:

– Đéo mẹ mày, trộm ngồi trong nhà không sủa, lại đi cắn kẻ… ngay đi đường.

 

  Đồng Cạn –  Chương 4***********************************************

*********************************************************************

 

Thời khóa biểu của ông Lục vào những ngày không đưa con Mễ đi cày rất giống nhau. Buổi sáng, sau khi lót dạ một chén cơm nguội, hoặc một củ khoai bên bếp lửa với bà là ông đứng dậy, một tay với lấy cái nón, một tay sách cái giỏ đan bằng lá cói, trong đó bà Lục đã dọn sẵn những đồ dùng cần thiết cho một ngày ra đồng của ông. Nói thì lớn, nhưng thật ra trong cái giỏ này chỉ có một cái võng cũ, một chai nước, một cái điếu cày, vài cái đóm và một nắm cơm gói trong miếng mo cau làm bữa ăn trưa cho ông thôi.

Ra khỏi cửa, ông đứng lại nhìn trời nhìn đất một vòng, nói với bà như dặn dò vài câu rồi đi về phía cái chuồng trâu. Đến nơi, ông tháo sợi giây nhợ cột mũi trâu ra khỏi cột, cuộn giây nhợ lại thành từng vòng, để khoảng cách từ tay ông đến mũi con trâu cách nhau chừng hơn một thước. Kế đến, ông tháo then cài, ghếch cái cổng sang một bên cho con Mễ đi ra. Thường thì ông đi khi trời còn nặng hơi xương, nhưng hôm nay, vì có một vài câu chuyện cần trao đổi với bà nên ông ra khỏi nhà khá trễ.

Mới dắt con Mễ đi được một quãng, ông Lục nghe có tiếng người hắng dọng, gọi hỏi từ phía sau lưng:

– Ai nom như là ông Lục đấy phải không nhỉ?

Ông Lục quay lại. Ông nhận ra người đàn bà vừa lên tiếng gọi hỏi ông. Đó là một người có tên có tuổi trước kia. Nhà bà ở giữa thôn, còn ông ở cuối xóm. Tuy hai nhà chỉ cách nhau mấy đoạn đường ngắn, họ lại ít khi gặp nhau. Họ ít gặp nhau, không phải vì ông Lục không thích gặp, nhưng vì ông Lục và người đàn bà đó không có quan hệ ngoại giao, và cũng không có quan hệ họ hàng! Tuy thế, ông Lục vẫn dễ dàng nhận ra bà vì một lý do khá đặc biệt, trong đó chắc chắn không có cái hình hài, sắc diện đã hoàn toàn đổi thay của bà vì chuyện Hồ chí Minh đã cướp được chính quyền và mò về Xuân Thủy làm mùa đấu tố. Nhưng, chính vì cái âm thanh lanh lảnh và vóc dáng cao rong rỏng của bà. Ông trả lời:

– Phải, tôi đây! Chào bà phó!

– Gớm! Giọng bà phó vút lên cao, ông cứ phó ba với lại phó hai mãi! Thời buổi này, cách mạng lên rồi, ông còn gọi cái tên ấy làm gì? Cứ gọi tôi là bà Ba cho nó gọn ông ạ!

Ông Lục chậm rãi đáp:

– Bà phó cứ nói thế! Đời người là dài, cách mạng thì được mấy nỗi! Ngày xưa khi ông phú còn sống, tôi cũng thế. Bây gìơ ông phú đã khuất núi, tôi vẫn vậy. Chả có việc gì mà phải đổi với thay.

Bà phó Ba nhìn xững ông Lục từ đầu đến cuối chân. Bà ngạc nhiên vì có đến mấy năm nay, ngay những người chịu ơn của bà trước kia, cũng chả thấy có mấy người nói với bà được một câu có tình, có nghĩa đến như thế. Trong khi, ông Lục và ông Bính, anh của bà, chỉ là chỗ bạn bè lối xóm quen biết mặt nhau hơn là có ân nghĩa riêng. Còn đối với ông phú Lộc, chồng của bà, hai người ở cách xa nhau. Sự quen biết có khi không có, nói gì đến ân nghĩa cho nhau. Nhưng lý do gì, ông ta nói câu chuyện nặng tình đến thế? Chẳng lẽ người của “họ” cứ thơn thớt để lừa mình? Hỏi xong, bà phó Ba chăm chú quan sát người đối diện lần nữa:

– Khéo mà nhầm, nom ông ta thật thà chất phác lắm, chả giống những kẻ trong hàng ngũ lừa phỉnh của nhà nước ta tý nào!.

Nghĩ thế, không có nghĩa là bà phó Ba muốn bao che cho ông Lục, cũng không phải vì bà muốn đổ lỗi cho dân làng đã nông nổi, nghi oan cho ông Lục theo việt cộng làm hại dân làng. Nhưng bà chỉ nghĩ đến cái tình cảm bộc trực của những ngừơi trong xóm thôn thôi. Họ sống chung và chẳng mấy khi lừa dối nhau. Tuy nhiên, trường hợp của ông Lục, lúc này  hơi khác. Khác bởi vì, ông Lục trên danh nghĩa được xếp vào diện gia đình liệt sỹ của nhà nước. Một diện, theo lớp cán bộ vô văn hóa từ trung ương xuống đến điạ phương, đều há mồm ra bảo rằng, đây là thành phần nòng cốt và ưu tú của chế độ. Nếu không có thành phần này thì không có cách mạng, không có nhà nước. Vì nhà nước đánh gía như thế, buộc nhân dân phải kiêng nể và bảo nhau kéo hàng rào, phân chia xã hội Việt cộng ra thành nhiều giai cấp khác nhau:

– Giai cấp… đầy tớ của nhân dân. Đây chính là giai cấp đã bần cùng hóa nhân dân, mang tai hoạ về cho đất nước. Nó bao gồm toàn bộ hàng ngũ lãnh đạo đảng và nhà nước từ trung ương đến địa phương. Chúng được định nghĩa là những kẻ đầy tớ của nhân dân, nhưng nhân dân không được phép gọi tên chúng như là gọi những đứa đầy tớ ở trong nhà. Trái lại, vào ra  phải trình bẩm còn hơn quan chức ngày xưa!

– Giai cấp… nô bộc của nhân dân. Đây là giai cấp bao gồm toàn bộ cán bộ khung, có mã tấu, có đầy đủ đặc ân đặc quyền của nhà nước ở địa phương, ở cơ sở. Chúng muốn mưa có mưa, muốn nắng được nắng! Nó chính là giai cấp trực tiếp áp đặt cái mã tấu và cái ách vào cổ nhân dân theo lệnh của những tên đầy tớ trên.

– Giai cấp làm chủ đất nước. Đây chính là một giai cấp bao gồm tuyệt đại đa số quần chúng nhân dân, từ lao động chân tay đến lao động trí thức. Vì họ là những người làm chủ đất nước nên được nhà nước xếp vào danh sách lao động nòng cốt như trâu bò. Theo đó, công điểm của giai cấp cực ưu tú này được tính ngang hàng với trâu bò, không thể ngang hàng với bác, với lãnh đạo.

– Những người không nằm trong ba giai cấp trên, được coi như thành phần bản lề của xã hội. Thành phần này bao gồm toàn bộ thân nhân của những người bị đấu tố, hoặc có con cái theo kẻ địch vào nam. Thành phần này được nhà nước ưu ái… tặng cho một mỹ từ rất lạ tai: Thành phần xấu. Một khi được nhà nước trao cho danh hiệu này thì sống cũng dở, mà chết khó nhắm mắt. Bà phó Ba là một thành viên sáng gía của giai cấp này.

Từ sự phân chia ấy, tuy sống chung trong cùng một xóm thôn, người trong thành phần này ít qua lại với thành phần kia. Họ đã bó buộc phải bỏ quên tình người bên lũy tre xanh, là một thứ tình cảm đã mọc rễ vào cuộc đời của họ kể từ khi họ có tiếng nói, kể từ khi họ làm người. Nhưng lúc này, họ phải học nằm lòng cái luân lý mới của xã hội việt cộng: Ra đường gặp người quen mà cứ ngỡ là gặp kẻ thù! Về nhà đụng đầu vợ chồng, con cái, lại ngỡ rằng gặp dò thám công an của nhà nước. Từ nền luân lý cơ bản của xã hội này, việc ông Lục muốn chùi bóng cái tình cảm cổ hủ, có từ trước thời đấu tố và cải cách trong lúc đứng nói chuyện với bà phó Ba, phải được coi là một trường hợp ngoại lệ, làm bà phó Ba vừa lo sợ vừa  cảm động.

– Cám ơn ông đã có nhời nghĩ… tốt cho chúng tôi.

– Ơ hay, bà phó nói chi lời khách sáo.

Bà phó Ba trả lời:

– Sự thật như thế đấy, tôi không khách sáo đâu ông ạ. Thời buổi này, cách mạng lên rồi, chẳng ai muốn nhắc đến chuyện ân với nghĩa làm gì? Vì có nhắc đến, cũng không thể đem ra ăn thay cơm gạo được! Phải thế không ông?

Ông Lục không hài lòng vì lời nói vừa bóng gío vừa mỉa mai cay đắng của bà phó. Ông chưa lên tiếng, bà phó Ba đã tiếp:

– Tính ra có đến vài ba năm nay tôi không gặp ông, riêng bà nhà thỉnh thoảng ra chợ có nom thấy nhau, nhưng chả kịp hỏi thăm. Ông bà và các cháu khỏe mạnh cả chứ?

Ông Lục trầm giọng:

– Cám ơn bà phó có nhời hỏi thăm, gia đình tôi cũng làng nhàng qua ngày vậy. Thế còn bên bà phó?

Bà phó ba cười ra nước mắt, đong đưa cái rổ có vài củ khoai ra trước mặt. Giọng đầy diễu cợt:

– Đây ông xem, còn được như thế này cũng khỏe chán. Nhất bác nhì giời ba  đến… cán bộ. Phần tôi, từ ngày thế gian bỗng nhiên đổi khác đến nay, nhờ ơn bác, đội ơn đảng là được cấp phát độc lập tự do ấm no để mà nói. Riêng phần cơm gạo và hạnh phúc thì ngày ngày, tất tưởi chạy quanh trên đường với cái rổ và mấy củ khoai này. Như thế, cũng là một hạnh phúc rồi, phải không ông?

Lúc đầu, ông Lục tưởng bà phó thích diễu cợt, lại giỏi ví von cuộc đời giống như củ khoai chạy vòng quanh cái rổ, ông bật cười. Nhưng đến đoạn cuối, ông nghe nó đau đớn và cay đắng thế nào ấy. Ông gượng cười bảo bà:

– Nào có riêng gì một mình bà phó phải long đong. Cả làng, cả nước đều cơ hàn, đói rách giống nhau.

Bà phó Ba buột miệng:

– Đến chán ông nhỉ?

Ông Lục ngay thật trả lời:

– Có chán cũng phải chịu bà phó ạ. Giống như con gái đã ngồi phải… cọc, còn kêu làm sao?

Bà phó chưng hửng trước lời nói không một chút che đậy của ông Lục. Bà quay nhìn con trâu, nói lảng sang chuyện khác:

– Ông đi chăn nó thế này, công điểm họ tính cho ông ra sao?

Ông Lục nhìn con Mễ, đáp:

– Nào có công điểm gì đâu bà.

Bà phó Ba nhướng cao đôi mắt vẻ kinh ngạc:

– Ơ hay, họ không tính công điểm cho ông thật à?

Ông Lục, đảo mắt nhìn quanh một vòng. Sau khi biết chắc không có người thứ ba nghe lén câu chuyện của ông sắp nói. Ông xích lại gần, nói nhỏ bên tai bà phó:

– Dấu người ta chứ dấu gì bà phó, nó còn là của tôi đấy.

Chừng như sợ bà phó ba không hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện, ông Lục tiếp:

– Thực ra thì họ đã đến thúc dục tôi nhiều lần, nhưng tôi vẫn chưa giao nộp và chưa vào hợp tác xã bà ạ. Vào sớm thì trắng tay sớm thôi, chẳng ăn cái giải rút gì. Có phải thế không bà?

Bà phó Ba lại nhìn xững ông Lục từ đầu đền cuối chân. Càng nói chuyện với ông, bà càng thấy lạ. Lạ vì bà không ngủ mơ. Hơn thế, bà đang đứng dạng chân trên mảng đất xã hội chủ nghĩa với Hồ chí Minh, ông Lục cũng thế. Nhưng tại sao ông Lục nói chuyện giống như là chuyện trong xi nê của tư bản, hay là chuyện cổ tích xưa kia thế? Chẳng lẽ sự kiện ông Lục có con trâu và mảnh vườn riêng ở dưới thời Hồ là có thật?

Lúc đầu bà phó Ba không tin, sau đó, bà chợt nhớ ra là ông Lục thuộc giai cấp liệt sỹ của nhà nước. Một giai cấp mà các loại cán bộ thường bảo là nhân dân phải hết lòng, hết sức hỗ trợ bảo quản. Nếu đúng thế, ông Lục muốn gĩư một con, chứ đến mười con cũng chẳng ai cấm. Bà phó Ba tiếp:

– Ông cứ nói thế. Gia đình ông thuộc diện gia đình có công, bà nhà lại được phong làm mẹ chiến sỹ, mẹ của cách mạng. Nhà nước đã không trợ giúp đãi ngộ thì thôi, có lý nào đến áp bức ông bà?

Ông Lục đứng thẳng người lên, nhìn bà phó:

– Xin bà phó đừng nói thế để người dân trong làng dễ xa nhau. Tôi thì có cách mạng, cách mồm cái nỗi gì. Bà nhà tôi cũng vậy. Tiếng ông Lục nhắc lại như phân trần, cứng rắn: Nếu tôi chưa nói ra, bà đã rõ. Cả đời tôi chân lấm tay bùn ở trong xóm thôn này, có đi đâu mà cần cách mạng với cách mồm. Nói ra thì bảo là tự vạch áo cho người xem lưng, nhưng thật đúng là con dại cái mang bà phó ạ. Nó đã chết mất xác, còn khoác vào cổ bố mẹ cái tội làm… liệt sỹ cho việt cộng, để cho người ta xỉa xói.

Nghe ông Lục cứng giọng, bà phó Ba giật mình, rợn chân tóc, ái ngại:

– Ông chớ nói thế. Tôi chỉ lỡ lời. Xin ông bỏ qúa cho.

Ông Lục thẳng thắn:

– Bà phó chẳng có lỗi gì, vì sự thật như thế. Nếu tôi không nói ra lời nói thật ấy thì nó cứ ấm ức ở trong lòng. Nhưng đến khi tôi nói ra, tôi biết, chẳng được mấy người tin lại còn cho rằng tôi là kẻ dối trá, gạt đời, lừa người.

Bà phó Ba nhìn ông Lục vẻ ngượng ngùng, muốn kết thúc câu chuyện sớm, ông Lục lại thở dài, tiếp:

– Thật, há miệng ra là mắc quai. Nên dân làng có hiểu nhầm, tôi đành chịu tiếng oan, chẳng làm sao mà giải thích được.

Nói thế là ông Lục đã giãi bày một phần trong những khổ tâm, khó nghĩ nằm sâu trong khúc ruột gìa của ông từ bao lâu nay. Những nỗi khổ, ông Lục thường cho rằng, sống để bụng chết mang theo. Không ngờ, ông lại đem thổ lộ ra với một người đàn bà chỉ quen mặt, biết tên, hơn là thân thiết. Tuy thế, ông Lục không hối tiếc vì sự tiết lộ này. Trái lại, ông thấy nhẹ người và bằng lòng với chính ông hơn là được bà phó cảm thông. Trong khi ấy, bà phó Ba nhìn ông Lục thêm lần nữa. Chả biết nghĩ gì, bà bảo:

– Thời buổi đến hay ông nhỉ? Họ chỉ toàn nói chuyện ốc đi bằng mồm. Trên thì bảo chính quyền là của nhân dân, dưới lại nói nhân dân làm chủ đất nước. Nhưng thực tế, tôi không hiểu nổi lý do tại sao, khi ta làm chủ đất nước mà cuộc sống vật chất đã khổ cực gấp trăm lần, nếu đem so sánh với thời thằng tây, hoặc là phong kiến xưa kia. Lại thêm cái họa, bà con lối xóm ra vào gặp mặt nhau lại tưởng nhầm là kẻ thù, chẳng có mấy người dám chuỵện trò trao đổi với nhau vài câu chuyện riêng. Nếu họ tiếp tục làm cách mạng kiểu này, không biết tương lai dân mình đi về đâu ông nhỉ?

Sau khi nhướng cao đôi mắt để nhìn cho rõ nhan xắc của người đàn bà đối diện, Ông Lục ngay thật bảo:

– Bà phó nói lời nói phải. Có tiến nhanh tiến mạnh thì cũng tiến đến cái… lỗ là cùng. Chính tôi cũng thấy như nhời bà phó nói. Thời buổi này đã khó sống, mà làng xóm, láng giềng lại nghi kỵ, ít đi lại với nhau. Sống như thế chả còn ý nghĩa gì phải không bà?

Nghe hỏi, thay vì bà phó Ba phải kiểm tra xem ông Lục có mang theo giây… ăng ten, hay là máy tình báo cho thằng Vẹm ở trong người hay không, bà đáp gọn:

– Phải!

– Có lúc tôi nghĩ họ chả nên gỉa tiếng ăn cướp thành giải phóng. Vì có làm giải phóng, có làm cách mạng như họ, người dân mình cũng chẳng ăn thêm cái giải rút gì. Bà xem, xuốt ngày vợ chồng con cái thay nhau chạy mửa mật ra, không có đủ miếng cơm cho vào bụng! Đến tối, nay họp mai hành, mốt hội thảo rút ưu khuyết điểm. Kết qủa, mới sau có mấy năm giời sống trong vùng được họ giải phóng, người dân đã hốc hác, đói rách tiêu điều như nhau. Đã thế, còn biết bao nỗi lo bo bo bên người. Có phải như thế không bà?

Bà phó trả lời không cần suy nghĩ:

– Cái ấy thì đã hẳn nhiên rồi ông ạ.

Thấy vui câu chuyện, ông Lục tiếp:

– Từ nãy gặp bà phó mải nói câu chuyện, quên chưa hỏi thăm bên bà phó lúc này sinh hoạt ra sao? Tôi có nghe tin đồn bảo rằng, nhà cửa, tài sản, ông phú thác đi để lại cho bà phó đã bị chúng tịch thu cả rồi. Có đúng như thế không hả bà phó?

Câu hỏi ngắn gọn, bà phó ra chiều suy nghĩ. Bà suy nghĩ vì thói đời thường ăn ở bạc, khi nhiều tiền lắm của, không cần gọi cũng nhiều kẻ đến cầu thân. Đến lúc lỡ xuống… giải phóng, sẽ chẳng còn một người nào để nương nhờ. Nhớ đến tình đời, bà buồn lòng, đưa đôi mắt kèm nhèm trước tuổi ra trước mặt, rồi dừng lại trên con đường vắng dẫn ra cách đồng, bùi ngùi, tóm lược câu chuyện:

– Thật, cám ơn ông có lời hỏi thăm. Nếu tôi không nói ra, chắc ông đã rõ. Ngày xưa, khi ông phú tôi còn sống, ruộng vườn thì thẳng cánh cò bay. Phần tài sản từ nhà cửa đến kẻ ăn người ở, lúc nào cũng vào ra tấp nập. Có khi nào phải lo lắng vì thiếu miếng cơm manh áo? Đến sau ngày họ về, thế gian bỗng nhiên đổi khác. Việc đổi khác đầu tiên là ông phú tôi, nhìn cảnh đời trớ trêu đen bạc, ông buồn rầu, sinh bệnh rồi quy tiên. Từ đấy cửa nhà đã vắng đi một người! Kế đến, gặp mùa cải cách ra đời. Tất cả gia sản ông phú di mệnh lại cho tôi, đều rơi vào tay họ vì cái lý do, đó là của… bóc lột từ nhân dân, nên phải trả về cho nhân dân. Ngay đến cái nhà khi ấy tôi đang ở cũng phải giao nộp cho ủy ban.

– Sự thật như thế hả bà phó?

Bà phó Ba trả lời chắc như đinh đóng cột:

– Tôi chả dám nói gian câu nào.

Ông Lục đứng thẳng người dậy:

– Vậy mà từ trước, tôi cứ tưởng đó là tin đồn nhảm. Thế rồi khi nhà cửa bị tịch thu, bà phó ở đâu?

Bà phó từ từ kể lại câu chuyện cũ:

– Nói đúng ra thì nhà nước mới lấy năm gian nhà trên thôi, còn cái nhà bếp và vuông đất bên cạnh chuồng trâu, ủy ban giao cho tôi bảo quản. Nhờ có vuông đất ấy, tôi trồng vài liếp rau kiếm sống qua ngày. Riêng về phần ruộng vườn và con trâu, nhà nước đem gia nhập vào hợp tác xã. Như thế, tôi có phần giống như một xã viên, nhưng vì tuổi gìa sức yếu không thể lao động, ủy ban điều tôi vào tổ… tổ ngồi chơi sơi nước. Rồi sau mỗi vụ mùa tôi cũng được hợp tác xã chia cho vài ba thúng thóc.

Chưa nói xong, bà phó đứng thở dài. Ông Lục nhìn lên, chừng như thông cảm cho nỗi niềm tâm sự của bà phó, một người, những tưởng là có được một đời chả biết đến chữ gian truân là gì. Không ngờ, cái đoạn kết gặp phải tay Hồ chí Minh, nên có lắm nỗi đoạn trường. Bà tiếp:

– Nếu kể ra thì  câu chuyện dài dòng lắm ông ạ, mà  có kể đến chết cũng không hết. Không biết ông còn nhớ ông chánh Khuyên không?

Không chờ ông Lục trả lời, bà phó Ba tiếp:

– Người mà cả làng cả tổng mang ơn, nhưng chúng lại lôi ra đấu tố. Sau đó đuổi vợ con ông ta đi. Khi đi, chỉ còn hai bàn tay trắng. Bà ấy phải đến nương nhờ dưới mái chuồng trâu nhà tôi một thời gian, rồi chả được bao lâu sau, bà ấy tắt thở.

Kể đến đây, bà phó ba tự ý ngưng lại câu chuyện như có ý mặc niệm cho người qúa cố. Sau đó, bà thở mạnh một hơi, tiếp:

– Nếu đem so với bên ông chánh, thì tôi còn may mắn hơn nhiều. Nhưng đến sau ngày anh tôi được thằng rể qúy đem ra đấu tố. Tôi nghĩ, mạng sống của tôi nó giống như chiếc lá vàng cuối mùa, không biết sẽ rơi rụng lúc nào. Mỗi khi bưng chén cơm lên là hai hàng nước mắt chảy ào xuống. Lúc đêm về, đôi con mắt mở thao láo mà nghe côn trùng tắc lưỡi. Gặp khi gío lạnh, tôi kéo cái chăn đắp ngang lên người, lại nhớ đến lúc bó anh tôi vào trong manh chiếu đem đi chôn. Thật là trăm đường cơ cực. Có lúc tôi đã toan tìm cái chết cho xong đời rảnh nợ. Nhưng khi nhìn thấy cái Nụ, đứa cháu duy nhất của anh tôi với một bên thương bố, một nỗi hận chồng đang dở sống dở chết, tôi đành phải gạt nước mắt mà sống. Cũng may, nhờ có cô, có cháu, tôi cũng nguôi ngoai được phần nào nỗi buồn. Nếu không, xanh… mả lâu rồi ông ạ.

Ông Lục, lòng nát như tương khi nghe kể lại khúc đoạn trường của bà phó Ba. Ông chống mạnh cây roi tre xuống đất, đứng thẳng người lên:

– Cái Nụ nó sang ở với bà phó à? Tài sản của bố nó cũng bị tịch thu hay sao?

Bà phó ba với tay, thắt lại cái khăn mỏ qụa trên đầu:

– Ông nghĩ thử xem, ai mà sống chung được với quân sát nhân ấy? Có con cái nào trên đời này dám ra tay giết bố mẹ? Họa chăng có cái ông bí thư thứ nhất ở Hành Thiện là một, đến nó giết bố vợ là người thứ hai.

Sau câu nói toạc móng chân của bà phó, không hiểu cố tình hay vô ý, ông Lục, bà phó Ba, đứng xích lại gần nhau. Họ nom giống như đôi bạn chân tình từ thuở xa xưa mới gặp lại nhau, hơn là người quen biết theo mối tình giữa làng xóm. Rồi chả ai bảo ai, cả hai đều trở về với cái gốc của làng thôn sau lũy tre xanh. Họ quyết, một lần trước khi qúa trễ. Phải cởi mở toàn bộ cõi lòng uẩn ức ra cho nhau, hơn là đóng khung thù hận. Một thứ thù hận bắt nguồn từ ngày có bác, có đảng.

Vì có bác, có đảng, ông Lục bà phó Ba mới biết đến thù giai cấp. Vì có bác, có đảng, người dân đất bắc mới biết hát bài ca người đấu tố người. Rồi nhờ bác, nhờ đảng, nhờ đường dao đấu tố tài tình của nhà nước, Việt Cộng đã chém chết được tình người sau lũy tre xanh. Chúng đã đẩy ông Lục xa bà phó. Chúng đã rạch cho máu đổ trên đồng lúa, chảy dưới nương dâu, tưới bên bờ ao, tuôn ngoài sông lạch, hoặc đọng thành vũng, khơi thành dòng trên đường phố. Để từ đó, các nhà cách mạng Vẹm mặt đỏ như vang, nhân dân mặt vàng như nghệ. Câu chuyện thật như đếm ấy đã theo gót chân di cư, xuống tàu há mồm vào nam. Nhưng mấy tay nam bộ đang nhậu ”cầu Ghềng, bà Quẹo” tiếp tục lai rai ba sợi, bảo nhau:

– ”Bọn bắc kỳ dô nam nói ba sạo. Làm gì có cảnh giết người như thế?”

Chả ai nỡ trách bà con trong nam. Lý do, không gặp mặt Vẹm, chắc chắn không thể biết Vẹm ra sao. Chưa sống với Hồ chí Minh, chưa thể biết được cái không cha không mẹ của nó. Vì ngay như ông Lục, bà phó Ba. Một người, nằm trong diện trắng đêm chờ đường dao giải phóng. Kẻ khác, được ưu ái khoác lên người chiếc áo liệt sỹ nhà nước, vẫn bị chúng lừa. Vẹm lừa bản thân ông Lục bằng cái mảnh bằng tuyên công, sau đó, nhờ tên ông để lừa người khác. Rồi bác bịp bà phó Ba bằng cái chữ khoan hồng để cướp tài sản của bà. Đã thế, ông Lục và bà phó còn trúng đòn chia rẽ của bác để xa nhau, để hận thù người đồng thôn mà cả hai không một hay biết. Mãi đến hôm nay, trước cảnh đời tàn tạ, ông Lục mới thò đầu ra khỏi cái vỏ liệt sỹ, thỏ thẻ bên tai bà phó:

– Tôi đã nhầm lớn bà phó ạ.

Bà phó Ba ra chiều cảm động, bà nói với viền nước mắt trên mi:

– Nhưng nào có phải riêng một mình ông và tôi bị gạt.

Ông Lục thấm đòn, ngước mặt nhìn trời:

– Đúng thế bà ạ. Cả nước ta đã bị chúng lừa.

Sau tiếng đấm ngực ăn năn, ông Lục nhắc lại câu chuyện cũ:

– Hồi nãy bà phó nhắc đến cái Nụ tôi mới nhớ, câu chuyện ấy ra làm sao vậy bà phó? Lúc trước tôi có nghe ông Bính nhất định không chịu gả cô ấy cho… chủ nhiệm Bảng, sau đó lại thấy làm lễ tuyên bố?

Bà phó Ba cắt ngang tiếng chủ nhiệm Bảng của ông Lục:

– Chuyện này kể ra thì dài lắm ông ạ. Khi anh tôi còn sống, có mấy đám khá gỉa cho người mai mối đến xin cháu. Anh tôi có ý thuận và tôi đã hết lời khuyên bảo, nó nhất định không ưng, lại đi ưng cái thằng… Bảng. Rút cuộc, tự rước lấy họa vào người.

Nói được mấy câu, chừng như uất nghẹn, bà phó Ba ngưng lại, lấy bàn tay gầy guộc kéo miếng khăn mỏ qụa cột ngang dưới cằm lên lau mặt. Ông Lục nom thấy, vội quay đi nơi khác:

– Thật là tội cho cô ấy và tội cho ông Bính.

– Nói cho ngay thì cũng tại nó một phần ông ạ.

– Bà nói như thế, khéo mà oan cho cô ấy.

– Không rước chó… sói vào nhà, có khi nào chủ bị cắn. Thật, bà phó Ba chép miệng thở dài, nửa thì tôi thương nó, còn một nửa lại giận.

– Bây gìơ cô ấy còn ở bên bà không?

– Không ông ạ, cháu chỉ chạy đi chạy về thôi. Lúc sau này, ủy ban đến đặt vấn đề với tôi. Họ bảo là tôi cố ý phá hoại tình cảm của gia đình cán bộ, nên tôi buộc lòng phải khuyên cháu về. Về để giữ lấy cái nhà, kẻo mất hết ông ạ.

Ông Lục buột miệng:

– Như thế chắc không ở với nhau được lâu.

– Chả nói dấu gì ông, cháu nó đã tính đến việc thôi nhau và xin chia cái nhà, nhưng ủy ban không thuận.

– Họ không thuận?

– Thuận thế nào được mà thuận. Vì thuận cho nó ly dị, có khác nào chửi bố cái chính sách cải cách đã giết bố nó.

– Sao bà không khuyên cô ấy tìm lý do khác?

Bà phó Ba trả lời ngay:

– Chả còn lý do nào khác.

Ông Lục buông xuôi câu chuyện:

– Giày dép có đôi, con người ta có số phải không bà?

– Ông nói thì tôi biết vậy. Riêng tôi, tôi chả tin.

Sợ bà phó hiểu nhầm ý của mình, ông Lục bình tĩnh cắt nghĩa thêm:

– Bà nói cũng phải, sự thường thì giày dép có đôi, con người ta có cái số. Hay nói đúng ra, lẽ ở đời ăn ở với nhau là có nhân có qủa. Nhưng từ lúc họ về thì mọi chuyện đã tự nhiên ra khác. Khác vì cái luân thường đạo đức của cha ông, họ bắt bỏ đi, rồi thay vào đó là cái đạo đức và nền văn hóa với con dao làm thước đo công lý. Do đó, kẻ đáng chết chém thì lại ngồi ngất ngưởng trên cao, và người nên còn thì lại mất. Ngưng lại một chút, ông Lục tiếp: Còn như tôi với bà đây, có khác gì cái lá vàng lắt lẻo trên cây, chả đáng nhắc nhở đến làm gì.

Nghe thế, bà phó Ba ra vẻ thất vọng:

– Đến như ông thuộc diện gia đình liệt sỹ còn lo sợ chúng. Nhân dân và nhất là những thành phần như tôi thì cứ gọi là con cá nằm trên thớt. Phải thế không ông?

Ông Lục nhướng cao đôi mắt nhìn bà phó rồi im lặng. Ông im lặng vì đã không tìm ra câu giải đáp thỏa đáng, lại cũng không thể lên tiếng trách bà phó Ba cố tình nói nhời phân rẽ, làm tan vỡ khối tình xóm thôn! Phần bà phó, sau khi biết mình vô ý, nhắc lại lời nói với người không nên nói, bà ngưng bặt.

Cùng lúc ấy, một ngọn gío sớm thổi lướt qua, làm tung bay giòng tóc bạc của bà phó dưới vành nón rách. Bà Phó mỉm cười như thẹn, cài lại mái tóc và dõi đôi mắt mơ tuổi… sáu mươi theo con đường cũ. Con đường vắng lặng, không một bóng người qua lại. Bà tủi lòng, cúi nhìn xuống đôi bàn chân giao chỉ. Bà chỉ thấy làn da nhăn nheo, đen xạm, bám trên mặt đường. Bất giác, bà tắc lưỡi nghĩ thầm:

– Chả còn xót lại một chút hình bóng nào của một bà phó năm xưa.

Bà phó Ba đánh gía về mình đúng lắm. Vì khi nhìn lên, khuôn mặt không phấn, không son của bà chỉ còn lại một dung nhan tàn tạ với da mồi tóc bạc. Ngay ông Lục, nếu không nhớ đến cái âm thanh lanh lảnh của bà, chắc chắn ông không dám tin, người đang đứng trước mặt ông, chính là một bà phó Ba vang bóng một thời năm xưa. Ông không tin, vì lúc này, ông không thể tìm ra bất cứ một dấu vết nào trên người bà, để khả dĩ chứng minh, bà phó Ba đã là người của một thời hương xắc vàng son.

Về hương sắc? Có lẽ bà phó Ba chỉ xấp xỉ tuổi ông, nhưng tuyệt nhiên ông không thể nhìn ra được bất cứ một nét nào gọi là… khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”. Trái lại, cái tàn tạ, cái nếp nhăn của thời gian đã áp đặt trên khuôn mặt và thân xác bà bằng những đường nét sắc sảo, táo bạo. Đến vàng son? Chịu! Ông Lục không thể tìm thấy gì ngoài những miếng vá khác màu, chằng chịt từng lớp đè lên nhau trên lớp quần áo màu nâu xòng, bạc phếch, khoác trên tấm thân gầy héo của bà.

Bấy nhiêu thứ vẫn chưa làm ông Lục hết nghi ngờ về chữ đài các của bà. Ông cẩn thận kiểm tra lại lần nữa. Ông Lục mừng rỡ, reo vui ánh mắt đặt lên cái khăn đen vấn trên đầu bà phó Ba. Ông tin rằng, đó chính là một cái khăn nhung. Một loại khăn biểu tượng cho giàu sang, cho đài các và cho một giai cấp bị nhà nước đấu tố. Nhưng khi nhìn lại, ông cho đó là sự khắc nghiệt, là thù hằn hơn là đài các. Bởi vì nhờ cái khăn tung chỉ rách mép viền ấy, mái tóc bạc trước tuổi của bà phó ba được che bớt lại. Như thế, nó cũng dấu bớt một phần tội ác của Việt cộng, là kẻ đã tạo ra những mái tóc qúa sầu thảm trước tuổi đời cho nhân dân. Việt cộng phải cám ơn cái khăn nhung ấy mới là đúng sách.

Đến khi nhìn xuống, ông Lục xót xa bắt gặp đôi cánh tay gầy trơ sương với làn da nhăn nheo đen xạm của bà phó thay vì được thấy đôi tay ngà ngọc với những ngón thon dài bên màu son đỏ chói. Rồi sầu hơn thế, cánh tay để trần kia lại không quạt điều phe phẩy kiểu cách, nhưng choàng qua ôm hờ hững lấy mép cái rổ, trong ấy đựng vài củ khoai, như ôm lấy cuộc đời còn lại của mình.

Thấy thế, ông Lục lắc đầu chán nản. Ông tủi cho phận của bà phó. Đến khi nhìn lại đời mình, ông thấy cũng chẳng hơn gì. Nếu bà phó Ba tự hào vì nhờ bác, bà có được cái tang thương bi đát như ngày hôm nay. Ông Lục, lại hãnh diện vì nằm trong danh sách gia đình liệt sỹ của nhà nước, để ông có được lắm điều hơn người.

Về phần vóc dáng, năm nay ông Lục mới ngoài năm mươi, nhưng bộ vó của ông không còn ăn khách chút nào. Trước hết, mái tóc của tuổi hai mươi gìơ đã trắng qúa nửa, và hàm răng chỉ còn có… lợi. Kế đến, hai bên mí mắt sụp đổ xuống, trong khi cái gò má lại có khuynh hướng nhô cao lên như đỉnh núi. Rồi điểm trang cho cái dung nhan cuối mùa của ông, là một cái nón lá rách vành đội trên đầu. Nhìn nó, ai cũng biết, nó đã có một qúa trình tranh đấu với gió mưa lâu dài, nhưng vẫn chưa được nghỉ ngơi!.

Về phần trang sức. Bộ quần áo ông đang mặc trên người đã phô diễn toàn bộ ý nghĩa của mỹ từ gia đình liệt sỹ, nhà nước ban tặng cho ông làm vốn. Đó là một màu nâu, một thứ màu vốn dĩ không bắt mắt, không gợi hứng, lại trải qua nhiều giai đoạn nắng mưa, lớp màu nâu nguyên thủy không còn thấy trên lớp quần áo của ông. Thay vào đó, một màu nâu pha sắc trắng với những lớp hoa nở rộ theo bàn tay vá may khéo léo của bà Lục. Hầu như chả còn một nơi nào giữ vững được cái thân vải lúc ban đầu. Như thế, nếu đem so sánh, ông Lục vẫn tích cực với chế độ hơn bà phó. Lý do, bà Lục rất giỏi trong nghề vá, bà vẫn phải để cho một bên cánh tay áo của ông lìa đời. Càng nghĩ, ông buồn tủi. Ông muốn bước đi hơn là đứng lại truyện trò với bà phó. Ông bảo:

– Thế mà trời cũng sắp trưa rồi đấy bà phó ạ.

Bà phó Ba giật mình, ngửa mặt nhìn lên. Mặt trời đã nhô cao trên tầm mắt, cái bóng của bà đổ xuống bên đường đã thu ngắn lại, bà bảo:

– Chóng qúa ông nhỉ? Trưa thật rồi. Thôi, tôi phải đi đàng này một tý, và để cho ông còn ra đồng kẻo muộn. Còn chuyện? Có nói cả đời cũng không hết. Ông về, nhớ cho tôi gởi lời thăm bà nhá. Hôm nào rảnh, tôi sẽ ghé lại thăm bà sau.

Ông Lục trả lời ngay:

– Phải, hôm nào mời bà phó lại nhà.

Bà phó Ba nhắc lại:

– Thế nào tôi cũng đến, thôi ông đi nhá.

Họ nhìn, rồi bước đi ngược chiều nhau. Đi được mấy bước, cả hai cùng ngoái cổ lại phía sau lưng. Trong ánh mắt của ông Lục, của bà phó Ba, không có niềm vui, nếu như không muốn nói, nó như chỉ có một nỗi buồn thảm của ngày tiễn biệt. Bất chợt, một tiếng thở dài làm nhói đau trong lòng ông. Ông nhớ đến cụm từ độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc của nhà nước. Nó không khác gì bó cỏ tươi được kéo rề rề trước mặt con trâu đói. Vì đói, trâu muốn cúi xuống gặm mớ cỏ, nhưng cái cày vẫn trì nặng trên lưng nó. Nó trì thân, kéo thêm một bước, bó cỏ lại chừng như cách nó xa thêm một bước. Rốt cục, con trâu bị gục xuống trên luống cày chưa xong.

Nghĩ đến đây, ông Lục thấy người lảo đảo, rồi hoa nắng như nổ tung trước mặt, ông gượng thêm những bước nặng trong nỗi im lặng cô đơn. Nhớ lại, trước đây ông đã tự hào, cho mình là người khôn ngoan, biết áp dụng câu châm ngôn bụng cứ rốn vào cuộc đời của ông. Lúc đó, ông coi nó là một chân lý, là một cây kim chỉ nam cho con người sống dưới chế độ cộng sản, nên ông đã gỉa điếc, giả mù trước những việc làm và lời nói của việt cộng. Lúc này, qua câu chuyện với bà phó, ông Lục mới giật mình để biết: Khi ông áp dụng câu châm ngôn ấy vào đời của ông, nó trở thành một điều tai họa cho ông hơn là một điều phúc.

Họa vì, giữa lúc dân làng nghi kỵ ông theo việt cộng làm hại làng xóm, ông đã không có một lời giải thích, còn ngậm miệng nhận cái mảnh bằng liệt sỹ và danh hiệu gia đình cách mạng của chúng. Bấy nhiêu đã qúa đủ để dân làng đánh giá và xa ông, vợ ông còn đeo vào cổ cái danh hiệu là mẹ chiến sỹ, mẹ cách mạng nữa mới là chết. Lúc này có hối cũng là bất cập.

– Thật là ngu qúa.

Ông Lục buột miệng với chính mình khi cột cái võng vào thân cây trong bụi tre ở cuối cánh đồng, nơi ông tự coi như là căn nhà thứ hai của ông. Nhưng tiếng nói chưa dứt, ông đã giật nẩy mình quay lại phía sau:

– Chào ông. Thật là may qúa. Tôi đến nhà tìm ông nhưng không gặp, lại nghe bà bảo ông đã giắt trâu ra đồng, nên tôi vội vàng chạy ra đây tìm ông ngay.

Nghe nói, ông Lục buông thõng một đầu giây rơi xuống đất. Ông nhìn chằm chặp vào khuôn mặt người xã viên thân tín của Bảng:

– Có chuyện gì vậy chú?

Kiệm nghiêm trọng trả lời:

– Báo cáo ông, tôi đến truyền đạt lệnh của ủy ban. Mời ông lên ngay văn phòng ủy ban có chuyện cần.

Ông Lục cho tay vào túi kiểm tra xáp thuốc và cái đèn bật:

– Chuyện cần à?

– Báo cáo ông, tôi không được rõ cho lắm, chỉ nghe ông chủ nhiệm truyền như vậy. Xin mời ông về ngay cho.

– Cám ơn chú đã báo tin! Chú cứ về trước đi, tôi thong thả ăn điếu thuốc rồi về sau.

Thay vì bước đi, Kiệm xếch ngược đôi mắt nhìn ông Lục. Tuy là một kẻ theo voi hít bã mía, nhưng Kiệm lại tự cho mình là người có tầm vóc ngang hàng với thủ tướng Việt cộng. Do đó, gã tỏ vẻ khẩn trương, làm như ông Lục không đứng dậy đi theo gã thì sẽ… chết với gã:

– Không được đâu ông ạ. Như vậy e chậm trễ công việc của ủy ban và chính tôi cũng bị khiển trách vì không truyền đạt lệnh khẩn cho ông. Trường hợp, ông muốn cho con trâu ăn thêm mớ cỏ. Ông cứ về, tôi sẽ ở lại hoặc gởi người đến trông chừng cho ông.

Ông Lục nhìn Kiệm, người ông chẳng thương chẳng ghét, chỉ khinh. Tuy nhiên, bảo ông trao con Mễ cho Kiệm trông chừng chắc ông không dám, nhưng phải theo Kiệm về ngay ông lại không muốn. Tự nghĩ thế, ông Lục ngồi bệt xuống trên miếng mo cau đặt dưới gốc tre. Ông nói trống không trong lúc tay vê bi thuốc cho vào cái nõ:

– Mời với mọc gì mà mời mãi thế.

Tuy nói thế, nhưng thật ra ông Lục đã biết rõ cái lý do mà ủy ban muốn mời ông. Lúc đầu ông tính không đi, vì chuyện đâu còn có đó, không việc gì phải vội vàng. Nhưng không hiểu suy tính gì, ông đứng dậy, toan tháo sợi dây cột võng ra khỏi gốc tre thì Dụng, con ông, ra tới. Nó bảo:

– Thôi, bố để con coi chừng con trâu cho. Bố về, lên ủy ban ngay đi. Từ sáng đến gìơ, họ nhắn mấy tin rồi. Mẹ con ở nhà không biết là có chuyện gì nên xốt ruột lắm.

Ông Lục nhìn Dụng, hỏi lại:

– Họ có đến nhà à?

– Phải, thôi bố về đi.

Bất đắc dĩ, sau khi dặn dò con vài câu cho có lệ, ông Lục quay gót. Khi vừa đặt đít xuống trên cái ghế trong văn phòng ủy ban, Bảng rồi Thọ, vào thẳng vấn đề:

– Trước hết, ông phải làm một lá đơn, xin đem con trâu và mấy sào ruộng gia nhập vào hợp tác xã. Theo đó, con trâu được tính theo điểm lao động chính và ông sẽ là người được hưởng công điểm của nó. Phần bản thân ông, Bảng cho biết:

– Ông đã gìa, không thể là lao động chính. Tuy nhiên, chính sách của nhà nước là tận dụng mọi nhân lực, không để lãng phí sức lao động của nhân dân. Và theo yêu cầu công bằng của xã hội, ủy ban và hợp tác xã nhất trí điều ông qua tổ chăn nuôi theo diện lao động phụ. Nhờ ông phụ trông coi, chăn dắt trâu bò cho nhà nước.

Bảng ngưng lại lấy hơi, Thọ tiếp:

– Trường hợp ông không làm đơn xin gia nhập hợp tác xã, đây sẽ là lần cuối cùng ủy ban có thảo luận với ông. Mọi hậu qủa xảy ra sau này, ông hoàn toàn chịu trách nhiệm. Riêng ủy ban, tự coi như ông không có tên trong danh sách hộ khẩu ở Xuân Thủy.

Ông Lục chưa biết tính toán công việc ra sao, Bảng tiếp:

– Việc gia nhập hay không, tùy ông lựa chọn, ủy ban không ép buộc. Tuy nhiên, thằng Dụng con ông đã tới tuổi đăng ký thi hành nghĩa vụ quân sự. Ông chả nên động viên nó ở nhà để trốn nghĩa vụ.

Ông Lục quắc mắt lên nhìn Bảng một cái, rồi im lặng. Đến khi ra khỏi văn phòng ủy ban, lòng ông Lục thấy ảm đạm theo từng dấu chân nặng nề. Đi giữa nắng mùa hè, mà ông ngỡ là ngày băng tuyết rơi. Rồi thay vì đi về nhà cho bà Lục biết tin, ông đi thẳng ra cánh đồng. Đến nơi, thấy Dụng đang nằm ngủ trưa trên cái võng. Ông lặng lẽ ngồi xuống trên miếng mo cau làm hơi thuốc lào. Một lúc sau, ông lấy tay lay nhẹ trên cái võng đánh thức Dụng. Dụng giật mình, ngồi dậy hỏi:

– Bố về rồi à?

Ông Lục ậm ừ gật đầu, Dụng tiếp:

– Họ mời bố lên ủy ban có chuyện gì không?

Ông Lục nhìn Dụng, trả lời cho qua chuyện:

– Cũng… chẳng có gì quan trọng lắm.

Dụng đứng hẳn xuống đất:

– Chắc lại chuyện con trâu và sào ruộng?

Ông Lục không dấu diếm:

– Chứ làm gì còn chuyện nào khác.

– Bố trả lời họ ra sao?

– Khất lại mấy ngày nữa rồi hãy tính.

– Vậy cũng được.

Nói xong, Dụng ngồi xuống trước mặt ông Lục. Ông Lục nhìn Dụng một lần thật kỹ lưỡng rồi hỏi:

– Con đã đăng ký nghĩa vụ chưa vậy?

Dụng ngạc nhiên nhìn ông:

– Nếu tính hạn, thì qúa mấy tháng rồi, vì thường trước 17 tuổi là phải đăng ký. Nhưng trường hợp của con, theo lệnh của nhà nước và nhời của ủy ban lúc trước thì được miễn.

Ông Lục hỏi như người ngủ mơ:

– Họ có hứa như thế à?

– Có hứa mà.

Ông Lục choáng váng, mở bừng hai con mắt:

– Thế mà bố quên ắng câu chuyện ấy. Thôi con đi về, gánh cho mẹ con vài gánh nước tưới liếp rau, chiều bố về.

Dụng bước đi với nhiều thắc mắc trong lòng. Trong khi đó, ông Lục tự hỏi:

– Có phải trời sắp mở cuộc dông bão để xóa bỏ hẳn hình dạng trơ xương, cũng như bóng dáng của con trâu, của cái cày và cái nón rách bạc màu của ông ra khỏi cánh đồng cạn này chăng?…

 

 

Đồng CạnChương 5********************************************************

****************************************************************************

 

Chiều đến, ông Lục lững thững dắt trâu về nhà. Trong lúc chân ông bước từng bước chậm chạp trên con đường mòn cũ, lòng ông không quên nhẩm lại từng lời của Thọ, Bảng trong cuộc gặp gỡ buổi sáng:

– Cái ấy thì tùy ông quyết định lấy, nhà nước không thể quyết định thay cho ông được. Tuy nhiên, trong hiện tình của ông bà, ủy ban đã xét đến hai phương án cho ông lựa chọn. Một là thằng Dụng khỏi phải đi thi hành nghĩa vụ quân sự. Hai là ông giữ lấy con trâu và sào ruộng làm… vốn, và ủy ban coi như ông không có tên trong hộ khẩu của xã. Ngoài ra, chả còn phương cách nào khác.

Sau lời cuối của Bảng, ông Lục lủi thủi ra khỏi văn phòng ủy ban. Khi đi, đầu ông cúi gằm xuống đất như sợ phải nhìn thấy ánh sáng mặt giời, mà tai ông vẫn nghe rõ tiếng cười đắc thắng của Bảng đuổi theo lưng ông. Ông uất ức, dằn mạnh gót chân xuống trên đường. Kết qủa, cái dậm qúa mạnh làm đau thêm đôi bàn chân.

– Chào ông ạ.

– Không dám…

Ông Lục giật mình đứng lại, trả lời theo một phản ứng tự nhiên. Đến khi nhìn lên, người vừa chào ông đã đi khuất trước mặt. Vì trời tối, ông không biết người vừa chào ông là ai. Ông lại tiếp tục cất bước và không thắc mắc gì đến những lời chào hỏi tương tự.

Trong khi ấy, đứng nhìn trời chiều đã ngả hẳn về tây, bà Lục thêm sốt ruột. Bà sốt ruột, không biết lý do gì ông Lục đã về qúa trễ. Nhớ lại buổi sáng, sau khi ông Lục dắt trâu ra khỏi nhà chưa được bao lâu, xã viên Kiệt đến tìm ông và cho bà biết, uỷ ban muốn mời ông lên trụ sở có chuyện cần gấp. Khi nghe Kiệt thông báo, bà Lục không một thắc mắc về lệnh mời. Bà tỏ vẻ dửng dưng nhìn anh xã viên, sau đó, trả lời cho có lệ. Trước thái độ khinh khỉnh của bà Lục, Kiệt không hài lòng. Gã bỏ đi một lúc, rồi quay lại nhà bà Lục với dáng điệu như… thủ tướng Việt cộng. Bà Lục bực mình bảo Kiệt:

– Tôi đã bảo anh, ông nhà tôi đưa con trâu ra đồng cho nó kiếm miếng cỏ. Anh muốn dạy bảo gì thì chờ đến tối, hoặc ra đồng mà kiếm. Còn tôi, tôi chẳng biết ông ấy đi đâu mà chỉ cho anh.

Tuy nói cứng, nhưng sau khi Kiệt đi khỏi, bà Lục không yên tâm. Bà dục con ra đồng coi chừng trâu cho ông. Qua trưa, Dụng trở về. Nó nói với bà câu được câu mất, bà không hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao. Từ đó, bà có ý trông ông về sớm. Ai ngờ càng chờ, càng thấy trời mau tối. Lát sau, bà Lục lần bước ra đầu ngõ, rồi tiện đường, đi thêm một quãng. Đến khi trời tối hẳn, bà mới trông thấy bóng mờ mờ và nghe bước chân con Mễ nặng nề gieo trên đường. Bà vội đôi chân đến bên ông Lục:

– Sao ông về trễ thế?

Cả đời ông Lục chả nói dối vợ câu nào, hôm nay ông bảo:

– Trễ lắm rồi hả bà? Tại tôi dở nói câu chuyện với bà phó.

Bà Lục tin ngay:

– Ông gặp bà phó à, bà ấy có khỏe không? Có đến hơn năm nay tôi không gặp bà ấy. Không biết sinh hoạt của bà ta thế nào?

Ông Lục trả lời:

– Khỏe, khỏe lắm! Bà ấy gởi lời thăm bà và hứa hôm nào rảnh sẽ đến chơi. Còn sinh hoạt của bà ấy, thong thả rồi tôi sẽ kể cho bà nghe.

Nối gót theo ông Lục vào đến trong sân, bà Lục chép miệng:

– Nghĩ đến tội cho bà ấy, ông phú vừa nằm xuống là trắng tay. Mà chuyện người ta tịch thu hết ruộng đất, rồi đuổi bà ấy ra khỏi nhà có thật không hả ông?

Ông Lục ghé sát bên tai vợ:

– Có thật đấy bà ạ. Lúc trước nghe tin đồn, tôi không tin. Hôm nay gặp mặt, chính bà ấy nói tôi mới tin. Mới chỉ có vài năm, nhưng nom bà ấy khác xưa nhiều lắm. Tóc tai thì bạc trắng, hình dạng gìa yếu hom hem lắm. Nếu không nhìn kỹ, chả ai nhận ra.

Bà Lục nguýt yêu chồng:

– Thì ông nhìn lại… tôi với ông đây xem, có hơn gì?

Ông Lục ngước nhìn bà một cái rồi dắt trâu vào chuồng. Xong việc, ông quay gót. Bà Lục, bước theo sau lưng ông:

– Sáng nay ông lên ủy ban có chuyện gì không?

Ông Lục trả lời cho qua chuyện:

– Thì cũng vẫn chuyện con trâu và sào ruộng.

– Ông trả lời họ ra sao?

Thay vì nói cho  bà nghe câu chyệnt, ông Lục dợm chân đi đến bên chum nước. Ông cởi áo ra máng lên đầu cái cọc. Một tay với lấy cái khăn mặt đã sờn mép và bạc màu máng trên giây phơi. Một tay cầm cái gáo, múc vài gáo nước đổ vào trong cái thau đồng. Đây là cái thau ông đã dùng mấy chục năm nay. Nó là của hồi môn, bên nhà gái cho ông trong ngày ông cưới bà Lục. Đến nay, nó không còn giữ nổi hình dạng và màu sắc như lúc ban đầu. Tuy thế, ông Lục vẫn thích dùng cái thau nhiều kỷ niệm ấy để rửa mặt.

Trong khi ấy, bà Lục trải cái chiếu cói xuống trên nền nhà, rồi trịnh trọng đặt mâm cơm lên đó. Trên mâm cơm xã hội chủ nghĩa sau một ngày dài lao động, chỉ thấy một màu thanh đạm. Mấy qủa cà ghém, bát canh rau đay, vài con cá nhỏ kho mặn, và nồi cơm qúa một nửa là ngô khoai. Tuy thế, ông Lục thường ăn rất ngon miệng. Nhưng chiều nay, rõ ràng ông Lục không một hứng khởi khi nâng bát cơm lên. Cử chỉ khác lạ của ông Lục khó qua đôi mắt tinh tế của bà. Bà Lục nhìn ông lo lắng.

Bất ngờ, sau chén cơm tẻ nhạt, ông Lục bỏ chén đũa xuống chiếu, chống tay đứng dậy. Ông đến bên cái chõng kê gần lối cửa ra vào, bẻ lấy cái tăm trong ống tre cho vào miệng. Ông hút điếu thuốc, uống hớp nước rồi lặng lẽ bước ra sân. Ông đi về phía đầu hè, đứng bên liếp rau, dõi đôi mắt nhìn về cuối chân trời xa. Lòng ông ngổn ngang với muôn nghìn mối thắt. Phần bà Lục, thu dọn chén bát xong. Một tay bưng bát nước, một tay cầm miếng trầu đi ra cửa. Bà giật mình khi nhìn thấy dáng ông đứng lặng lẽ như một triết nhân bên sau vườn. Bà hắng dặng một cái, lần bước đến, tiếng nói pha lẫn lo âu:

– Ông thấy trong người không khỏe à?

Ông Lục quay lại chưa trả lời, bà tiếp:

– Nếu ông thấy trong người không khỏe, từ ngày mai ông giao công việc đồng áng, con trâu lại cho thằng Dụng để nó tập làm tập ăn. Còn ông, dùng thì gìơ mà nghỉ ngơi. Tuổi ông lúc này đã cao, lại thêm cảnh sớm hôm lặn lội, tôi không được an tâm.

Ông Lục nhón gót quay trở lại:

– Nào có vất vả gì đâu mà bà phải lo. Thằng Dụng nó còn ở nhà hay đi sinh hoạt rồi?

– Nó đã đi từ lâu.

Ông Lục cứ suy đi tính lại, xem có nên nói cho bà Lục nghe câu chuyện buổi sáng hay không? Nói sớm thì nhức đầu sớm, chẳng có lợi gì. Ông nghĩ như thế và quyết định dấu bà cho đến khi nào không dấu được nữa, ông mới nói. Nhưng linh tính của bà Lục như báo cho bà biết có chuyện chẳng lành, bà nối gót theo ông:

– Ủy ban họ tính sao hả ông? Mình dứt khoát phải giao nộp con Mễ và gia nhập hợp tác xã à?

Ông Lục ngồi xổm trên vỉa hè gần lối cửa ra vào, tiếng ông rời rạc:

– Tuy là của đau, nhưng thật ra tôi không lo về chuyện con trâu và sào ruộng. Tôi chỉ lo cho cái thằng Dụng.

Bà Lục nhướng cao đôi mắt nhìn ông hỏi lại:

– Ông chỉ lo cho cái thằng Dụng?

– Phải. tôi lo cho nó lắm.

Bà Lục kéo, trải rộng manh chiếu ra trên vỉa hè:

– Ông nói như thế là có ý gì?

Ông Lục nói như tiếng thở dài:

– Nào có ý gì đâu. Thấy nó lớn là tôi thêm lo. Phần thì muốn lo dựng vợ gả chồng cho nó. Phần khác, lại lo đến chuyện nghĩa vụ, lính tráng.

Tiếng bà Lục vút lên:

– Ông chỉ khéo lo bò trắng răng. Nó là con một còn lại của gia đình liệt sỹ, có lý nào phải thi hành nghĩa vụ mà ông lo. Có lo thì nên lo cái chuyện trăm năm cho nó.

Ông Lục không hài lòng trước câu nói chắc như đinh đóng cột của bà. Ông tính nói toạc cái bản tin sáng nay ra cho bà trắng mắt, nhưng lại thôi. Ông ậm ừ bảo:

– Nếu thế, bà xem có đám nào được thì lo cho nó, kẻo trễ.

Suốt từ chiều đến gìơ, ông Lục mới nói được một câu nghe lọt lỗ tai. Bà Lục hài lòng, bỏ quên mọi lo lắng về ông. Bà đứng dậy, trở vào trong. Lát sau, bà mang ra cái điếu, ấm nước chè nóng và hai cái bát sành. Bà rót cho ông nửa bát nước nóng và tự têm cho bà một miếng trầu. Ngồi chống chân trước sân, ăn miếng trầu cay dưới ánh trăng non đổ chênh chếch xuống trên đầu ngọn tre, lòng bà bỗng rộn lên một niềm vui mới.

Trong khi đó, ông Lục vẫn đăm chiêu trên manh chiếu rách. Ông không nỡ trách bà nông nổi, hay tin vào những lời nói không đầu không đuôi, không đáng tin của nhà nước. Nhưng ông lại không tìm ra đáp số cho bài toán nan giải trong lòng. Kết qủa, ông đành buông tiếng thở dài theo hơi khói:

– Thật là cây muốn lặng, gío chẳng đừng.

Bà Lục nguýt chồng một cái, vỏn vẹn trả lời:

– Chuyện!

Chuyện! Một chữ ngắn gọn của bà Lục đã nói cho ông nghe cái ý nghĩa qúa dài:

– Chuyện ấy đã hẳn nhiên. Chuyện ấy ông còn nhắc đến làm gì? Chuyện nếu chúng không về đây, dân ta đâu có bần hàn và ra nông nỗi này. Chuyện khi chúng đã dựng cái búa, cái liềm lên làm bảng hiệu, làm tiêu biểu cho chúng thì nhân dân phải biết ngậm đắng, nuốt tủi hờn. Phải biết lấy tang thương ly biệt làm lẽ sống. Lấy sầu thảm thế niềm vui. Lấy dòng nước mắt không vơi cạn thế cho tiếng cười, và lấy đói rách cơ hàn thay thế cho ấm no hạnh phúc. Và còn nhiều chữ chuyện khác nối tiếp theo ý nghĩ của bà, trong đó có một chữ chuyện khá quan trọng, bà muốn nhắc nhở cho ông. Chuyện… chúng không về, thằng con ông đâu có chết mất xác.

Nói xong, bà Lục đứng lên, ông nhìn với theo. Những tưởng mỗi lần nhắc đến chuyện cũ là một lần, làm cho tình chồng nghĩa vợ của ông bà sẽ rách toác ra vì sự bất đồng ý kiến. Ông có ý đấm ngực ăn năn và chừa, không bao gìơ muốn nhắc đến chuyện xã hội chủ nghĩa với bà nữa. Một lát sau, bóng bà Lục lại thấp thoáng bên cửa bếp. Bà trở ra với một mùi thơm quyến rũ, rất quen thuộc. Một mùi thơm mà lâu nay ông đã bỏ quên. Đó là mùi khoai nướng. Ông mỉm cười. Bà bẻ củ khoai ra làm hai, đưa cho ông phần lớn hơn:

– Ăn đi cho nó nóng ông ạ.

Ông Lục đưa tay ra:

– Ở đâu thế bà?

– Hồi sáng tôi đi chợ, hỏi thăm mãi mới mua được vài củ.

Ông Lục ngay tình hỏi:

– Nhà nước bán đột xuất à?

– Nhà nước nào bán. Bà Xuyến ở xóm trên đấy.

– Bà ấy lấy ở đâu ra thế?

– Chả biết. Thấy bà ấy có lưng một rổ, nhưng chưa ra đến chợ đã hết. Cũng may mà tôi nom thấy bà ấy sớm.

Ông Lục nhớ đến con:

– Bà có để phần cho thằng Dụng chưa?

– Có rồi.

Ông Lục cầm nửa củ khoai, chuyền từ tay này sang tay kia cho bớt nóng. Sau đó, ông từ từ lột vỏ. Miếng vỏ nào khi lột còn dính chút khoai, ông cho lên miệng, gặm lấy xác khoai. Ông chỉ vất bỏ lớp vỏ khi biết chắc không còn một chút khoai nào dính trên đó. Bà Lục có cung cách giống ông. Cả hai ông bà cùng im lặng, thong thả cho miếng khoai với mùi thơm đặc biệt vào miệng. Họ miên man thưởng thức mùi thơm ngon hiếm hoi này bằng cách chờ miếng khoai bở tan trong miệng và chảy tuột xuống đáy dạ dày thay vì nhai ngấu nghiến. Lát sau, bà Lục với tay bưng bát nước chè nóng lên miệng. Bà uống một hớp, bảo ông:

– Nói lại câu chuyện dở hồi nãy. Chuyện thằng Dụng ông tính thế nào?

Ông Lục nhìn vợ, chậm rãi:

– Thì nó đã lớn rồi. Tôi với bà, có sống cũng không được mấy nỗi nữa. Nhân lúc, trời cho mình còn khỏe mạnh và nó còn ở nhà, mình nên lo toan cho nó. Bà xem có đám nào ưng ý, thì khuyên bảo nó hộ tôi.

Bà Lục mở to đôi mắt nhìn ông. Bà muốn hỏi ông xem vì cái lý do gì, ông bảo nhân lúc nó còn ở nhà? Nhưng lại nói:

– Không biết ý nó đã muốn lập gia đình hay chưa?

– Việc ấy bà nên dò hỏi và khuyên bảo nó cho tôi.

Được lời, bà Lục lên tinh thần, bà nói như có chủ đích từ trước:

– Ông thấy cái Thắm con bà Xuyến có được hay không? Hay là cái Hồi, con ông bà Đăng?

Ông Lục chưa có ý kiến. Ông đang bận hút điếu thuốc. Bà Lục tiếp:

– Tôi thấy cả hai đứa đều được người được nết ông ạ. Bản thân chúng tốt, phần gia đình không có tai tiếng gì. Hơn nữa, đôi bên gia đình đều là người thân thiết với mình lâu năm. Tôi nghĩ, nếu có ngỏ ý, chắc họ chả từ chối. Tuy nhiên, giữa hai đứa ấy, tôi thích cái Hồi bên ông bà Đăng hơn. Không biết ý ông thế nào?

Ý ông thế nào? Câu hỏi ngắn gọn, nhưng nhất thời ông Lục không thể trả lời cho bà. Bởi lẽ, ông Lục, ông Đăng là đôi bạn thân thiết với nhau từ thuở nhỏ. Khi lớn lên, cả hai đều bắt đầu sự nghiệp với nghề làm tá điền cho một viên chánh tổng. Cuộc sống của hai người không có chi dị biệt. Hơn thế, tình làng xóm, tình đồng nghiệp mỗi ngày như chất keo, thắt chặt thêm mối giây liên kết giữa đôi bên. Chả có bữa giỗ, bữa tiệc nào tại nhà ông Lục vắng bóng ông Đăng, ngược lại cũng thế.

Nhìn mối thân tình giữa ông Đăng và ông Lục, người ngoài cho rằng: Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song cái chân tình ấy không đời nào thay đổi. Ai ngờ, vào một sáng mùa thu, vì câu chuyện của đất nước. Ông Lục đã cho đứa con lớn đi theo Việt Minh, và ông Đăng dục người con cả ghi tên vào lính Cộng Hòa. Kể từ mắt xích ngược đường đó, ông Lục, ông Đăng đã có nhiều đêm mất ngủ. Lại thêm kẻ nói ra, người tán vào, khối tình chắc như keo kia bắt đầu dãn nở như sợi giây thung.  Tuy thế, sự dãn nở này còn rất giới hạn. Ông Lục và ông Đăng mặc nhiên chấp nhận hoàn cảnh trái ngang của đất nước lúc bấy gìơ. Dù không có lời giao kết, cả đôi bên không bao gìơ bàn đến chuyện Việt Minh hay Quốc Gia mỗi khi gặp gỡ, hoặc lúc ngồi chuyện trò với nhau.

Thật ra, ý thức về Quốc Gia hoặc cộng sản vào thời điểm đó, chưa hoàn toàn rõ nét trong họ. Đại ý, những người sống trong nông thôn như ông Đăng, ông Lục, chỉ muốn có chung một đáp số. Họ mong có ngày hòa bình, muốn có ngày được tự do ấm no hạnh phúc. Họ không muốn nhìn thấy quê hương Việt Nam tiếp tục bị chà đạp dưới gót giầy của mấy thằng tây xâm lược. Và cũng không muốn thấy nhân phẩm của người Việt Nam bị coi thường.

Từ ý niệm đó, ông Lục đã gạt nước mắt phân ly, tiễn con vào đường sương gío theo Vẹm chống… tây. Lúc cho con theo Vẹm chống tây, không phải ông Lục là người có chí lớn, muốn con ông trở thành nhà cách mạng hơn đời, hơn người. Cũng không phải vì ông mong có nhà lầu, xe hơi. Nhưng vì Vẹm giỏi lừa phỉnh, nên ông nhầm.

Phần ông Đăng, ông cho con đi lính Cộng Hòa để bảo vệ Quốc Gia, bảo vệ đồng bào, không phải vì ông Đăng giỏi tính hơn ông Lục. Cũng không phải ông Đăng là người thấy trước được cái bản chất từ… khỉ mà ra của bác. Nhưng tại ông cho con ông đi ăn học, thầy giáo của nó theo Cộng Hòa bảo vệ Tổ Quốc, thì nó đi theo quốc gia. Dĩ nhiên, đây chỉ là những ý nghĩ ban sơ buổi đầu. Nhưng càng lúc, cục diện càng đổi thay. Người dân sống sau lũy tre xanh như ông Đăng, ông Lục đã dần dần nhận thức được chữ Quốc Gia và cộng sản mang ý nghĩa gì:

Về phía người quốc gia, họ đang lo tháo mồ hôi để dành độc lập cho quê hương. Trong cuộc tranh đấu này, người quốc gia phải đối đầu với hai loại kẻ thù của dân tộc:

– Kẻ thứ nhất, bọn thực dân pháp.

– Kẻ thứ hai là Việt Minh cộng sản.

Kẻ thứ nhất, ai cũng biết. Riêng kẻ thứ hai là bọn Việt Minh cộng sản thì nhiều người nhầm. Nhầm bởi vì, đây là một tổ chức võ trang dấu mặt. Bề ngoài, Việt Minh vờ hô hào đoàn kết quốc dân, liên minh với các đoàn thể quốc gia để chống kẻ thù chung của dân tộc là bọn thực dân đế quốc. Nhưng trong thực tế, đây là một tổ chức phi nhân theo chủ nghĩa tam vô. Chúng đã âm thầm tặng cho đồng bào, tặng cho những người anh em quốc gia những nhát mã tấu thấu tim từ phía sau lưng. Từ đó, nhân dân nghe đến tên Vẹm, tên Hồ là dựng tóc gáy. Ông Lục cũng không ngoại lệ. Có lần, ông trằn trọc vào lúc nửa đêm, bảo vợ:

– Khéo mà hỏng bà ạ. Mình đã nhầm lẫn để cho thằng cả đi theo cái bè Việt Minh. Tôi quyết, nó chẳng thể trở thành nhà cách mạng cứu dân cứu nước được. Tệ hơn thế, nó có thể trở thành cái họa cho làng xóm.

Nghe được lời ăn năn xám hối của ông, bà Lục không quên lên gối:

– Thì tôi đã bảo ông ngay từ trước khi nó đi. Nếu mà cái… bè, cái đảng ấy tử tế, việc gì chúng phải lấp lấp ló ló ngoài hàng rào bên bụi cây như phường trộm đạo! Nhưng ông đã không nghe, không bàn bạc với tôi, lại tự quyền quyết định cho nó đi. Bây giờ ông còn than thở nỗi gì?

Ông Lục im bặt vì sự kiện lên chân của vợ. Riêng bà Lục, chừng như chưa hài lòng với chiến thắng to nhớn ấy, bà lên giọng:

– Rồi đến cái thằng Dụng, ông sẽ tính sao đây?

Ông Lục xụi lơ trước câu hỏi của bà. Ông tự biết răng đã cắn phải lưỡi. Ông không có đường trả lời. Vào thời điểm ấy, ông Lục, ông Đăng vẫn còn đi lại với nhau. Tuy thế, trong những lần gặp gỡ, họ hầu như chỉ ngồi bó gối nhìn nhau và than thở cho thời thế nổi trôi hơn là những câu chuyện tương lai, xóm giềng.

Đến khi tờ hiệp định đình chiến ra đời, Phan Thông, người con trưởng của ông bà Đăng vội vàng trở về. Thúc dục ông bà Đăng và gia đình phải cuốn gói lên đường vào nam lánh nạn cộng sản. Tuyệt đối không nên ở lại miền bắc. Nghe Thông nói, ông Đăng phần nào nhận chân được cái bộ mặt thật của Hồ nhân, nhưng ông lại bảo Thông:

– Con đã nghe câu ”thuận thiên gỉa tồn, nghịch nhân gỉa vong. Do đó, con không nên lo cho thày mẹ. Nếu chúng làm những điều nghịch với lòng trời, bất đạo với nhân tâm. Chúng sẽ tự rước lấy cái họa diệt vong. Còn chuyện gia đình sum họp, có ai không muốn. Nhưng trong hoàn cảnh này…

Mới nói được mấy lời, ông Đăng ngập ngừng đưa ánh mắt sầu muộn nhìn mái nhà, và mảnh đất cũ. Lát sau, ông bùi ngùi tiếp:

– Con cũng biết, phần gia nghiệp này tuy không lấy gì làm to lớn. Nhưng nó chính là mồ hôi, nước mắt và có khi là máu của ông bà đã ra công gầy dựng nên. Từ đó, phận làm con cháu không thể nào một sớm một chiều ngoảnh mặt bỏ đi. Rồi tuổi của cha đã vào lúc xế bóng, không còn thích hợp với việc bôn ba. Riêng con, tuổi còn trẻ, sức vươn còn dài. Con cũng nên xông pha với đời một phen.

Thấy Thông lưỡng lự chưa quyết, ông Đăng bảo:

– Ý cha đã dứt khoát như thế. Con hãy vào chào mẹ con rồi đi, kẻo lỡ.

Biết không thể lay chuyển nổi ý nghĩ của ông Đăng. Thông đành gạt ngang đôi dòng lệ, chào biệt ông bà Đăng và dắt thêm hai người em theo đoàn quân vào nam.

Về phía ông bà Lục. Sau ngày đình chiến, không thấy ông bà Lục mở rượu đế uống mừng chiến thắng. Nhưng thấy ông bà Lục rầu rĩ, đi ra đi vào, rồi thay phiên nhau nghểnh cổ nhìn ra đầu ngõ như đang ngóng đợi một điều gì. Hỏi ông, ông không nói. Hỏi bà, bà lặng thinh. Đến khi hỏi gío, gío lạnh lùng sang canh. Tìm thu, chỉ thấy thu tàn. Theo đông, đông chết trên cành cây trụi lá. Riêng ông Lục, chẳng một đổi thay. Ông vẫn ngồi lặng lẽ dưới gốc mai gìa đã xanh lá bên hè. Mãi đến khi có tiếng Cuốc gọi Hè, mới thấy ông Lục chống chân đứng dậy. Ông đứng dậy vì vừa nhận được tin của người con ra đi đánh tây năm nào.

Có một chuyện rất lạ xảy ra trong nhà ông Lục vào ngày ông nhận được tin con. Lạ vì khi nhận được tin con, ông không nhảy ra đường reo hò mừng rỡ như lời khuyên của bác, đảng. Cũng không dục bà bắt con gà mái dầu làm tiệc, và dục thằng Dụng đi mua lít rượu nếp về uống mừng ngày đoàn viên. Nhưng thấy đôi tay ông run rẩy, vòng ra ôm chặt lấy cái đầu gối đánh nhịp không đều trên cái chõng.

Sở dĩ có sự kiện trái chiều này là vì ông bà Lục không nom thấy mặt con trở về. Nhưng cầm được tờ giấy báo tin của nhà nước. Theo tờ giấy báo tin này, nhà nước khuyên ông bà Lục không nên buồn. Lý do, người con yêu qúy của ông bà đã được vinh thăng thành một liệt sỹ anh hùng của nhân dân. Vì nó đã thành liệt sỹ, nên nhà nước lờ luôn việc báo cho ông bà Lục biết ngày giờ nó ra đi để ông bà Lục nhớ lấy mà làm giỗ. Và… quên luôn việc báo cho ông bà Lục biết nơi, nhà nước đã đào lỗ xây lăng mộ cho nó.

Sau khi báo bản tin thứ nhất cho ông Lục, nhà nước chưa hả dạ, nên nhân lúc ông Lục mất hồn vía, bà Lục chưa hết nước mắt. Nhà nước ưu ái tặng cho ông bà Lục tấm giấy báo thứ hai. Theo bản tin thứ hai này. Nhà nước hoan hỉ thông báo cho ông Lục biết. Người em ruột của ông, một đồng chí cực vĩ đại của bác đã anh dũng hy sinh trong chiến dịch chống tây và có để lại cho ông một đôi dép râu làm kỷ niệm. Riêng cái lý do thì nhà nước viết rằng: Bởi vì đồng chí ấy đã nôn nóng, tìm chiến thắng trong lúc ta tấn công… nhầm vào ổ súng máy của thằng địch.

Nghe đọc xong hai bản tin này, ông Lục hồn vía lên mây. Riêng bà Lục, cung cách của bà hoàn toàn khác ông. Bà thấy trời đất quay cuồng, cái rá gạo chưa vo ở trên tay bà, bỗng đổ ụp xuống đất. Bà thảng thốt kêu lên một tiếng, rồi để mặc cho cái miệng mở rộng ra, và cho hai dòng nước mắt đổ như thác xuống trên hai gò má trũng. Cung cách khác thường này của bà, hình như chưa trả đủ vốn cho cuộc đợi chờ của bà. Bà vật mình xuống đất, lấy đôi tay cằn cỗi đập bình bịch xuống trên nền nhà.

Nhớ lại, ngay từ lúc bản hiệp định chia đôi đất nước ra đời và không thấy tin con. Ông bà Lục đã từng đêm trắng mắt với giấc ngủ mơ màng. Khi tỉnh dậy, ông bà Lục hy vọng đó chỉ là những cơn mộng mị, chẳng ai dám cầu trời khấn đất cho nó trở thành sự thật. Kết qủa, chuyện không cầu vẫn đến. Từ đó ông buồn, ông giận, ông mất khôn. Ông đã nặng lời mắng nhiếc bác. Mắng vì khi nó… nhỡ làm anh hùng, nhà nước đã không chịu đưa xác nó về cho ông nhìn thấy mặt lần cuối, lại cũng không thông báo cho cả nước để tang.

Sau khi thiếu suy nghĩ, trách oan lòng tốt của nhà nước, ông Lục lại giận luôn ông Đăng. Ông giận ông Đăng vì một nguyên do khá đơn giản. Tại ông Đăng có con đi lính cộng hòa chống lại với con ông. Giận vì nếu nó không làm… tay sai cho thằng địch, con ông đã không ăn đạn đồng. Sau lần nói thẳng nói thật ấy, mối thân tình giữa ông Lục và gia đình ông Đăng nhạt đi trông thấy.

Nói thì như thế, nhưng thật ra đến giai đoạn này mối tình giữa ông Đăng và ông Lục mới chỉ nhạt đi qúa một nửa. Phải chờ đến sau ngày ủy ban nhân dân Xuân Thủy tổ chức ăn mừng chiến thắng. Làm lễ tuyên công, phát văn bằng tưởng thưởng, nâng cấp những gia đình đã dập mật vì cách mạng như ông Lục lên hàng khanh tướng của chế độ. Sau đó, xây đài đấu tố, buộc vào vào cổ ông Đăng bản án thành phần thì mọi việc mới được coi là chấm hết.

Câu chuyện này, ông Lục đã tạm quên vài năm nay. Đến lúc này, khi nghe vợ nhắc đến tên của người bạn xa xưa, ông bỗng dưng thấy buồn. Bởi vì bát nước đã lỡ đổ, hốt lại làm sao được. Cùng lúc ấy, có tiếng bà Lục nhắc lại:

– Ý ông thế nào?

Mải nhớ về câu chuyện cũ, ông Lục giật mình bảo:

– Bà hỏi ý tôi về chuyện gì?

Tiếng bà Lục cao vút lên:

– Ông đến là ngớ ngẩn. Đang nói chuyện về việc của thằng Dụng, tôi muốn hỏi ý kiến của ông về con Hồi với con Thắm. Ông đã không trả lời lại còn nghĩ đi đàng nào?

Ông Lục như người vừa tỉnh ngủ:

– Bà tính hỏi cái Hồi con ông Đăng cho nó đấy à?

– Phải, tôi định thế! Không biết ý kiến ông ra sao?

Tiếng ông Lục vẻ rời rạc:

– Có lẽ không được đâu bà ạ. Cái chỗ ấy…

Trước câu trả lời như có sẵn chủ đích của ông Lục. Bà hỏi thẳng:

– Ý ông định chê người ta bị ghép vào thành phần xấu, còn gia đình ông thuộc diện gia đình liệt sỹ chăng?

Câu hỏi của bà Lục vô tình chạm vào chỗ đau trong lòng ông. Ông quắc mắt nhìn bà, gằn giọng:

– Bà ăn nói hay nhỉ?

Bà Lục xững xờ khi nghe tiếng chồng gắt gỏng. Bà yên lặng một chút rồi lên tiếng:

– Nếu ông không chê người ta vì cái khoản ấy, ông chê người ta vì lý do gì mà đề quyết là không được?

Nghe bà Lục hỏi những câu trật đường, ông Lục, trên tay cầm sẵn cái đóm đã châm lửa, nhưng không hút nổi điếu thuốc. Ông dụi đóm lửa trên vỉa hè và bỏ cái điếu xuống. Ông nhìn bà bằng ánh mắt đầy thất vọng. Thất vọng vì chính người vợ đầu gối tay ấp của ông mấy chục năm qua, còn nghi ông vì cái thể diện, vì cái danh hão huyền gia đình liệt sỹ kia để mất bạn bè, mất xóm làng. Nếu vợ ông nghĩ như thế, làm sao ông có thể trách người ngoài không chịu thông cảm cho ông được? Thấy ông im lặng, bà Lục chép miệng:

– Thật, chả ai như ông. Có được mối thân tình hiếm hoi ấy. Ông đã không lấy giây rợ mà buộc cho chặt vào, lại tính dùng dao mã tấu mà chém đứt hay sao?

Ông Lục tỏ vẻ khó chịu:

– Bà đừng có nghĩ quẩn như thế để tạo ra sự xích mích không cần thiết trong gia đình. Ý của tôi không phải như vậy. Khi tôi bảo không được là có ý lo phía bên ấy họ không thuận.

– Ông nghĩ họ không bằng lòng?

Ông Lục trả lời không cần đắn đo:

– Phải. Vì tôi biết rõ cái lý do, nhưng bà thì không.

Nói xong, ông Lục thuật lại câu chuyện cũ cho bà nghe. Theo câu chuyện ông kể, vào một ngày xấu giời, khi ông từ văn phòng ủy ban đi ra đã đụng đầu ông Đăng. Qua vài câu chào hỏi, ông Đăng vẽ ngón chân trên mặt đất, phang ông:

– Thật đúng là gặp thời chó nhẩy bàn độc nên thế sự đảo điên. Đầu đường xó chợ đã không thiếu kẻ theo đóm ăn tàn, lại thêm lũ vô loại quần áo xênh xang vào ra như mục nhĩ vô nhân, nom thật chướng mắt.

Ông Lục vốn đã chất đầy một bụng những lời chói tai của Thọ, Bảng. Thêm mặc cảm và tin rằng ông Đăng đã biết rõ khúc đoạn trường giữa ông và ủy ban. Do đó, một câu nói cay hơn ớt của ông Đăng đã làm ông Lục phỏng lưỡi, chóng mặt. Ông gằn từng tiếng một:

– Đấy bà xem. Tình nghĩa bao nhiêu năm với nhau, mà ông ta nỡ lời nặng lời nhẹ với tôi như thế. Tôi nào phải hạng người bạc tình bạc nghĩa. Nhưng ông ta đã nhìn tôi ngang hàng với những thằng Thọ, thằng Bảng. Tôi hỏi bà, nếu ông ta coi tôi như thằng Thọ thằng Bảng, bằng phương cách nào họ nhận lời cầu hôn cho con mình? Thêm vào đấy, có đến vài năm nay tôi không liên lạc với bên ấy. Lúc này đem đầu đến hỏi con gái người ta. Có khác nào cho người ta cái ý nghĩ là mình đến để lên mặt, hoặc đến để chửi bố người ta.

Chừng như sợ bà Lục không nắm được ý chính của câu chuyện, ông Lục cắt nghĩa thêm:

– Tôi chả cần giải thích rông rài bà mới hiểu. Bà cứ nhìn thẳng sự kiện bên ấy bị ghép vào… thành phần. Nghĩa là thuộc diện bị gạt ra ngoài bản lề của xã hội này. Trong khi ấy, mình lại được tiếng là người của chế độ. Từ sự khác biệt này, bên ấy rất dễ có mặc cảm, và hiểu nhầm. Từ hiểu nhầm, họ không tin tôi với bà vẫn một lòng sắt son chung thủy, giữ nguyên vẹn tình nghĩa bạn bè lối xóm xưa. Cũng không tin mình vì thành tâm thiện ý mà đến cầu thân. Trái lại, có thể nghi ngờ mình đến dò thám làm mật báo viên cho nhà nước. Khi ấy, tình đã không giữ được, lại thêm lời qua tiếng lại, làm trò cười cho lối xóm. Nên đề nghị với bà hãy quên đám ấy đi, và tìm đám khác cho nó.

Nói xong, ông Lục thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Nhẹ nhõm vì tin là vào phút cuối, ông đã đả thông cho bà hiểu được cái nguyên do ông ngại sang làm thông gia với ông Đăng. Phần bà Lục, sau khi nghe lời phân giải của ông, bà thấy nở từng khúc ruột. Bà mừng vì biết chắc, việc hỏi cưới Hồi cho Dụng, ông Lục sẽ không phản đối. Riêng việc ông Lục, ông Đăng vài năm nay không giải thảm điều ngồi chung với nhau, lúc đầu bà Lục hơi lo. Nhưng qua câu chuyện ông vừa kể, bà Lục cho đó là sự hiểu nhầm hơn là sự cố chấp. Bà mỉm cười, rót thêm nước chè nóng vào cái bát cho ông:

– Đây, ông uống thêm hớp nước cho nó thấm giọng, rồi tôi sẽ kể rõ đầu đuôi gốc ngọn câu chuyện cho ông nghe.

Đến lúc này, ông Lục vẫn không ngờ câu chuyện bên đục bên trong giữa ông và ông Đăng đã được bà Lục, vợ ông, thu vào máy quay phim từ lâu, ông gạt ngang:

– Đầu đuôi câu chuyện gì?

Bà Lục hóm hỉnh:

– Thì chuyện phạt giao giữa ông và ông ấy!

Ông Lục để vội bát nước xuống:

– Ai bảo bà thế?

Bà Lục cố tình làm cho ông Lục thắc mắc:

– Còn ai trồng khoai đất này.

Ông Lục lúng túng:

– Bà gặp ông hay bà ấy?

Đã sẵn chủ đích, bà Lục gỉa nói nhát gừng:

– Tôi gặp cả hai.

Ông Lục trố mắt nhìn vợ, ông hỏi như người vừa ngã từ trên giường xuống đất:

– Bà nói thật đấy à? Lâu nay bà vẫn gặp ông bà ấy chứ? Ông bà ấy có khoẻ không?

Bà Lục liếc ông:

– Khỏe, khỏe mạnh cả. Ông ta vẫn gởi lời hỏi thăm ông lđấy.

Ông Lục buột miệng trách bà:

– Thế sao bà không nói cho tôi nghe một tiếng.

Bà Lục vờ kêu oan:

– Ơ hay, nào tôi có biết là ông đã hết giận người ta rồi hay chưa mà nhắn.

Ông Lục trả lời thẳng như ruột ngựa:

– Nào tôi có để bụng bao gìơ.

Nghe ông nói thế, bà Lục nhắc lại câu phân trần rất miền bắc:

– Thật chả ai như ông. Người ta nói một đàng, ông đi hiểu một nẻo. Rút cục, chả ai hiểu ai rồi hờn với dỗi.

Ông Lục nóng lòng muốn nghe câu chuyện hơn là lời trách khéo của bà:

– Bà ăn nói đến giỏi. Có chuyện gì mà cứ úp úp mở mở.

Bà Lục làm thêm hớp nước, giảng giải:

– Có gì mà phải úp với mở. Thong thả rồi tôi sẽ kẻ hết cho ông nghe. Nhưng trước tiên, ông chả nên trách ông ấy. Lý do, cùng một câu nói, nhưng trong hai hoàn cảnh khác nhau dễ làm cho người ta hiểu nhầm, hoặc hiểu sai lạc đi chủ ý của mình. Như trong trường hợp của ông, tại sao ông không nghĩ đó là lời nói bông đùa, hoặc lời nói có chủ đích châm chọc cái xã hội này hơn là có ý chê bai, khích bác ông? Có là bạn bè nghĩa thiết với nhau lâu năm, ông ta mới có lời nói ấy. Nếu không, có cạy miệng ra, ông ta cũng chẳng bao giờ nói như thế. Câu chuyện ông Đức, ông Sáng còn như gương treo trước mặt. Chỉ vì một lời nói ”ruộng thì vào hợp tác nhưng quyết không hợp sức” đã đi không có ngày về. Do đó, ông chả nên trách ông ta. Có trách, ông hãy trách cái bọn mặt lơ mày láo, đang được thời đắc thế cùng phe với… ông thì hơn.

Bà Lục nói chưa dứt câu, ông Lục đã muốn nổi nóng:

– Bà nói cùng phe với tôi là phe gì?

– Còn phe nào nữa? Việc ông có nuốn nhập bè, kết phái với chúng hay không thì chẳng ai biết. Nhưng khi chúng khoác cho ông manh áo gia đình liệt sỹ là chúng đã khua chiêng đánh trống và kéo ông vào bè vào phe với chúng. Từ đó, dù không nói ra, làng xóm đương nhiên nhìn ông bằng ánh mắt một chiều, rồi lặng lẽ kẻ đường ranh giới xa ông cho dễ thở. Kế đến, chuyện ông có được hưởng phần đặc ân đặc lợi như lời chúng thường rêu rao hay không, cũng chẳng ai tìm hiểu. Họ chỉ nghe chúng nói từ ngày nọ sang ngày kia, họ phải tin. Tin vì ông đã vào bè với những kẻ cướp cơm chim. Nhời tôi nói như thế có đúng hay không?

Nghe hỏi, ông Lục giật mình nhìn bà, rồi nhìn lại hoàn cảnh trong lần cuối gặp ông Đăng. Ông Lục như tự thấy mình nhầm. Nhầm vì hôm ấy trên nét mặt ông Đăng, không có một dấu hiệu nào chứng tỏ ông ta muốn khích bác, hoặc chê bai ông. Nhưng lý do gì lại đưa đến đoạn kết tai hại ấy? Ông Lục chợt nhớ ra là giữa lúc ông đau buồn vì mất đứa con, người em. Lại được Bảng Thọ nhân danh ủy ban mời lên, yêu cầu ông hiến con trâu và tài sản cho nhà nước để làm gương cho quần chúng noi theo. Ông đã uất ức bảo Thọ:

– Tôi không việc gì phải dâng với hiến. Nếu ủy ban thích, cứ đến mà tịch thu.

Nói xong ông bước ra ngoài, cùng lúc ấy, ông giáp mặt ông Đăng. Hai người vốn chưa đả thông câu chuyện từ ngày ông Đăng đến chia buồn, lại nghe thêm câu nói… xỏ của ông Đăng, lửa giận bốc lên đầu, ông Lục bảo:

–         Phải, không mục nhĩ vô nhâo thì cũng chẳng làm gì có thành phần xấu bước lên đài.

Nói xong, hai người đường ai nấy đi, và nỗi buồn mỗi lúc một thêm xe thắt trong lòng ông Lục không một phương cách tháo gỡ. Rồi giữa lúc nỗi buồn trong lòng không biết ngỏ cùng ai. Ông Lục lại phải chứng kiến cảnh bà Lục thường xuyên săn cao tay áo, đem cái bánh vẽ gia đình liệt sỹ ra nói xa xả vào mặt Bảng, và những người xã viên theo Bảng đến nhà ông. Trước cảnh phát thanh bằng miệng bằng tay của bà, ông Lục thêm xấu hổ. Ông xấu hổ vì cho rằng:

Bà Lục đã kém hiểu biết, lại thêm dại dột, hay tin vào những lời nói không đầu không đuôi của nhà nước. Đã thế, bà còn thiếu suy nghĩ, nông nổi làm trò cười cho hàng xóm bằng cách đem cái bánh vẽ liệt sỹ ra khoe trước mặt người ngoài. Có một ai nể vì cái mảnh giấy lộn ấy đâu mà bà cứ khoe khoang mãi thế. Chẳng lẽ vợ ông không biết rằng, mỗi lần bà săn cao tay áo lên, là một lần làm cho ông đau, và làm cho láng giềng xa lánh gia đình bà hay sao?

Tự hỏi thế là ông biết rất rõ cái nhược điểm của bà, tuy thế, ông Lục vẫn không thể ra tay ngăn cản bà. Kết qủa, việc bà Lục mắng Bảng trở thành một thói quen khó chừa. Phần ông, mỗi ngày thêm lặng lẽ, rồi buộc cuộc sống còn lại của ông theo bước chân con Mễ. Ông vui với nó để tìm quên, và quên luôn việc kề tai tâm sự nhỏ to với bà. Cho đến tối nay, qua câu chuyện hàn huyên với bà. Ông Lục đã sáng mắt, thấy sự việc diễn tiến hoàn toàn trái ngược với ý nghĩ của ông về bà. Một người, ông thường cho rằng kém trí khôn, không suy nghĩ, hoặc là người nông nổi đã làm ông phải xấu hổ lây, lại là người có lòng can đảm, giỏi tính hơn ông nhiều. Tuy nghĩ thế, ông lại chống chế:

– Bà cũng khéo trách tôi để mất bạn. Còn bà? Bà không nhớ là đã từng đứng trước ngõ xăn cao tay áo, hò hét là gia đình cách mạng, là mẹ chiến sỹ để đòi hỏi phải được hưởng chế độ đãi ngộ riêng hay sao? Bà không biết những khi bà lên nước như thế là hàng xóm họ cười vào… mũi tôi, và rủ nhau tránh cho xa cái kiểu cách mạng của bà hay sao?

Bà Lục trả lời không cần suy nghĩ:

– Chả một ai cười tôi về cái khoản ấy. Trái lại, họ còn thích nữa là khác.

– Bà nói chuyện lạ đời.

Bà Lục cười duyên giải thích:

– Chẳng có gì lạ. Ông không tin, cứ hỏi lối xóm xem họ có hài lòng khi tôi xăn tay áo lên mắng vào mặt cái thằng Bảng hay không?

Ông Lục chưa trả lời, bà đã tiếp:

– Khi tôi mắng vào mặt chúng là tôi trả thù dùm nhân dân đấy. Ông biết lý do tại sao không? Tại chúng tự cho mình là những kẻ trên không giời dưới không đất, rồi cậy có con dao trong tay nên không một ai dám nói động tới chúng. Phần tôi, tôi sợ gì chúng? Con tôi đã chết cho… cách mạng, rồi cái danh hiệu mẹ cách mạng tôi đeo trên người không đủ tư cách mắng vào mặt chúng, hoặc không đủ để tôi dậy dỗ chúng đôi điều hay sao? Chúng nghe thì phúc cho chúng, còn nếu chúng không bằng lòng thì cứ mang cái mảnh bằng tuyên công ấy và tôi ra mà đấu tố. Có đấu tôi cũng chả sợ.

Được lời giải thích của vợ, ông Lục thực sự bừng tỉnh cơn mơ. Theo đó, so với bà, ông thua bà nhiều lắm.

– Mà thôi, bỏ chuyện ấy đi, bà Lục tiếp: Ý của tôi muốn hỏi cưới con Hồi cho thằng Dụng, ông nghĩ sao?

Sau khi rít điếu thuốc lào, ông Lục thấy khoan khoái nhẹ bỗng người. Ông bảo:

– Nếu được như nhời bà liệu tính thì còn gì phải nói. Chỉ ngại bên ấy không nhận lời xin của mình.

Thấy ông Lục xuống nước, Bà liền lên lớp:

– Về điểm này, ông thua xa gia đình người ta rồi. Những người có con đi lính Quốc Gia thì thường tốt bụng và chẳng có chút thành kiến riêng tư nào. Còn phía của nhà nước? Mở mồm ra là nói chuyện nhân nghĩa đạo đức buông xuôi và to mồm hò hét đoàn kết. Nhưng thật ra, trong bụng luôn thủ con dao nhọn, lúc nào cũng sẵn sàng lôi ra đâm chết cha mẹ, anh em hay họ hàng thân thuộc.

Ông Lục ngắt lời vợ:

– Bà lại nói đi đàng nào rồi? Tôi đang lo bên ấy không bằng lòng và chưa tìm ra lý do để nối lại câu chuyện cũ với ông ta. Bà đã không giúp ý kiến, còn phát biểu linh tinh.

Bà Lục liếc nhìn ông. Bà không phải là người thích phát biểu linh tinh, nhưng hôm nay bà nói hơi nhiều hơn ngày thường vì những nguyên nhân riêng. Lâu nay hai ông bà ít chuyện trò với nhau. Kế đến, khi thấy ông bế môn tỏa cảng, ít đi lại với bạn bè. Bà Lục nghĩ ông vì ôm cái mảnh bằng tuyên công của nhà nước, nên muốn xa lánh người thân. Bà muốn nhân cơ hội này đả thông cái ý tưởng sai nhầm ấy cho ông. Cuối cùng, bà Lục còn có ý bảo vệ ý kiến của mình trong việc hỏi cưới Hồi cho Dụng. Nên bà đáp gọn:

– Phía bên ấy coi như họ đã thuận.

Ông Lục giật mình, hỏi lại:

– Bà bảo ai bằng lòng?

Đến lúc này, bà Lục thấy không cần thiết phải dấu ông nữa. Bà bảo:

– Thì phía bên ông Đăng chứ còn ai vào đấy. Tôi đã ngỏ ý xin, và ông bà ấy không phản đối. Tuy nhiên, họ có ý muốn gặp ông để nói thêm câu chuyện.

Chẳng hiểu nghĩ gì, ông Lục nói như dỗi:

– Chuyện như thế mà bà không bàn với tôi một tiếng hay sao?

– Thì sớm muộn gì tôi chả phải bàn với ông.

Trước sự việc đã rồi, thay vì trách bà vài câu cho hả. Ông Lục lại hỏi:

– Ông bà ta có khoẻ không bà?

– Khỏe cả, nhưng sinh hoạt thì gặp khó khăn hơn.

Có tiếng ông Lục thở dài:

– Khi gặp bà, ông ấy có nhắc gì đến tôi không bà?

– Sao chả nhắc. Lần nào gặp tôi, ông ta cũng hỏi thăm ông và còn bảo…

– Bảo gì hả bà?

Tiếng bà Lục trầm hẳn xuống:

– Ông ta có vẻ lo lắng cho ông lắm.

– Lo lắng cho tôi à?

Bà Lục kín đáo nhìn ông, rào trước đón sau:

– Phải, ông ấy lo cho ông lắm. Nhưng nếu tôi có nói ra lời nói thật, ông cũng nên nghe và để bụng mà suy gẫm. Ông ấy lo cho tôi và ông có ngày trở thành kẻ hy sinh, hoặc làm… vật tế thần cho chúng.

Ông Lục cười nhạt:

– Ông ta có nghĩ như thế à?

Sợ ông Lục thêm hiểu lầm, bà tiếp:

– Phải! Chính tôi đôi khi cũng nghĩ như thế. Riêng ông bà ấy còn có ý khuyên can tôi phải cẩn thận, không nên già néo, kẻo đứt giây.

Ông Lục biết rõ vợ ông muốn chữa tội cho ông Đăng, nhưng thay vì trách, ông lên tiếng trấn an bà:

– Bà chả nên nghĩ quẩn như thế làm gì cho nó khổ, chuyện đâu còn có đó. Sống hôm nay biết hôm nay! Sống ngày mai biết ngày mai. Hơi sức đâu lo lắng cho thêm nhức đầu.

Nói xong, ông Lục hăng hái đứng dậy:

– Cái chuyện xin cưới hỏi con Hồi cho thằng Dụng bà cứ để cho tôi lo liệu. Phần bà, liệu lời mà khuyến dụ cái thằng Dụng.

Bà Lục đáp:

– Nếu ông muốn sang chơi bên ấy thì tùy ý. Riêng việc xin hỏi cưới hỏi cho chúng, chả cần ông bận tâm! Tôi với bà ấy có bàn thảo qua rồi.

Ông Lục thêm một lần chưng hửng:

– Bà đã bàn thảo rồi à?

– Phải.

Ông Lục đứng dừng lại:

– Còn thằng Dụng thế nào, bà đã bảo nó chưa?

Bà Lục trách yêu chồng:

– Thật, chả ai hờ hững như ông. Ý nó cũng muốn, chỉ ngại ông phản đối.

Tiếng ông Lục ngỡ ngàng:

– Thật thế à?

Ngay lúc đó, Dụng đi sinh hoạt về. Nhìn thấy Dụng sắp bước vào trong nhà, ông Lục toan lên tiếng gọi, nhưng lại thôi. Ông đứng nhìn quanh trời đất một vòng, rồi cúi xuống cầm cái điếu đi vào trong nhà. Bà Lục thấy ông rời chỗ, cũng đứng lên theo. Trong lúc một tay bà cuộn cái chiếu và cắp ngang bên hông, còn một tay cầm ấm nước, cái bình vôi bước theo sau thì ông Lục đứng chờ bà bên khung cửa. Sau khi bà bước hẳn vào bên trong, ông Lục với tay kéo cái phên làm cánh cửa lại, rồi lấy cây then gài chận ngang giữa khung cửa. Xong việc, ông bước đến vặn nhỏ ngọn đèn dầu để trên gía xuống, đi vào buồng ngủ. Vừa đặt lưng xuống trên cái giường tre ọp ẹp, ông Lục ngồi bật dậy bảo vợ:

– Tôi thấy không  ổn rồi bà ạ.

– Ông thấy chuyện gì chưa ổn?

– Thì cái việc xin ủy ban làm tuyên bố cho chúng đó.

Bà Lục nói cứng:

– Tưởng gì chứ việc ấy ông cứ để tôi. Ông không phải lo.

Tuy nghe vợ nói cứng, ông Lục không thể yên tâm. Bởi vì, ông biết rõ bụng của ủy ban, họ sẽ nại ra hàng trăm lý do để từ chối. Ông do dự bảo vợ:

– Hay là để thư thả rồi hãy lo có được không bà?

Tiếng bà Lục dứt khoát:

– Không có thong với thả gì hết. Tôi đã có nhời dứt khoát với bên ấy. Ngày mai, ông giao con Mễ cho thằng Dụng trông coi. Phần ông, phải sang bên ấy. Trước là thăm để nối lại chỗ đứt, sau là mời ông bà ấy và nó sang đây dự đám dỗ cho thằng cả. Nếu ông bà ấy nhận lời, ta sẽ nhân đó bàn tính luôn cái ngày cưới xin cho chúng. Còn việc xin ủy ban tuyên bố, ông để mặc tôi. Chúng không làm, tôi làm.

Ông Lục nghe vợ tính toán gọn ghẽ, chả thiếu xót một điểm nhỏ nào. Ông mềm như con chi chi, đặt lưng xuống giường. Khi vừa nhắm mắt lại, ông đã mường tượng ra khung cảnh và cuộc hội ngộ với ông Đăng vào ngày hôm sau. Một cuộc gặp gỡ, lúc trước ông cho nó là chuyện tầm thường, không đáng bận tâm. Nhưng lúc này, bỗng gieo vào lòng ông ít nhiều hoang mang. Trong cái hoang mang ấy, có cả ý tưởng ngộ nghĩnh của ông Đăng đưa ông vào giấc ngủ:

– Gìa néo khéo mà đứt giây!

 

 

Chương sáu **********************************************************************

**************************************************************************

 

Sau khi căn dặn Dụng một số điều cần phải làm khi dắt trâu ra đồng, ông Lục kéo cổng cho con Mễ ra khỏi chuồng, rối trao sợi giây mũi vào tận tay Dụng. Làm bấy nhiêu việc vẫn chưa yên tâm, ông Lục còn thủng thẳng theo Dụng ra tận đầu ngõ, vừa đi vừa chuyện trò và nhắc chừng Dụng ghi nhớ lấy những điều ông đã dặn.

Khi bóng Dụng và con Mễ đã khuất sau dãy trè, ông Lục  mới quay gót. Vào nhà, như có chủ đích từ trước, ông vào trong buồng ngủ, mở rương, lấy ra một bộ cái áo ướm thử lên người. Đây không phải là bộ quần áo mới may, cũng không phải là bộ áo kiểu sang, nhưng là một trong vài cái quần áo kẻng nhất của ông. Vì nhà không có tủ, bà Lục phải gấp nó lại và cất trong rương để tránh chuột, dán gắm nhấm. Khi các nếp gấp trải rộng ra, mùi bích kê nồng nặc xông lên mũi làm ông khó chịu. Ông nín hơi, giũ mạnh cái áo vài lần trước khi cởi bỏ bộ đang mặc trên người ra, rồi mặc cái áo này vào. Đến lúc đứng nhìn mình súng xính trong bộ áo còn nguyên mùi vải với nhiều nếp gấp, ông Lục không hài lòng. Ông cho như thế là khách sáo. Ông chẳng lên quan, cũng không ra huyện, cần gì phải mặc áo mới. Tự nghĩ thế, ông Lục cởi ra. Theo các đường nếp cũ, ông gấp lại, đặt nó nằm gọn trong cái rương.

Khóa rương xong, ông Lục bước đến trước sợi giây cột sát theo bên bức vách ở trong buồng ngủ. Đây là sợi giây ông thường dùng để vắt quần áo chung với bà. Ông với tay, có ý tìm lấy một cái nom khá hơn trong số những cái quần, cái áo và cả cái váy đã rách tả tơi của bà Lục. Lát sau, ông chọn được một bộ ưng ý. Bộ này, tuy chưa đến nỗi tang thương vì những miếng vá, nhưng đã lốm đốm, điểm một vài bông hoa lạ. Ông Lục cầm, đưa cái áo lên trước mặt ngắm nghía. Ông gật gù vẻ hài lòng. Nó không làm ông xa cách với màu đất, xa cách đôi mắt của người dân Xuân Thủy trong mùa xã hội chủ nghĩa.

Mặc quần áo xong, ông Lục đến bên cái chõng lấy xáp thuốc và cái đèn bật cho vào trong túi, bước ra ngoài. Mới đi được vài bước, ông lật đật quay trở vào trong nhà. Ông vội vàng làm như chợt nhớ ra một điều gì quan trọng, ông cần phải làm trước khi đi, nhưng chưa làm. Đến khi đứng giữa nhà, ông lại không biết phải làm gì. Đột nhiên, ông cho tay vào túi áo:

– Cái xáp thuốc, cái đèn bật đã có ở đây rồi. Hay là chưa bỏ thuốc vào?

Hỏi xong, ông mở nắp ra xem. Ông an tâm ra khỏi nhà khi nhìn cái xáp đầy thuốc. Nhưng sau khi phải trở lại lần thứ hai để kiểm tra cái cánh cửa ra vào, ông Lục lắc đầu thất vọng với chính mình. Ông không thể hiểu vì lý do gì, buổi sáng nay ông lẩn thẩn đến thế. Nhớ lại, từ sáng sớm trước khi đi chợ, bà Lục đã dặn ông:

– Ông đi cho sớm rồi còn về làm chút công việc nhà. Độ này không có mùa màng, chả ai ra đồng, có thể ông sẽ nom thấy cả cái Hồi đấy.

Ông Lục trả lời vẻ thông thạo:

– Mùa này ai ra đồng làm gì. Cùng lắm là chăm sóc vài liếp rau cải tiến quanh nhà.

Lúc ấy, ra đến đầu sân, bà Lục còn ngoái cổ lại dặn ông:

– Tôi ra chợ mua thêm tý thức ăn, ông nhớ mời bằng được ông bà ta sang dự đám giỗ nhá.

Ông gật đầu:

– Được rồi, bà cứ đi đi. Tôi biết lo liệu mà.

Đến lúc này, Ông Lục mới vỡ lẽ là ông đã nói cứng miệng với bà, nhưng thật ra, ông không biết lo liệu chuyện gì.

Chẳng ai nỡ trách ông. Nếp sống ở thôn quê miền bắc, tuy không có định lệ phân chia, nhưng việc to nhỏ như lo mai mối, dựng vợ, gả chồng cho con cái thường được khoán trắng cho các bà, và người mai mối. Phần các ông, thường là những người đóng góp ý kiến sau cùng. Trường hợp các bà đã vừa mắt, hợp ý đám nào cho con cái. Các ông có khuynh hướng làm nghị gật, tuyên bố xin vâng hơn là lên tiếng phản đối. Ông Lục không ngoại lệ. Hơn thế, ngoài việc thiếu kinh nghiệm trong công tác to nhỏ, xin cưới hỏi cho con. Ông còn thiếu một bao… xi măng để gắn vết nứt tình cảm, do sự hiểu nhầm giữa ông và ông Đăng năm nào, nên bước chân ông thêm nặng nề.

Ra đến đầu ngõ, ông đứng ngửa mặt nhìn về cả hai phía tay phải, tay trái con đường một lượt, rồi từ từ cất bước. Một lúc sau, ông giật mình nhìn xuống đôi tay không:

– Ơ hay, bỏ quên cái sợi giây ở đâu rồi?

Hỏi xong, ông quay mặt nhìn lại phía sau lưng. Biết mình nhầm, ông bật cười thành tiếng, rồi quay gót, đi ngược chiều với bước chân quen hằng ngày.

– Thưa ông ạ!

Nghe tiếng chào, ông Lục đứng lại, nhìn xững người thiếu nữ trên tay cắp cái rổ có vài bó rau vừa lên tiếng chào ông. Ông ngờ ngợ nhìn khuôn mặt khá quen, trả lời:

– Phải, không dám. Chị đi đâu về sớm thế?

Người thiếu nữ dừng chân bên đường:

– Thưa ông, con đi chợ về ạ.

– Đi chợ về rồi cơ à?

– Thưa vâng!

Ông Lục nhìn cô gái và lấy làm lạ. Con cái nhà ai mà ngoan thế. Câu nói nào cũng dạ, cũng vâng. Ông nhìn lại lần nữa, rồi hỏi lửng:

– Có phải chị… chị là…

– Thưa ông cháu là Hồi đây ạ.

Ông Lục mở to đôi mắt ra:

– Thật đấy à? Thế mà tôi nhìn mãi không ra. Ông bà bên ấy khỏe mạnh cả chứ?

– Thưa ông, thày U con khỏe.

– Liệu gìơ này ông bà ấy có nhà không nhỉ?

– Thưa ông thày U con ở nhà cả. Mời ông qúa bộ lại uống bát nước. Thày U con nhắc tới ông luôn.

Ông Lục bảo:

– Thì… tôi đang tính đến thăm ông bà ấy đây.

Đến lượt Hồi trố mắt nhìn ông Lục. Nhìn xong, nàng thấy ngượng. Ngượng vì nhớ đến câu chuyện hôm nào bà Đăng đã hỏi ý kiến Hồi về chuyện lập thân với Dụng. Nay bất ngờ gặp ông ta trên đường đến nhà mình, dù chưa ai nói, Hồi đã đoán được cái chủ đích của cuộc thăm viếng. Tự nhiên nàng lúng túng:

– Thưa ông…

– Ông bà bên ấy đi vắng à?

Hồi không trả lời câu hỏi. Nàng che lại vành nón nghiêng nghiêng:

– Thưa… Cháu xin phép về trước ạ.

– Phải, chị cứ tự nhiên.

Không chờ ông Lục nói dứt câu, Hồi thoăn thoắt gót chân. Khi đi, Hồi cố gắng trấn an chính mình, nhưng nàng không kiểm soát được đôi chân. Có thể nói, chưa bao gìơ Hồi thấy gót chân nóng và ngượng ngập như ngày hôm nay.

Ở vào lứa tuổi của Hồi, những nàng gái quê thường có nỗi bồi hồi sao xuyến giống nhau. Đó là một thứ bồi hồi sao xuyến êm như nhung và rất khó diễn tả. Đặc biệt vào thời gian ấy, sự giao tiếp giữa trai gái trong làng, tuy nói là đã cởi mở. Nhưng thật ra, ít khi người ta nhìn thấy trai tơ, gái cặp kê, tự mình tìm đến và ước hẹn trăm năm với nhau. Thường họ biết nhau, quen nhau, hoặc hơn thế. Họ bằng lòng lấy nhau, về với nhau là do ánh mắt, nụ cười, và do lời khuyên bảo của bố mẹ, người mai mối. Hồi không ngoại lệ. Trước khi được bà Đăng hỏi ý kiến về việc bà Lục ngỏ ý, xin hỏi cưới nàng cho Dụng, Hồi đã biết Dụng. Biết từ khi tóc còn để chỏm. Tuy nhiên, Hồi lưỡng lự không quyết. Sự lưỡng lự, không quyết của Hồi có nhiều nguyên do. Trong đó một phần là do sự cách biệt giữa hai giai cấp mới của xã hội. Một bên được nâng lên hàng khanh tướng liệt sỹ của Việt cộng. Còn một bên khác bị ghép vào bản án thành phần.

Từ khác biệt đó, có nhiều đêm Hồi thao thức tìm hiểu. Khối óc non trẻ, và lòng trong trắng của nàng không thể hiểu, không tìm ra nguyên do tại sao, Trời lại đẻ ra cái tổ chức bác đảng trên đất bắc? Tại sao Phật lại để cho Việt cộng dùng con dao mã tấu phân chia quần chúng nhân dân ra thành những giai cấp khác biệt và chống đối nhau? Bên cạnh cái khó khăn vì giai cấp, thành phần do nhà nước tạo ra, Hồi còn một nghi vấn khác. Nàng thấy giữa ông Lục và ông Đăng có điều gì như gío không thuận, mưa không hòa. Những lúc gần đây, Hồi không thấy ông Đăng giải chiếu hoa mời ông Lục sang hút thuốc lào. Ngược lại, cũng không thấy ông Lục trải thảm điều rước ông Đăng qua đánh chén. Nay bỗng nhiên gặp ông Lục trên đường, Hồi thêm lúng túng. Lúc về đến nhà, đôi gò má còn nóng ran.

Phần bà Đăng, khi nghe Hồi báo tin có ông Lục đến chơi, bà đã không kiểu cách đổi xiêm y, không lấy gương lược ra chải đầu, và cũng không tô son đánh phấn, kẻ lông mày làm duyên trước khi khách vào, nhưng lại có ý bước ra sân để chờ đón khách. Còn ông Lục, sau cái nhìn chăm chú theo gót chân Hồi, ông từ từ đếm bước. Khi vào đến nửa con ngõ, ông ngỡ ngàng đứng lại trước cảnh tiêu điều, xác xơ bên mái lá với hình hài một bà lão hom hem trong mái tóc bạc phơ cuối đời. Tự mhiên, ông Lục thấy chạnh lòng, và sau câu chào thay tiếng khóc cho nhau, ông ngay thật bảo:

– Gìa rồi nên lẩn thẩn bà ạ. Tôi đã qua đây hàng trăm lượt, nay bỗng dưng đi lạc. Nếu không gặp con cháu đi chợ về, có nhẽ đi đến tối vẫn chưa đến nơi.

Bà Đăng cười trả lễ, và chả dám nghi ông Lục nói dối, bà lên tiếng:

– Mời ông qúa bộ vào trong nhà nghỉ chân, thày cháu đang dở chút việc.

– Vâng, bà cứ để cho tôi tự nhiên.

Cùng lúc ấy, có bóng ông Đăng thấp thoáng trước cửa nhà. Thoáng nhìn qua, bà Đăng nom thấy rõ nét ngượng ngập của cả đôi bên. Bà nhanh trí, không muốn cho cảnh ngượng ngùng ấy biến thành tẻ nhạt, xa lạ mất tự nhiên. Bà mời ông Lục vào hẳn trong nhà. Khách chưa ngồi vào ghế, bà Đăng đã hối hả lên tiếng gọi, dục con rót nước lên mời khách. Bà gọi đến hai ba lần, nhưng không nghe tiếng trả lời. Bà đứng dậy, vừa đi vừa mắng yêu con:

– Cái con này đến là hay. mới vừa đi chợ về đã biến đi đâu rồi, Hồi ơi.

Gọi xong, tự bà xuống bếp rót ấm nước trong lúc ông Lục ngồi xuống ghế, kín đáo nhìn quanh. Ông thật sự ngạc nhiên khi thấy căn nhà trống như nhà bỏ hoang. Ngoài một cái bàn, vài ba cái ghế xiêu vẹo và một cái chõng tre kê xát bên bức vách ngăn cách buồng ngủ với phòng khách, ông không thấy một thứ đồ đạc nào khác. Ông nhíu mày, mang máng nhớ lại câu chuyện ông Đăng lấy của đi thay người mà bà Lục đã kể cho ông nghe hôm nào, nhưng ông không để ý. Lúc này, ngồi nhìn cái bức vách trống đối diện với cửa ra vào, trên đó treo lủng lẳng một tấm hình bán thân khá mập mạp với nắm lông mồm của Hồ chí Minh, thay vì cái tủ thờ và bài vị gia tiên của gia đình ông Đăng như ngày trước làm ông Lục vừa xót xa, vừa bật cười. Ông cười vì… người đã về thay cho của đấy chứ!

Đến khi nhìn lại người bạn năm xưa, ông Lục thất thần sắc khi thấy hình hài ông Đăng đã hoàn toàn biến dạng, đổi khác. Trên mặt ông Đăng, cái nét rắn rỏi ngày nào đã tan biến đi, và thay vào đó là một lớp da xanh xạm, bọc lấy cái gò má nhô cao lên. Phía bên trên cái gò má cao là hai con ngươi lờ đờ nằm chìm sâu vào trong hố mắt với những quầng thâm đen xếp lớp bên ngoài. Riêng phía bên dưới dãy núi cao ấy là hai cái má hóp hẳn vào bên trong như người đang kéo thuốc lào. Và cuối cùng, cái cằm có chòm râu lưa thưa như tơ mành thì đưa hẳn ra phía trước để đỡ lấy cái hàm răng chỉ còn có lợi. Thấy cảnh không vui, ông Lục vội nhìn ra sân, kín đáo nuốt ngậm ngùi  thay tiếng thở dài:

– Chóng qúa ông bà nhỉ?

Bà Đăng ngồi trên cái chõng tre gần đó, góp chuyện:

– Phải đấy ông ạ, thời gìơ nó đi nhanh lắm. Mới đó, mà đã xế chiều cả rồi. Chả mấy tý nữa là xuống lỗ.

Câu nói của bà Đăng nghe rất thê lương, ông Lục lại gật gù mái đầu ra chiều như đồng ý với bà. Cùng lúc, ông Đăng đẩy cái điếu bát và xáp thuốc sang phía ông Lục:

– Ông ăn điếu thuốc.

Ông Lục đỡ lấy cái điếu:

– Phải, ông cứ để mặc tôi.

Nói xong, ông cầm cây thông nõ điếu gạt hết xác thuốc cháy dở trong nõ ra ngoài, rồi cho tay vào túi tìm xáp thuốc. Chờ ông Lục hút xong điếu thuốc, ông Đăng lên tiếng:

–  Bên ông bà độ rầy sinh hoạt ra sao?

Nghe hỏi, ông Lục không một hứng khởi, trả lời:

– Cũng làng nhàng qua ngày thôi ông ạ. Thời buổi này, kiếm được chén cơm độn cho vào bụng đã là may mắn rồi.

Thấy ông bà Đăng kín đáo đưa mắt nhìn nhau, ông Lục tiếp:

– Sự thật là như thế, nhưng khi có nói ra lại chẳng có mấy người  tin ông bà ạ.

Sở dĩ ông Lục phải nhấn mạnh câu, có nói ra cũng chẳng có mấy người tin, là vì có nhiều người trong thôn xóm đã nhìn ông bằng con mắt thành kiến. Họ cho rằng, ông thuộc diện gia đình liệt sỹ. Một diện được hưởng nhiều đặc ân đặc lợi của nhà nước, có lý nào đói ăn như nhân dân? Đã thế, ông còn con trâu, còn sào ruộng nước. Nếu không gọi là giàu có thì cái chữ nghèo cũng không thể đeo vào người ông được. Theo đó, việc ông ta than khổ phải được hiểu, một là ông ta chửi xéo thiên hạ, hai là kêu cho có câu chuyện làm qùa thôi.

Đứng trước sự việc gần như oan ức này, ông Lục đành ngậm tăm, không biết thở than tâm sự với ai. Bởi lẽ, người ta chỉ nhìn thấy cái bề mặt, không ai nhìn thấy bề trái. Nói cách khác, người ta chỉ nhìn thấy ông còn con trâu, nhưng không ai biết con trâu của ông chỉ để nhìn cho sướng mắt hơn là để hốt bạc. Lý do, ruộng đất của nông dân dù ít hay nhiều, đều gia nhập vào hợp tác xã và do nhà nước quản lý. Chẳng một ai cần thuê trâu, mướn cày của ông. Kế đến vài sào ruộng. Nếu quên đi thì thôi, nhưng mỗi lần nhắc đến là một lần ông Lục lên cơn uất. Bởi vì, cả một cánh đồng ngập nước, riêng mảnh vườn của ông lại thường bị hạn hán.

Sở dĩ có câu chuyện trời thương riêng nhà nước, và ghét bỏ ông Lục là vì:

Thứ nhất, sào ruộng của ông nằm lọt vào giữa cánh đồng của hợp tác xã.

Thứ hai, Nguyễn văn Bảng đã ra lệnh cho các xã viên, đắp một cái bờ khá cao, chạy chung quanh, bao kín lấy thửa ruộng của ông Lục. Mục đích của công việc đắp đập be bờ này là lấn đất, kế đến là … cấm không cho nước của giời và phân bón của hợp tác xã chảy vào ruộng của ông Lục. Sau khi đã ra lệnh cấm không cho nước của giời chảy vào thửa ruộng của ông Lục. Chủ nhiệm Nguyễn văn Bảng còn cẩn thận ra thêm lệnh cấm vận. Bảng cấm không cho ông Lục tát nước từ đầm nước gần đó vào ruộng của ông.

Tuy có lệnh cấm, ông Lục không thể khoanh tay đứng nhìn con lúa thiếu nước, chết khô. Ông đã kháng lệnh, và chủ nhiệm Bảng có đầy đủ lý do để tịch thu đôi gàu sòng của ông. Bảng bảo ông:

– Ông phải nhớ, cái đầm nước ấy là của hợp tác xã. Nước trong đó dùng cho tập thể, không dùng cho lợi ích cá nhân. Ông làm ăn cá thể, ông không được phép tát nước của nhà nước.

Lời của chủ nhiệm Bảng rõ ràng như bản văn hiến pháp của nhà nước Việt cộng. Ông Lục đành ngậm đắng nuốt cay trở về tay không, và thông báo cho bà Lục một bản tin buồn:

– Bà đừng có tưởng là nó không dám làm gì. Ruộng thì khô, con lúa chết cạn, hai cha con tôi đi tát nước đã bị nó tịch thu mất đôi gàu rồi.

Nghe chưa xong câu chuyện, bà Lục đã thấy nóng mặt và khí uất xông lên tận cổ. Bà lăn cao tay áo lên, đùng đùng ra khỏi nhà. Vừa nom thấy bà Lục, Bảng gỉa lả cười trừ, trả đôi gàu tát nước lại cho bà để gĩư hòa khí, nhưng quyết không bỏ lệnh cấm vận.

Từ khúc quanh đó, sào ruộng nước của ông Lục thường nứt nẻ, không thể cấy cày được. Sau này, theo kế của bà, ông Lục lấy những ống trúc nhỏ. Dùng dùi nóng, phá bỏ đốt mắt bên trong, và đặt ngầm xuyên qua bờ ruộng của hợp tác xã kế bên. Kết qủa, Bảng điên tiết và không thể nào hiểu nổi lý do tại sao, cha con ông Lục không vi phạm lệnh cấm, nhưng nước trong ruộng của ông ta luôn ngang bằng, hoặc cao hơn so với ruộng của hợp tác xã. Gã buồn lòng bỏ cuộc dò xét, vì tin rằng trời đã phụ lòng nhà nước.

Phần ông Lục, sau khi áp dụng kế lạ của vợ, ông ngồi rung đùi hút thuốc chờ thời. Ông tin rằng, phen này ông sẽ ngồi mát, ăn bát vàng. Rút cuộc, ông nhầm. Nhầm vì không biết cái xã hội chủ nghĩa quanh ông đã hoàn toàn biến đổi. Biến đổi từ con người lương thiện thành những kẻ phải theo đuổi kế sách đói ăn vụng túng làm liều. Nghĩa là, dù không muốn, nhiều người dân và toàn bộ cán bộ Vẹm từ trung ương đến địa phương. Nếu muốn có miếng ăn cho vào miệng, muốn có cái ổ cho vợ con chui ra chui vào, bắt buộc phải hành nghề… chôm chỉa. Nói ra thì bảo là vạch áo cho người xem lưng. Nhưng sự thật, trong suốt lịch trình dài lập sử của người dân Việt, chưa bao giờ cái món nghề trộm cắp này lại gặp buổi huy hoàng như dưới thời của  Hồ chí Minh.

Chuyện đời rõ trắng đen là thế, nhưng ông Lục như người rớt ở trên trời xuống. Ông không hề hay biết có chuyện đổi thay, chuyện cả nước thành ăn trộm. Cũng không hề hay biết việc ruộng lúa của ông trở thành mục tiêu lớn của những đôi mắt đói ăn. Ông vẫn ung dung, lo sắp bàn thờ cúng tế, tạ ơn trời đất khi nhìn thấy những bông lúa nặng trĩu bắt đầu đỏ đuôi. Ông chắc bụng, năm nay lúa sẽ vào đầy bồ. Kết qủa, sau ngày bái thiên, ông đưa vợ con đi gặt lúa. Ra đến nơi, ông mới vỡ lẽ. Phía bên trong, cách bờ chừng vài bước, ruộng lúa chỉ còn toàn thân rạ. Riêng các bông lúa nặng trĩu hạt đã được người… anh em đến giải phóng từ nhiều đêm trước rồi. Ông giận, tay ông ném mạnh cái hái xuống đất. Phần bà, bà muốn xắn váy lên, cho cái thằng ăn trộm kia một trận no.

Mấy hôm sau, nhân lúc vui câu chuyện, ông đem việc mất lúa ra than thở với người hàng xóm. Khi ấy, ông mới sáng mắt ra để biết. Không phải chỉ một ruộng lúa của ông gặp tai ương, nhưng toàn cánh đồng hợp tác đều chịu chung một số phận. Lý do, các thành viên lao động, nói toạc ra là các xã viên, và cả đám cán bộ của hợp tác xã đều có chung một đối sách. Muốn có bát cơm đầy thì phải lén cắt lúa của… giời cho vào bao riêng của mình trước khi có lệnh đi gặt của chủ nhiệm Bảng. Nghe xong câu chuyện, ông Lục ngửa mặt lên nhìn giời và từ gĩa luôn ý định đi báo quan. Sự việc là thế, nhưng nói ra chẳng ai tin. Ông Lục đành phân bua với ông bà Đăng:

– Có nằm trong chăn mới biết chăn có rận ông bà ạ. Người ngoài những tưởng, kẻ mang danh hiệu như tôi thì sẽ sung sướng hơn đời hơn người, nhưng thật ra, ông nhìn đây. Ông Lục dơ cao cái ống quần có một miếng vá ra trước mặt, tiếp:

– Bụng thì đói, quần áo tả tơi, nhưng nhà nước vẫn chưa hài lòng. Nay hô tích cực, mai khắc phục để làm gương cho quần chúng nhân dân noi theo. Họ coi chúng tôi như cái máy, chỉ cần nghe những khẩu hiệu ấy hơn là cơm gạo. Tôi nghĩ, nếu như tôi nhắm mắt tiến lên theo lời họ hô hào, chắc không bao lâu nữa, muốn kiếm manh vải làm cái khố để che kín… bác cũng khó kiếm ra, nói chi đến quần áo che thân.

Nghe thế, ông bà Đăng giật mình rồi bật cười vì câu nói táo bạo không che đạy, không dấu diếm của ông xui tương lai. Trong khi ấy, ông Lục lại nghiêng người về phía ông Đăng, hỏi nhỏ:

– Có phải như thế không ông? Nói ra thì bảo là lắm điều lắm nhời, nhưng không nói ra thì nó ấm ức trong lòng. Chính quyền ở đâu có thứ chính quyền ngược đời. Đã tước đoạt hết mọi tài sản, và quyền tự do của nhân dân, lại còn mặc tình mài lưỡi dao cho bén trước những thống khổ của đồng bào. Vậy mà cứ mở mồm ra là hô hoán lên, chính quyền cách mạng với lại giải phóng. Thật không biết xấu hổ cái lỗ mồm.

Ông Lục xưa nay vốn là người hiền lành, dễ tính. Ông thuộc mẫu người trầm lặng, ít nói và hầu như chả mấy khi nghe thấy ông lý luận hoặc lên tiếng bình phẩm về một vấn đề nào. Hôm nay khác với thông lệ, ông nói hơi nhiều và nói những lời không giống cung cách những người nằm trong diện có công với nhà nước. Nghe chuyện, ông bà Đăng hơi ngạc nhiên vì cung cách khác thường của ông Lục, nhưng cả hai đều yên lặng. Riêng ông Lục, ông cho rằng, việc ông nói hơi nhiều hôm nay không ngoài mục đích nói ra cái sự thật hơn là để  mua chuộc lòng ông bà Đăng!

Một lúc sau, ông Đăng cười hóm hỉnh:

– Nếu tôi nói ra, ông đừng cười nhá. Bên ông thuộc diện được ưu đãi của chế độ, ông còn những suy nghĩ lo âu như thế. Phía bên gia đình chúng tôi, đã đeo cái bản án thành phần vào cổ, cứ gọi là con cá nằm trên thớt!

Ông Lục cười thành tiếng trả lời:

– Ông lại nói thế. Chính ông đã chẳng bảo với bà nhà tôi, khéo mà có ngày tôi phải làm… bò tế thần cho chúng nó hay sao?

Nghe ông Lục nhắc lại câu bình phẩm của mình, ông Đăng lẳng lặng cúi xuống vê bi thuốc cho vào cái nõ. Ông Lục chột dạ, sợ ông Đăng hiểu nhầm, nên vội tiếp:

– Chả dấu gì ông bà, cái khoản ấy chúng tôi có nghĩ đến. Nhưng đã sống đến ngần này tuổi đời, còn phải lo sợ gì nữa? Nếu có chết cũng là đủ vốn đủ lãi rồi, nhưng chỉ tội cho đám trẻ mà thôi.

Bà Đăng giật mình đánh thót người. Bởi lẽ, người đời thường mơ ước sống lâu trăm tuổi. Nếu được trăm năm, con người có khi còn cho là qúa ngắn, và chả ai bảo sống như thế là đủ vốn đủ lời. Riêng ông Lục, mới qua một nửa cái trăm năm, ông đã cho là đủ vốn đủ lãi là thế nào? Chẳng lẽ cái vốn của ông là cách mạng. Cái lãi của ông là bất hạnh, là khổ đau? Nên ông không có ý mong chờ cái trăm năm lâu dài kia? Phần ông Đăng, chả biết nghĩ gì, sau khi đẩy hơi thuốc ra ngoài, ông bảo:

– Cũng không nên để gío thổi ngược chiều ông ạ.

Ông Lục đáp không cần suy nghĩ:

– Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Phải thế không ông?

Ông Đăng gật gù mái đầu:

– Phải, ông nói nhời nói phải.

Từ nãy, bà Đăng ngồi theo dõi câu chuyện. Có lúc bà hồi hộp sợ đôi bên vô tình làm thắt chặt thêm cái nút hiểu lầm đang cần tháo gỡ. Bà toan lên tiếng đánh lạc đề tài, nhưng lại thôi. Lúc này, sau khi nghe chồng nói một câu chí tình, bà thở phào nhẹ nhõm góp chuyện:

– Nói cho ngay ở đời thì mỗi người một cảnh khổ khác nhau ông ạ. Riêng ở đây, hai cổ đều chung một tròng. Tha cắt cổ chúng lại mổ bụng. Do đó, chả ai thoát được cánh tay của nhà nước. Trừ khi là mọc cánh bay vào nam.

Ông Lục mở to đôi mắt nhìn bà Đăng. Chữ nam bà vừa nói đã nhắc nhở ông đến một thắc mắc lớn nằm sẵn trong bụng từ lâu. Không để lỡ cơ hội, ông đặt cái xe điếu xuống trên cái điếu, ghé xát người sang phía ông Đăng:

– Bà nhắc đến trong nam tôi mới nhớ. Không biết đời sống của họ ra sao? Ông bà có nghe biết được chuyện gì ở trong ấy không?

Ông Đăng nhìn vợ, khởi đầu câu chuyện bằng một điệp ngữ rất miền bắc:

– Dấu người ta, chứ dấu gì bên ông bà. Tôi cũng không nghe gì nhiều ngoài những tin đồn. Theo những nguồn tin ấy, người mình di cư vào trong nam được chính phủ tiếp đón và chăm sóc tử tế lắm. Nghe đâu chính phủ dùng toàn máy móc phá rừng và cấp phát ruộng nương cho đồng bào ta làm ăn. Rồi trong lúc chưa có hoa màu, chính phủ cấp phát lương thực nên không một ai bị đói.

Ông Lục nhổm người lên:

– Thật như thế hả ông?

– Tôi không dám chắc, nhưng đi đâu cũng nghe người mình to nhỏ với nhau hai vấn đề. Thứ nhất, về thời tiết. Đồng bào ta sống trong đó được trời đất thương riêng, nên không mấy khi có bão lụt, hạn hán mất mùa. Phần ruộng đất, chẳng có hộ nào không có vài ba mậu ruộng, đôi ba công lúa. Về mùa màng, nghe nói mỗi năm chỉ làm một mùa thôi, nhưng thóc, gạo có đổ cho lợn ăn cũng không hết! Kế đến việc sinh hoạt, ai muốn đi đâu thì đi, muốn nuôi nấng, muốn mua bán gì tùy thích, chẳng ai cấm cản. Và cũng không nghe nói đến chuyện phải đi học tập và hợp tác ông ạ.

Ông Lục đã nghe khá nhiều loại tin đồn từ trong nam. Ông thường bán tín bán nghi. Tuy nhiên, ông không giữ nổi bình tĩnh khi nghe ông Đăng thuật lại câu chuyện. Ông Lục nghiêng hẳn ngùi về phía ông Đăng::

– Tin đồn ấy liệu có thật không hả ông?

– Sự thật thì chẳng ai biết rõ, nhưng không có lửa làm gì có khói? Người xưa có câu tiếng lành đồn xa tiếng dữ đồn xa. Ngoài mình, có ai nghe thấy tin đồn về cải cách và đấu tố ở trong ấy đâu? Chả lẽ nhà nước lại đi nói hay cho cái thằng… địch?

Ông Lục gật gù mái đầu bạc, ông không cho lời ông Đăng vừa kể là những tin đồn nhảm. Trái lại, lời nói ấy đáng tin lắm. Bởi vì, ông ta có con vào nam, nhất định ông ta phải biết chuyện hơn người. Ông hỏi tiếp:

– Còn phần cậu cả, ông bà có nhận được tin tức gì không?

Bà Đăng liếc nhìn chồng, cái nhìn như muốn bảo chả việc gì phải dấu. Ông Đăng hiểu ý, chậm rãi thả khói thuốc, trả lời:

– Cám ơn ông có lời hỏi thăm. Nhờ ơn trời đất thương, mấy anh em nó đều khỏe mạnh cả.

–  Tôi hỏi câu này, ông bà chớ trách tôi tò mò nhá?

–  Ông đến là khách sáo!

Tiếng bà Đăng nói chen vào; Ông Lục tiếp:

– Cậu cả còn ở trong đoàn quân Cộng Hòa, hay đã về tăng gia sản xuất rồi hả ông?

– Cháu còn ở trong quân đội ông ạ.

– Các cậu ấy vẫn đánh thư về cho ông bà đấy chứ?

– Có ông ạ. Khi mới vào, các cháu có viết về đều lắm. Nhưng có đến một năm nay, chúng tôi không nhận được tin tức gì của các cháu.

– Tại sao thế hả ông?

– Tôi cũng không hiểu cái lý do. Chỉ võ đoán theo lời nhà nước bảo, đồng bào trong nam vốn nghèo khổ gấp ba bốn lần ở ngoài bắc ta, lại thêm cái họa đế quốc xâm lược. Như thế, đời sống vô cùng lầm than cơ cực, cơm ăn không có, ngô khoai không đủ, tìm đâu ra tiền bạc để gởi tem thư. Hai là vì lý do an ninh, cháu không được phép viết thư về nhà.

Nói thế là ông Lục biết ông Đăng không dám nói thật. Nhưng thay vì trách cứ ông Đăng, ông Lục lại góp ý:

– Có lý nào các cháu nó không viết, hoặc nghèo khổ đến mức không có tiền gởi tem thư như lời nhà nước phản tuyên truyền. Ông còn lạ gì cái thói tráo trở của nhà nước này.

Ông bà Đăng nhìn nhau im lặng, ông Lục tiếp:

– Biết được tin các cháu, tôi mừng cho ông bà và mừng cho chúng có được một tương lai tốt. Chỉ tiếc là hồi ấy, ông bà không đi làm tôi cũng bị nhỡ lây chuyến tàu cuối.

Bà Đăng thở dài, nói câu phân trần:

– Nói cho ngay, đã là dân thì sống dưới chế độ nào cũng là… dân, và khó thoát cảnh trên đe dưới búa. Tuy nhiên, việc ở lại có lẽ là một sai nhầm lớn ông ạ. Ngưng lại một chút, bà tiếp:

– Lúc ấy, ai cũng nghĩ rằng khi ra đi là mất nhà mất nghiệp, mất làng mất xóm. Còn ở lại đã có… bác, có giải phóng, có chính phủ, có quân đội, có công an. Hơn thế, có hòa bình, có độc lập, có tự do, và ấm no hạnh phúc. Ai ngờ trăm voi không được một bát nước sáo.

– Bà nói phải. Âu cũng là cái số do trời định sẵn, nên cả nước đều bị nó lừa.

Sau câu nói toạc móng lợn, ông Lục thấy lòng hứng khởi. Hứng khởi một phần vì buổi gặp gỡ, chuyện trò với ông bà Đăng khá thuận buồm xuôi gío. Và một phần khác thì tin rằng vết nứt tình cảm giữa ông và ông Đăng trước kia đã ăn da non. Ông yên trí, cúi xuống hút điếu thuốc, uống hớp nước trà thấm giọng, và sửa lại thế ngồi:

– Thật tình với ông bà, lâu nay vì những chuyện buồn riêng trong lòng, ngoài việc dắt con trâu ra đồng, tôi chẳng mấy khi cất bước ra khỏi nhà. Hôm nay, tôi sang đây là có ý muốn thưa với ông bà một câu chuyện.

Bà Đăng vội lên tiếng:

– Ông dạy qúa lời.

– Tôi không dám, nhưng sự thật là thằng cả nhà tôi đã mất. Cháu nó mất ngày nào, chôn cất ở đâu, tôi không hay biết. Họ chỉ gởi cho tôi tấm giấy báo tin là xuổi tay, hết trách nhiệm. Tính từ ngày nhận được tờ giấy báo đến nay, đã là giáp năm thứ hai. Chiều mai tôi dự định cho cháu chén cơm, nhân tiện xin được mời ông bà và cháu sang chơi.

Bà Đăng biết đây chỉ là cái lý do ông bà Lục viện ra để đôi bên có dịp nối lại cái thâm tình cũ, nên trả lời:

– Thời buổi này, ông bà bày vẽ ra cơm nước làm gì cho tốn kém. Phần chúng tôi, nếu ông bà không cho biết thì thôi, nhưng ông bà đã bảo, nhất định chúng tôi phải sang.

– Nào có bày vẽ cỗ bàn gì đâu. Bà nhà tôi có nuôi chui được vài con gà. Nhân ngày cùng tháng tận của cháu, gọi là có một bát cơm, chén nước cho cháu. Sống cháu được hưởng, chết thì nó cũng được ấm lòng.

Chừng như ông Lục bị rơi vào cơn xúc động khi nhớ đến người con. Ông ngưng ngang câu chuyện, và đưa đôi mắt đỏ nhìn lơ đãng ra sân. Lát sau ông tiếp:

– Như ông bà biết, chỉ vì một phút nông nổi kém suy nghĩ, tôi đã để cho nó đi theo bọn hình nhân làm giải phóng. Kết qủa, phần gia đình thì tan nát. Con chết đã không nhìn thấy bố mẹ, rồi đến cái xác, cũng không biết bị người ta vùi dập vào bờ lau bụi cỏ nào. Đến khi bước vào xã hội, lại gây ra bao nhiêu điều tiếng cho dân làng. Thật, ông Lục chép miệng: Cho đến chết tôi cũng không quên được mối hận tủi này.

Nói xong, ông Lục rươm rướm hai hàng nước mắt. Bà Đăng không ngăn được cơn xót xa. Bà lên tiếng khuyên giải:

– Đã sinh ra đời là có phận ông ạ. Làm cha mẹ ai chẳng thương con, ai chẳng muốn được sống gần bên con. Tuy nhiên, trong trường hợp của cháu, biết đâu cháu đi sớm như thế lại là phần phúc riêng của cháu. Có sống như mình, đã chắc gì là hạnh phúc.

Ông Lục bùi ngùi:

– Phải, lắm lúc tôi cũng nghĩ thế! Chết là rảnh nợ, hết lo âu. Còn sống như tôi thì đúng là để làm trò cười cho thiên hạ.

Không muốn kéo dài câu chyện trong thê lương, ông Đăng cười nửa miệng pha trò:

– Chuyến này họ mời ông ra nắm ủy ban hay bên hợp tác?

Thay vì  nổi cơn điên, ông Lục hóm hỉnh trả lời:

– Tôi mà nắm ủy ban thì nhờ ông giữ hộ cái nhà kho.

Nói xong cả hai cùng cười, riêng ông Lục mừng khấp khởi. Mừng vì ông đã làm tròn nhiệm vụ do bà Lục giao phó. Ông bà Đăng sẽ sang dự đám giỗ, khi ấy vợ ông tha hồ to nhỏ, bàn tính đến chuyện của thằng út. Phần ông, ông lại khề khà ly rượu bên người bạn cũ. Khi ấy, cái vết nứt tình cảm do ông gây ra năm nào, dù không muốn nó cũng phải liền. Tự nghĩ thế ông sảng khoái đứng dậy, cầm xáp thuốc và cái đèn bật cho vào túi:

– Có lẽ trưa đến nơi rồi, tôi xin phép ông bà thôi.

Sau câu giữ khách theo lệ, ông bà Đăng cùng đứng dậy. Ra đến cửa, ông Lục không quên nhắc lại lời mời lần nữa:

– Thế nào ông bà và cháu cũng sang chơi đấy nhá.

Bà Đăng tiếp lời:

– Vâng, chúng tôi sẽ sang, nhưng xin ông bà đừng bày vẽ cỗ bàn ra làm gì! Riêng cháu nó, xin ông bà để cho khi khác.

– Phải, để tùy ý cháu bà ạ.

Nói xong, ông Lục bước ra khỏi con ngõ nhỏ. Con ngõ ông đã cố tình bỏ quên mấy năm nay, lúc này, nhờ nó lòng ông lại rộn lên một niềm vui mới. Bước chân ông dòn dã hơn. Về đến nhà, ông chưa kịp vào trong. Bà Lục đã đon đả hỏi chồng:

– Ông có gặp ông bà ấy không mà về trễ thế? Tôi chờ mãi.

– Có, tôi gặp cả hai đấy chứ.

– Công việc thế nào, liệu ông bà ấy có sang không?

Ông Lục chân trong chân ngoài kể lại đầu đuôi câu chuyện, rồi bảo:

– Ông bà ấy sẽ sang, còn cái Hồi thì không chắc.

– Vậy cũng được, bề gì nó cũng là con gái, chả nên ép nó.

Chưa nói được mấy câu chuyện, bà Lục quay nhìn ra ngõ và thấy có bóng người thấp thoáng. Bà lên tiếng:

– Ai đó?

– Thưa bà, cháu là Hồi đây ạ.

Ông Lục thoáng ngạc nhiên, trong lúc bà Lục bước trở ra sân:

– Vào đi cháu, có việc gì mà phải rón rén thế?

Hồi bước lên thềm nhà vẻ ngập ngừng:

– Thưa bà…

Bà Lục đỡ vuông vải đen trên tay Hồi:

– Cái gì vậy cháu?

Không chờ Hồi trả lời, bà Lục đi vào trong nhà rồi để túm vải xuống trên cái chõng. Trong lúc tay bà lần mở các nút thắt vuông vải, tiếng bà ngỡ ngàng kêu lên:

– Ấy chết, sao thày mẹ cháu lại làm thế này?

– Thưa bà, thày mẹ cháu có nhời dặn, ông bà bên đây không phải là người xa lạ, nên mới dám có chút qùa mọn để cúng giỗ cho anh cả. Nếu là người ngoài, thày mẹ cháu không dám đường đột.

Ông Lục từ nãy đứng ngây người, ông hết trố mắt nhìn vợ, nhìn Hồi rồi đến lít gạo nếp gói trong vuông vải. Ông hoàn toàn rơi vào trong sự xử thế đầy tình người của ông bà Đăng. Riêng bà Lục, mặt bà lộ rõ nét tươi vui. Vui không phải vì được lít gạo nếp, nhưng chính vì sự kiện bà sắp có con dâu. Bà cười nói luôn miệng. Sau khi đem lít gạo nếp cất vào trong buồng, bà đưa trả vuông vải đen cho Hồi:

– Cháu có vào ngồi chơi uống bát nước không?

– Dạ thưa bà, xin phép bà để cho khi khác.

Bà Lục không nài ép, bà bảo Hồi khi nàng bước xuống bậc thềm:

– Cháu về cho bác gởi lời cám ơn thày mẹ cháu nhá.

– Thưa vâng.

– Rồi hôm giỗ, nhớ sang đây giúp bác một tay.

– Dạ…!

Hồi quay gót bước đi, ông bà Lục đứng nhìn theo bước chân nhẹ nhàng khoan thai của nàng. Bà Lục nhìn thẳng mặt chồng:

– Được người như thế về làm dâu, tôi có chết cũng an lòng.

Ông Lục nhìn bà đáp gọn:

– Phải, bà nói nhời nói phải!

 

 

Chương bảy********************************************************************

******************************************************************************

 

 

 

Đã từ lâu lắm, hôm nay ông Đăng mới có được một niềm vui nho nhỏ. Niềm vui đó chính là sự đả thông nỗi lòng uẩn ức giữa ông và ông Lục. Sau khi tiễn chân ông Lục ra về, thay vì ra xem liếp rau, vợ chồng ông Đăng  ngồi lại nói thêm vài câu chuyện nhà. Lát sau, ông nhìn vào phía trong dục vợ:

– Bà gọi con nó ra đây, hỏi nó lại một lần nữa trước khi gỉa nhời dứt khoát cho người ta.

Bà Đăng liếc nhìn chồng:

– Còn phải hỏi han gì nữa, tôi đã bảo nó đến mấy lần.

Ông Đăng chậm rãi nhắc lại:

– Tuy là như thế, nhưng tôi muốn nghe rõ ý kiến của nó để sau khỏi có điều ân hận.

Bà Đăng chiều chồng, quay vào trong gọi lớn tiếng:

– Hồi à… ra đây U hỏi tý việc nào.

Chưa nghe tiếng trả lời, bà tiếp:

– Cái con này đến hay, vừa mới ở đây đã bỏ đi đâu rồi, Hồi ơi.

Bà chưa dứt câu, bóng Hồi thấp thoáng, ngập ngừng bên khung cửa:

– U cho gọi con?

Thay vì trả lời, bà Đăng ngước nhìn Hồi từ đầu đến cuối chân. Bà nhìn như để thẩm định lại sự đánh gía của bà cho rằng, con gái út của bà vừa đẹp vừa ngoan. Khi biết chắc sự đánh gía ấy không đến nỗi nhầm, bà đáp:

– Phải, U gọi con ra cho thày con hỏi tý việc.

– Thưa thày, có chuyện gì ạ?

Hỏi xong, Hồi mau mắn đến ngồi phía sau lưng bà Đăng. Rồi chả cần ai dục, Hồi tự động cởi nút thắt vuông vải dùng làm khăn quấn trên đầu bà Đăng xuống, nàng muốn rẽ lại mái tóc và nhổ bớt cho bà dăm ba sợi tóc bạc. Khi vuông vải vừa tụt xuống khỏi đầu, Hồi vẻ bỡ ngỡ kêu lên:

– Không nhổ được nữa U ạ. Nhổ thế này thì hết tóc.

– Thì có ai bảo con nhổ nữa đâu.

Tuy nói thế, bà Đăng không phản đối việc Hồi tiếp tục rẽ lại mái tóc và nhổ cho bà vài sợi tóc sâu. Đây là một cử chỉ rất đơn sơ, vừa thân thương vừa đầy tình nghĩa mẹ con, Hồi thường làm cho bà trong lúc hai mẹ con nàng rảnh rỗi. Bà Đăng rất yêu thích công việc nhỏ bé ấy. Lát sau, thấy chồng ngồi im lặng, bà lên tiếng dục:

– Ông hay nhỉ, muốn hỏi con điều gì thì cứ hỏi. Đã cho gọi nó ra đây, ông lại ngồi yên ắng thế?

Ông Đăng từ nãy, mải ngồi nhìn và quan sát từng cử chỉ lời nói của hai mẹ con Hồi. Khi nghe vợ dục, ông giật mình chưa biết mở đầu câu chuyện bằng cách nào. Ông đẩy sang cho bà:

– Thì bà cứ nói cho con nó nghe đi.

Nghe ông Đăng nói thế, Hồi cúi xuống gần bên  vai bà Đăng:

– Thày muốn hỏi con điều gì hả U?

Bà Đăng kín đáo nhìn chồng, nhìn con rồi bảo:

– Thì… về chuyện trăm năm của con chứ còn chuyện gì nữa.

Nghe thế, Hồi gục hẳn đôi má đỏ xuống trên vai bà Đăng, e thẹn:

– U hay thế! Con không muốn lập gia đình sớm. Con chỉ muốn ở nhà với thày U thôi.

– Nữ thập tam, nam thập lục. Con năm nay đã 17, không lấy chồng còn để đến bao gìơ?

Không chờ cho Hồi trả lời, bà Đăng giảng giải:

– Nếu xét về tuổi tác thì các cụ ta thường dạy như thế, nhưng nói cho ngay, chả mấy người lập thân vào lứa tuổi này. Tuy nhiên, con năm nay đã 17, và thày U thì giống như cánh lá vàng cuối chiều, cái ngày về với ông bà không còn bao xa. Thày U muốn lo cho con có nơi có phận hơn là long đong về sau. Ý con…

Hồi mỉm cười, tiếp lời bà Đăng:

– Ý con… chỉ muốn ở nhà thôi. U chả nên lo con ế chồng, ở nhà ăn hết cơm gạo củaU.

Bà Đăng mắng yêu con:

– Con này nói lạ…

Câu chuyện hỏi ý kiến Hồi những tưởng khá dễ dàng, không ngờ, cả hai bên đều nhìn nhau trong ngập ngừng im lặng. Trước hết, sự im lặng về phía ông bà Đăng có nhiều nguyên do, trong đó có sự kiện nhìn cảnh nhà xơ xác, họ không biết lấy gì để lo cho con. Nói thế, không có nghĩa là người nghèo khó thỉ con cái bị ế ẩm. Nhưng cái mặc cảm ấy đời nào cũng có. Tuy nhiên, cái bản án thành phần của ông Đăng phải được kể là một gánh nặng vào lúc này. Ai cũng biết, nó không phải là một bản án để đưa ông bà Đăng vào tù. Nhưng trên thực tế, ông bà Đăng, và con cái của họ phải chịu rất nhiều áp lực từ sinh hoạt trong xã hội Việt cộng. Xã hội này tồn tại được bao lâu thì chưa ai dám quyết, nhưng ngày nào chúng còn tồn tại thì những người như ông bà Đăng, có con di cư vào Nam, đi lính cho phía Cộng Hòa còn gặp nhìều tai ách với chúng.

Hồi, con ông Đăng, không có ngoại lệ. Nàng biết ảnh hưởng của bản án thành phần trên bản thân và Hồi cũng biết mình đang độ xuân. Nghĩa là, nàng đang ở vào lứa tuổi mơn mởn như đòng đòng sắp trổ bông. Một lứa tuổi tốt nhất, thuận lợi nhất cho việc lập gia đình. Hoa có lứa, gái có thời. Không có con ong, cánh bướm nào mê hoa tàn nhụy rữa. Và chắc không ai dại dột, ngồi chờ gái lỡ thời cho mình mảnh tình si.

Tuy biết thế, Hồi lại cho rằng, tư tưởng ấy qúa khắt khe và không công bằng. Khắt khe vì chuyện lập gia đình là do ý thức của mỗi cá nhân, hơn là ý muốn của người ngoài. Theo Hồi, mỗi người có quyền chọn lựa lấy cuộc sống và sống cho mình, không nên trói buộc người con gái vào trong cái thành kiến cổ hủ của xã hội. Đã thế, tư tưởng này lại không công bằng. Bởi vì, nó luôn luôn trói buộc  người con gái vào trong ý nghĩ thiển cận. Cứ đến tuổi là phải lo đi lập gia đình. Nhiều người lấy chồng, không cần biết đến tình yêu, không cần biết đến hạnh phúc tương lai là gì. Họ phải lấy chồng vì lo ế ẩm, vì ngại những điều tiếng chung quanh, và phải lấy chồng cho có chồng với chị với em. Hoặc phải lấy chồng vì mấy lời hát dạo:

– ”Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi. ” hay là ”không chồng khổ lắm chị em ơi.”

Cứ thế, từ thành kiến đến những câu hát dạo. Chị em phụ nữ tiếp tục rủ nhau lấy chồng cho… vui. Phần kết qủa hạnh phúc, hay đắng cay thì hoàn toàn phó mặc cho dòng định mệnh với sự rủi may của đôi ba bến nước, trong nhờ đục chịu. Có cơm có cá thì may, không cơm không cá, chạy về nhà, mò nồi cơm bà ngoại. Khi nghĩ đến khúc quanh này, Hồi bật cười tự bảo:

–         Nếu thế, Hồi chẳng đi lấy chồng.

Hồi có ý tưởng ngộ nghĩnh này, không phải vì Hồi biết mình là cô gái đẹp với hương xắc lẫy lừng, làm nhiều trai làng ngơ ngẩn. Cũng không phải vì nàng tự cho mình là cô gái duyên dáng, từ đó, nàng chỉ cần đưa tay ra là: ”Ba đồng một gánh đàn ông”. Cũng không phải vì nàng thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt, vào xe đẩy, ra xe cáng, để nàng có quyền kén cá chọn canh. Đặc biệt, nàng cũng không thuộc diện tiểu thơ Việt cộng, muốn dùng đôi dép râu để hù những tay chơi yếu bóng vía. Nhưng chính vì nàng là cô gái mới, vừa trưởng thành trong xã hội chủ nghĩa Việt cộng! Một xã hội không lấy đạo  đức, luân lý xã hội và nhân bản làm gốc.

Từ trong xã hội chủ nghĩa của Việt cộng, Hồi thấy, những người thanh niên, thiếu nữ trên đất bắc, cùng thời cùng trang lứa với nàng, không nên hủ hóa theo lời đảng. Nhưng nên võ trang cho mình một ý thức mới trong vấn đề lập gia đình:

– Thứ nhất phải vì tình yêu, vì hạnh phúc và vì tương lai của mình cũng như của con cái trong việc kết hôn.

– Thứ hai, nếu vì tình yêu mà họ kết hôn. Con cái đẻ ra phải được huấn luyện, được đào tạo trong cái nhân bản đạo đức làm người. Tuyệt đối không bao gìơ được phép noi gương đá cá lăn dưa của lãnh đạo đảng và nhà nước Việt cộng.

Sở dĩ Hồi có ý tưởng khác người này là vì suốt một chiều dài của đất nước yên vui, nhưng riêng người dân trên đất bắc phải trở thành những công cụ lao động, không nói, không cười, không niềm vui, không hạnh phúc, không tương lai. Tệ hơn thế, đảng còn buộc họ học bỏ tình người, bỏ đạo lý, rồi tham gia vào trò chơi đấu tố để tạo niềm vui, tìm lẽ sống cho bác và cho cây mã tấu.

Hiện tại là thế, đến khi nhìn vào học đường, nơi tạo tương lai, Hồi thấy đó chính là nơi, cán bộ đảng dạy cho trẻ lý thuyết phi luân. Nơi, chúng dạy dỗ cho trẻ biết cách tô son đánh phấn kẻ gian ác, thay vì dạy dỗ trẻ học điều nhân, lễ, nghĩa, tín, trung. Dưới sự giáo dục như thế, những đứa trẻ ngây thơ xinh đẹp, được biến đổi thành những hình nhân, mặt mang hình người, nhưng lòng là dã thú rập theo khuôn mẫu của bác của đảng. Hoặc được biến thành những con dao mã tấu biết đi, biết nói, biết chém giết không gớm tay trên thân xác người đồng loại. Biết trở dáo cho người thân, và biết chém chết niềm ước mơ hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc của người dân Việt. Một đời sống với muôn vàn bất hạnh ấy, có gì gọi là vui, có gì gọi là hạnh phúc, để nàng truyền lại cho thế hệ kế tiếp? Từ suy nghĩ đó, Hồi không có ý định lập gia đình.

Trong khi đó, ông bà Đăng lại không thể hiểu lòng con mình. Cứ thấy con càng lớn, lại càng lo. Hơn thế, có lúc ông bà Đăng nhìn nhau bằng ánh mắt buồn phiền lẫn thất vọng. Buồn vì để con gái lớn trong nhà, có khác gì chứa qủa bom nổ chậm? Khi có mấy đám đến xin hỏi cưới Hồi, ông bà Đăng mỉm cười, những tưởng phen này sẽ… khiêng bom sang nhà người khác. Ai ngờ, lúc hỏi ý kiến Hồi, Hồi nhất định không bằng lòng. Kết qủa, ông bà Đăng đành trả lời cho người mai mối:

– Cám ơn ông bà có lòng thương đến cháu. Nhưng cháu còn nhỏ dại và chưa muốn đi gánh vác.

Người được nghe câu trả lời thừa biết ông bà Đăng và Hồi chê thân chủ của mình. Tuy nhiên, không thể đưa ông bà Đăng ra tòa vì cái lý do, cháu còn nhỏ chưa muốn đi lấy chồng. Nên ngay khi vừa bước ra đến đầu đường, người mai mối kia không quên nhìn sâu vào trong con ngõ nhỏ, phang ngang một câu:

– Thật không biết giời cao đất thấp là gì. Đã mang cái án thành phần vào cổ, còn chưa mở mắt ra hay sao mà neo gía.

Ông bà Đăng nghe được lời bình luận ấy đã buồn, lại rát như muối xát vào mặt. Nên khi ông bà Tế là người cùng chung một danh sách thành phần, đến gặp ông bà Đăng, nói câu chuyện trăm năm cho con là Đạo, ông bà Đăng có ý bằng lòng ngay. Đến khi hỏi ý kiến Hồi, nàng lại thưa:

– Con biết anh ấy là người có học lại tử tế, và cùng hoàn cảnh với gia đình ta, con rất qúy trọng bên ấy. Nhưng xin thày U thương, con chưa muốn lập gia đình.

Nghe câu trả lời ấy, ông bà Đăng thất vọng ra mặt, nhưng không muốn ép buộc con, đành tìm cách trả lời cho ông bà Tế vui lòng. Rồi kể từ ngày gỉa nhời cho ông bà Tế, ông bà Đăng tự ý xếp lại hồ sơ, không muốn đề cập đến vấn đề hôn nhân của Hồi nữa. Không ngờ, lúc gần đây, bà Lục, một người mẹ của cách mạng Việt cộng, người mẹ của chiến sỹ nhân dân lại chính thức bước vào đường đua, khiến ông bà Đăng khó nghĩ. Cuối cùng hai ông bà đành phá lệ để tìm cho ra câu trả lời.  Khi thấy chồng vẩn yên lặng, bà Đăng lên tiếng hỏi Hồi:

– Chuyện ông bà Lục đã sang đây ngỏ ý, muốn xin con về bên ấy, ý kiến của con thế nào?

Ý kiến con thế nào? Câu hỏi Hồi đã dự đoán trước, nàng vẫn không tránh được sự giao động.

Dụng, một chàng trai làng cùng trang lứa với Hồi. Anh ta không có nét tuấn tú, thanh lịch, nhưng cũng không có điệu bộ quê kệch của những người đặc ruộng. Anh ta cũng không có cái cung cách dị hợm, vênh váo, đá cá lăn dưa của lớp người được liệt kê vào danh sách ưu tú như cán bộ, đảng viên hay gia đình liệt sỹ của của Việt cộng. Dụng chỉ là một chàng nông phu áo vải, có vóc dáng vạm vỡ khỏe mạnh, có một khuôn mặt trông rõ nét thật thà đôn hậu. Tài của Dụng là việc sử dụng ngọn roi nhỏ thoăn thoát trên tay. Ngồi uống chưa cạn chén trà nóng, Dụng đã dẫn trâu cày xong công ruộng.

Với Hồi, Dụng không phải là người xa lạ. Hồi và Dụng đã biết nhau ngay từ khi tóc còn để chỏm. Ngày ấy, Dụng, Hồi và những đứa trẻ lối xóm thường chạy nhảy, chơi chung với nhau. Khi chơi, Dụng nổi tiếng là một đứa trẻ vừa nhát vừa dốt. Nó không bao gìơ biết chơi ăn gian. Mỗi khi chia phe, chơi trò đuổi bắt, Dụng giống như một trái banh. Chúng bạn hết đẩy nó sang bên đây, lại trả về bên kia. Nó trở thành một đứa trẻ không có mặt thì thiếu người, có lại là thừa thãi. Những lúc đứng nhìn trái bóng chạy ngược chạy xuôi ấy, con bé Hồi thấy vừa buồn cười vừa tội nghiệp cho thằng Dụng. Tuy Dụng bị bạn bè sử nhạt, nhưng nó lại là một đứa trẻ tốt bụng. Thỉnh thoảng nó mang đến cho Hồi, cho Cách qủa chuối, củ khoai. Trong lúc vui vẻ, chia chung nhau củ khoai của tuổi thơ, có khi nào Hồi dám nghĩ đến chuyện sau này, khi lớn lên, bố mẹ thằng Dụng đi hỏi cưới con bé Hồi cho thằng Dụng?

Dĩ vãng làm Hồi tự mỉm cười, nàng giữ im lặng. Bà Đăng lên tiếng nhắc lại câu hỏi. Hồi nói tránh:

– Con không biết anh ta mấy.

– Có gì mà biết với không. Nó hiền lành chân thật cả làng đều hay.

– U dạy như thế cũng phải, nhưng anh ta là con của liệt sỹ còn gia đình mình…

Hồi bỏ lửng câu nói khi nàng bắt gặp ánh mắt đầy dấu phẫn nộ, và đau khổ của ông Đăng. Ánh mắt ấy như muốn bảo:

– Thế con định trách bố mẹ, là tại bố mẹ cho anh con đi lính cộng hòa rồi di cư vào nam, để gia đình bị liệt kê vào thành phần, làm dở dang việc trăm năm của con đấy à?

Nhưng ông Đăng kịp giữ lại câu hỏi đầy uẩn ức ở trong lòng, rồi lặng lẽ ném ánh mắt phiền muộn ra ngoài khung cửa. Tín hiệu ấy giống như một câu trẩ lời chấm hết cho những hy vọng của ông. Ông toan đứng dậy, bước ra ngoài để tìm lấy chút không khí ở trước sân cho lòng ngực bớt nóng, ngộp, nhưng lại thôi. Lát sau, ông nhìn con. Ông muốn giải thích cho Hồi biết việc ông cho Thông, người anh cả của Hồi gia nhập vào đoàn quân cộng hòa là một việc tốt cần phải làm. Kế đến, việc ông bảo Thông đưa thêm vài đứa em vào nam là một hành động can đảm, đúng đắn không sai nhầm. Riêng việc ông quyết định ở lại thì… sai. Nhưng chuyện ấy đã dĩ lỡ rồi, ông có hối cũng bất cập, Hồi không nên nhắc lại, để nó làm rách thêm ra vết thương không thể lành trong gia đình.

Ý tưởng của ông Đăng rõ ràng như mực đổ trên tờ giấy trắng. Hơn thế, với tính tình ngay thẳng không để bụng, những tưởng ông có thể giải thích cho Hồi nghe bất cứ lúc nào. Ai ngờ, mỗi lần ông toan tính nói cho Hồi nghe là một lần ông tự luẩn quẩn, suy đi tính lại, cân nhắc thiệt hơn. Cuối cùng, ông chọn con đường yên lặng, chôn chặt câu chuyện kia xuống đáy dạ dày thay vì tháo gỡ ra. Từ sự kiện không thể tháo gỡ này, đẩy ông vào cảnh cô đơn, khắc khẩu với con và cũng ít chuyện trò với vợ.

Trong khi ấy, Hồi lại đọc được hết niềm tâm sự và nỗi u uẩn trong lòng ông Đăng. Nàng biết, đến lúc nút thắt kia cần phải được tháo cởi. Nàng đã trải lòng mình ra trước mặt ông bà Đăng:

– Xin thày U đừng nghĩ oan cho con tội nghiệp. Sự thật, con không hề than thân trách phận, cũng không bao gìơ có ý phiền trách thày U vì chuyện anh cả ra đi, để gia đình ta bị nhà nước quy vào thành phần. Lý do, nhà nước có mở tuyên truyền hết ngày này sang tháng khác, rồi quy những gia đình có con em, có thân nhân vào nam là thành phần xấu, cũng chẳng có một ai tin lời nhà nước. Gia đình ta tốt xấu ra sao, làng xóm đều có đánh gía. Riêng việc lập thân của con, con có nhiều lo lắng, nên chưa muốn lập gia đình.

Bà Đăng ngay tình hỏi:

– Con lo lắng những chuyện gì? Có phải việc xin ủy ban thuận cho làm tuyên bố không?

Tiếng Hồi rõ ràng, dứt khoát:

– Không U ạ. con không sợ chuyện ấy. Chỉ sợ anh ta sau này lại vào đoàn, vào đảng, tiếp tay cho chúng gây thêm tội ác đối với nhân dân, rồi để những nghiệp chướng lại cho con, cho cháu về sau thôi.

Ông bà Đăng toát mồ hôi nhìn nhau. Riêng bà, sau khi nhìn ông, bà quay phắt lại phía sau, nhìn như xoáy đôi mắt trên mặt Hồi. Bà không thể ngờ, và không biết người con gái bé bỏng của bà lấy ở đâu ra cái tư tưởng cực kỳ phản động như thế? Có bao gìơ ông bà Đăng dám hé môi nói ra nửa lời lo âu trước mặt Hồi, hoặc có bao giờ ông bà Đăng khuyên bảo Hồi bằng cái suy tư ấy đâu? Ai đã dạy bảo nó như thế? Càng nhìn con, ông bà Đăng càng thêm hoang mang, ngỡ ngàng. Hồi tiếp:

– Thưa thày U, thật tình không phải con không có cảm tình với anh ta, hoặc là với anh Đạo con bác Tế trước đây. Cũng không phải con có ý lấy đũa mộc chòi mâm son, nhưng xin thày U thương là con không muốn lập gia đình. Bởi vì, khi lập gia đình người ta thường nhắm đến hai mục đích. Một là hạnh phúc bản thân. Hai là tương lai của gia đình và xã hội. Về hạnh phúc bản thân, con quyết là không thể có khi con người bị trói buộc vào cuộc sống trong xã hội chủ nghĩa này.

– Kế đến về mặt xã hội. Nếu chồng của con là người có liên hệ với đoàn đảng, có thể nào con nuốt trôi miếng cơm khi anh ấy ra ngoài, rồi dúng tay vào tội ác? Làm sao con ngủ yên giấc, khi lo đến đàn con cái mai sau đi theo nghiệp chướng đoàn đảng, dúng tay vào máu người dân hiền lành vô tội, và chà đạp lên nền luân lý đạo đức của nhân dân, làm tủi hổ cho tông đường? Trường hợp lấy người trong diện như mình? Con cũng không thể ăn ngon ngủ yên. Lý do, nếu trời thương ban cho con có được người chồng đức hạnh, không dúng tay vào chuyện ác gian giống họ thì lại lo cây dao của nhà nước không hài lòng. Vì những lý do ấy, xin thày U cho con được ở nhà.

Trong lúc Hồi giải bày tâm tư, nét mặt ông Đăng không ngừng biến đổi. Biến đổi từ nét giận hờn ngấm ngầm đến cái nhìn chăm chú, đầy ngỡ ngàng. Lúc đầu, ông những tưởng Hồi sẽ nhân câu chuyện, để xa gần trách cứ cái quyết định sai nhầm của ông. Khi đó, dù không muốn, ông bó buộc phải tìm cách để lấn lướt nàng. Đến lúc này, ông mới vỡ lẽ và biết. Hồi đã không hề phiền trách ông. Hơn thế, Hồi hoàn toàn thông cảm với những băn khoăn lo nghĩ trong lòng ông. Và còn trưởng thành hơn ông nghĩ rất nhiều. Khi biết con đã trưởng thành, ông Đăng rất mừng, nhưng lòng vẫn nặng chiũ những nỗi buồn.

Buồn vì cái búa cái liềm, cái trớ trêu của bác đảng đã đẩy con ông vào bước đường không có lối thoát. Buồn vì con ông phải hy sinh thời xuân xanh tươi trẻ, hy sinh tình yêu hạnh phúc gia đình. Buồn vì Hồi phải dấu cuộc đời vào trong ngõ tối hiu quạnh. Rồi buồn vì xét về lỗi lầm? Hồi không có một lỗi lầm nào. Xét về tài mạo, đức hạnh. Hồi không thua kém ai, nếu không muốn nói là nàng hơn người. Và buồn vì Hồi đã không có, dù chỉ một lời trách cứ ông.

Nghĩ đến đây, ông thấy đôi mắt cay nặng và cổ nghẹn đắng. Ông dụi mắt, muốn khóc òa lên vài tiếng như đứa trẻ cho vơi niềm cay đắng. Nhưng khốn nỗi, những uất hận, đắng cay, chừng như mỗi lúc một dâng cao và chẹn chặt lấy cổ ông. Ông nói không thành lời, khóc không thành tiếng. khi nói không thành tiếng, ông vội cầm lấy nước bát nước. Ông muốn nhờ chén nước kéo hết những uất nghẹn ấy vào đáy dạ dày. Kết qủa, ông nuốt đến đau cần cổ, nỗi đắng cay không chịu vào.

Nuốt không vào, ông lại muốn mửa những hờn căm ấy ra ngoài. Tội thay, mửa đến khàn hơi, chảy nước mật xanh, bác đảng vẫn kiên trì bám chặt lấy cổ ông. Ông tuyệt vọng, nhắm mắt, lắc mạnh cái đầu trên cần cổ mấy vòng cho tỉnh táo, rồi mở to ra, nhìn đứa con bé bỏng ngồi trước mặt. Càng nhìn, trái tim ông càng quặn thắt. Ông hối hận, ông giận chính ông. Giận vì một phút nông nổi, thiếu suy nghĩ, tiếc mảnh vườn con trâu để đến nỗi như ngày hôm nay.

Trong khi đó, ngồi đối diện với ông là bà Đăng. Bà cũng hoang mang bối rối không kém ông. Nhưng thay vì than vãn trước cảnh cá nằm trên thớt, bà lên tiếng khuyên nhủ con:

– Trời có khi nắng khi mưa. Trăng có lúc tròn lúc khuyết. Không ai nằm vắt tay lên trán từ tối đến sáng. Cũng thế, lo âu là chuyện từng ngày, lập thân là chuyện một đời. Con không thể vì những suy nghĩ kia mà bỏ qua việc đi gánh vác. U ngày xưa trước khi lấy thầy con, tuy không có bác đảng, nhưng cũng có hàng trăm nghìn nỗi lo. Kết qủa, dù không có nhà cao cửa rộng, không lụa là gấm vóc, vẫn tìm được niềm vui bên các con. Con nên lấy đó làm kinh nghiệm cho con hơn là ngồi lo nghĩ xuông.

– Nào có phải con sợ khổ hay thích mơ ước nhà cao cửa rộng? Con chỉ ngại những điều bất thường trong xã hội này thôi.

Chẳng hiểu nghĩ gì, bà Đăng bảo:

– Giời sinh voi thì giời sinh cỏ. Xã hội nào cũng có những quy luật riêng. Tuy nhiên, con chả nên lo vì việc vào đoàn vào đảng của nó.

– U nói như thế là có ý gì?

– Nào có ý gì đâu con. U muốn cho con biết là chính nó đã bảo U, có chết nó cũng không vào đoàn vào đảng với chúng.

– Anh ta có nói thế à?

– Có nói thế. Lúc trước U không tin, sau này chính bà Lục bảo U như vậy.

Hồi buột miệng:

– Thật dại qúa.

– Con bảo dại cái gì?

– Con sơ ý lỡ lời. Ý con muốn bảo anh ta thật thà qúa, nói ra như thế nhỡ đến tai người khác thì khó sống với chúng.

– Nó đâu có dại đi nói với người ngoài.

Hồi cãi lại:

– Thì chính anh ta đã nói vớiU.

Bà Đăng liếc yêu con gái vẻ hãnh diện:

– Nó chẳng coi U là người ngoài.

Hồi gỉa như không nghe rõ, tuy nhiên, nàng có ý mừng thầm trong bụng. Nàng mừng, không phải vì cảm tình riêng tư của nàng có thể đạt, nhưng chính vì chủ quan cho rằng. Dụng và phần đông các thanh niên nam nữ trên đất bắc, đã tự võ trang cho họ cái ý thức nhất định không làm tay sai, không tiếp tay với cộng sản trong việc gây tai họa cho dân. Nàng tươi nét mặt hỏi lại:

– Mà U có dám chắc như thế không?

Bà Đăng mắng yêu con gái:

– Cái cô này hỏi đến hay. Nó nói như vậy thì biết… vậy, ai mà dám chắc.

Hồi đang tính bảo:

U chỉ hay tin người thì nghe có tiếng gọi từ phía đầu ngõ, bà Đăng vội quay ra cửa, kéo cái vuông khăn đội lên đầu, dục Hồi ra ngoài xem ai đến. Phần bà, bà đi nhanh vào trong buồng. Sau vài giây đắn đo, bà lấy vuông vải đen trải rộng ra trên giường, bước đến trước cái chum, trong đó đựng mấy lít gạo nếp. Bà mở nắp, lấy bát đong ba bát nếp đổ lên trên vuông vải. Sau khi cột túm bốn góc vuông vải lại với nhau, bà đứng lặng nhìn chum nếp. Nó như đã vơi hẳn đi. Bà nghĩ ngợi môt chút rồi quay trở ra ngoài. Cùng lúc đó, Hồi bước ra sân, nàng thấy bà phó Ba đã vào đến trong sân.   Nàng vội lên tiếng chào:

– Thưa bà phó, bà phó lại nhà.

Bà phó, một tay bưng cái rổ không, một tay cầm nghiêng nghiêng vành nón nhìn Hồi mỉm cười:

– Ấy cô cứ khách sáo kêu bà phó làm gì. Tôi tiện đường ngang qua đây, muốn ghé thăm thày mẹ cô một tý thôi, ông bà có nhà không cô?

– Thưa bà có a.! Mời bà phó qúa bộ vào trong nhà ngồi nghỉ chân.

– Cám ơn cô, cô cứ để cho tôi tự nhiên.

Hồi quay vào, nàng chưa lên tiếng gọi, bà Đăng từ trong nhà bước ra:

– Ai vậy con?

–  U ơi, có bà phó lại chơi.

Bà Đăng miệng xuýt xoa:

– Qúy hóa qúa, bà phó lại nhà.

Nói xong, bà tranh thủ thời gian dúi vuông vải gói sẵn lít nếp vào tay Hồi:

– Con đem sang bên bà Lục, bảo mẹ có chút qùa biếu bà ấy làm giỗ cho anh cả.

Hồi lưỡng lự một chút, rồi cầm túm gạo bước đi.   Bà Đăng quay lại:

– Mời bà phó vào trong nhà nghỉ chân.

Bà phó Ba đảo mắt quanh một vòng rồi thay vì vào hẳn trong nhà theo lời mời của gia chủ, bà ngồi bệt xuống trên miếng mo cau đặt ngay trước lối cửa ra vào:

– Thôi ngồi ngoài này cho mát bà ạ. Tiện đi ngang qua đây tôi ghé vào thăm ông bà một lát, chứ có công chuyện gì mà phải vào trong nhà chè với nước. Ông có nhà không bà, ông bà và cháu khỏe cả chứ?

Bà Đăng không cần khách sáo nhắc lại lời mời, bà hiểu rõ dụng ý của bà phó Ba. Ngồi ở ngoài, một phần cho nó mát như lời bà nói, và một phần khác quan trọng hơn, để dễ quan sát người qua lại trong lúc nói câu chuyện. Sau khi bà phó Ba yên vị trên thềm đất, bà Đăng bước quay vào trong. Lát sau, bà mang ra theo hai cái bát và ấm nước chè còn ấm. Bà để xuống bên cạnh bà phó, và kéo manh chiếu cũ trải ra trên vỉa hè:

– Cám ơn bà phó có nhời hỏi thăm. Nhờ ơn… bác với đảng nên chúng tôi khỏe cả. Ông nhà tôi đang dở ăn điếu thuốc ở trong nhà.

Nghe nhắc đến ông Đăng, bà phó Ba ngoái cổ vào trong hỏi lớn tiếng:

– Ông khỏe không ông?

Ông Đăng thở phào khói thuốc ra trước mặt:

– Khỏe, khỏe lắm bà ạ. Chỉ tội đói ăn thôi.

Bà phó Ba tay cầm bát nước, ngồi nhích gần lại phía bà Đăng:

– Ông lại nói thế. Có bác, cùng lắm là thiếu ăn thôi. làm gì có đói.

Nói xong, bà ghé sát người bên bà Đăng cười nửa miệng:

– Thời buổi đến hay bà nhỉ? Câu nói nào cũng phải thêm vào ”nhờ ơn bác, nhờ ơn đảng”. Bà xem, mình chưa nhờ được gì đã rách… toác như hôm nay. Nếu có nhờ thật, chắc tôi với bà chả còn gì!

Bà Đăng cười thay tiếng trả lời, bà phó tiếp:

– Đúng là câm hay ngóng, ngọng hay nói chữ bà nhỉ? Từ thời cha sinh mẹ đẻ đến bây gìơ, tôi chỉ nghe người ta nói cám ơn trời, đội ơn đất. Nhưng lúc này, thời tôm lộn cứt lên đầu, chúng lại bắt dân phải nói nhờ ơn bác… lông!

Bà Đăng bật cười vì giọng bà phó Ba kéo dài ra ở mấy tiếng sau cùng. Những lúc gần đây, mỗi khi gặp bà Đăng, bà phó Ba thường ăn nói táo bạo như thế, tuy nhiên, chả lần nào bà Đăng phản đối. Nhớ lại lúc trước, bà Đăng và bà phó Ba, tuy là người đồng thôn. Nhưng đôi bên có một khoảng cách khá rõ rệt. Họ biết mặt nhau hơn là sự đi lại chuyện trò thân thiết. Đến lúc Hồ chí Minh vác búa, vác liềm về Xuân Thủy làm mùa đấu tố phú nông địa hào, và cạo… lông ông phú Lộc, bà phó, rồi phân chia tình làng xóm, láng giềng ra theo những đường ranh giới mới. Bà phó Ba ngó trước nhìn sau, tự thấy phận mình lẻ loi, lép vế, nên tìm đến và làm thân với bà Đăng.

Khi đến, bà phó Ba không cầu kỳ rào trước đón sau, cũng không võng lọng, xe cáng. Bà tự nhiên kéo cái chiếu rách ngồi xuống bên bà Đăng, tự coi ông bà Đăng như những người thân không thể thiếu trong cuộc đời. Từ khúc quanh đó, tuy không ký kết giấy tờ, đôi bên đã trở nên thân và chẳng có câu chuyện to, chuyện nhỏ nào bà phó Ba nghe biết mà không kể lại cho bà Đăng cùng nghe. Bà hỏi:

– Lâu nay bên bà có nhận được tin của cậu cả ở trong nam không? Tôi nghe người ta đồn thổi với nhau nhiều chuyện lạ lắm, không biết thật hư thế nào?

Hỏi xong, bà phó Ba để bát nước chè xuống trên manh chiếu, rồi thuận tay, bà lấy gói trầu và qủa cau bổ sẵn, được gói cẩn thận trong một cái miếng ny lông nhỏ, ra khỏi túi. Bà đưa mời bà Đăng trước khi lấy một miếng cho mình. Cả hai bà đều vui vẻ cho miếng trầu vào miệng để bắt đầu câu chuyện. Khi nhai dập miếng cau, bà phó ba cho cuốn lá trầu vào miệng. Nhai bõm bẽm thêm vài cái nữa, bà quay mặt sang một bên, nhổ toẹt bãi nước trầu xuống trên nền đất. Bà Đăng có cùng một cung cách ấy. Bà hỏi lại câu chuyện bỏ dở dang:

– Những chuyện gì vậy hả bà phó?

Bà phó Ba bỏ thêm cục thuốc lào vào miệng cho câu chuyện thêm đậm đà:

– Những chuyện tôi kể ra, có khi bà đã nghe rồi.   Hôm trước tôi có nghe nói, ở trong Nam chính phủ họ cho người dân được tự do đi lại và xây dựng đời sống. Riêng đồng bào ta mới di cư vào, được chính phủ mở những khu dinh điền cho định cư. Nghe đâu mỗi hộ được cấp phát đến ba bốn mẫu ruộng, và cả trâu bò để làm mùa nữa bà ạ.

Bà Đăng xuôi theo câu chuyện:

– Chả biết có đúng như thế không, hay chỉ là những tin đồn nhảm.

– Nhảm thế nào được mà nhảm. Chả gì người ta cũng được chữ tự do.

Sau khi đưa ra lời qủa quyết chắc chắn như thế, bà phó  Ba ghé xát bên tai bà Đăng vẻ bí mật:

– Còn chuyện bầu cử thống nhất nữa, bà có nghe được tin tức gì không?

Bà Đăng cười nhạt:

– Không bà phó ạ.

Bà phó Ba làm ra vẻ quan trọng:

– Khéo mà ngoài này đã nuốt nhời rồi. Nghe đồn bên trong ấy dân chúng không muốn đi bầu chung với Việt cộng ngoài mình!

Nói xong, bà phó Ba há miệng, lấy miếng bã trầu ném ra góc sân:

– Nếu không có bỏ phiếu, mình chẳng còn một tý hy vọng nào. Ruộng vườn đành chịu mất, chả lấy lại được. Ngưng lại một lát, bà tiếp:

– Nghĩ lại, thật không ai dại hơn ông phú nhà tôi.   Lúc còn tiền thùng bạc gánh, thì không chịu gánh vào nam để an hưởng tuổi gìa, lại đi nghe vài ba cái thằng đầy tớ nằm vùng ở trong nhà rồi ở lại. Kết qủa, sau khi chúng về, vườn rộng ao sâu đều bị tịch thu hết. Đã thế, ngày chết nấm mồ cũng không có người nhang khói. Phần vợ con thì bị chúng liệt kê vào thành phần có liên hệ nợ máu với nhân dân, bị bỏ ra ngoài lề xã hội.

Sau tiếng thở dài, bà phó Ba tự ý kéo bà Đăng trở lại câu chuyện ngày xưa của bà. Đây là một loại chuyện mà bà phó Ba thường cho rằng, nó đẹp, có đầy những kỷ niệm và bà chẳng khi nào quên. Bà tả:

– Đấy bà xem, thời con gái và những ngày tôi sống với ông phú… đẹp có khác gì một giấc chiêm bao. Mỗi sáng khi mở mắt ra là nhìn thấy ánh mặt giời lung linh vươn lên khỏi ngọn cau. Rồi lúc chiều xuống, lại thong thả đứng trước hiên mà nghe tiếng tiêu và đợi giăng rụng xuống cầu. Bà chắc còn nhớ, khi ấy, tiếng là ta sống dưới thời thằng tây đô hộ và bị nó bóc lột, nó kìm kẹp nhưng thật ra tôi thấy nó còn dễ chịu hơn bây giờ. Vì có khi nào lời ăn tiếng nói của mình bị dòm ngó, bị phê bình kiểm thảo? Rồi việc đi lại có khi nào bị cấm cản và phải xin phép xin tắc? Còn lúc này? Bà phó ba ngưng lại lấy hơi, tiếp:

– Được gọi là nước độc… nập, tự ro, ấm lo hạnh phúc với chính quyền cách mạng của bác lông thì cả nước đói rách cơ hàn, và xếp hàng làm tôi mọi cho bọn Nga, Tàu. Muốn đi đây đi đó thì hàng trăm thứ giấy tờ vẫn chưa được phép ra khỏi nhà. Khi có công có việc, muốn tổ chức lễ lạc đình đám hội hè, cưới vợ gả chồng cho con, cho cháu thì ôi thôi, chúng vẽ ra hàng nghìn thứ giấy tờ khác nhau. Nếu không thuận theo ý chúng, một là vào tù hai là bị kiểm thảo, bị phạt vạ vì cái tội… ngu. Giọng bà phó bỗng vút lên cao:

– Tội ở đâu lại đẻ ra thứ tội lạ đời? Có chăng vì một lũ ngu nên mới đẻ ra được cái tội ngu như thế.

Dĩ nhiên cái nhìn của bà phó Ba về xã hội của Hồ chí… phèo chỉ đúng có 99 phần trăm, còn một phần trăm khác thì… sai. Sai vì bà là người thuộc giai cấp tư sản cũ, thế nào bà chả thêm vào tý mắm tý muối cho nó mặn mà câu chuyện. Tuy thế, không có ai nỡ trách bà lắm nhời. Bởi vì:

– Thứ nhất, bà và người dân Xuân Thủy không cần Việt cộng, không cần giải phóng của chúng. Đặc biệt không cần sự có mặt của Hồ chí Minh. Vì sự hiện diện của gã chỉ đem lại bất hạnh và tai ách cho nhân dân.

– Thứ hai, người dân như bà chỉ cầu mong một đời bình dị bên vườn rau luống cải, bên ruộng lúa con trâu, bên nồi cơm nóng bát canh ngọt. Họ không cần những khẩu hiệu dao to búa lớn của nhà nước Việt cộng. Nói cách khác, họ không thể sống vì những cái khẩu hiệu lẫy lừng của đảng và nhà nước ta được.

– Thứ ba, người dân thường cổ hủ, nặng thành kiến nên thích ngày hội, nhớ ngày lễ. Càng nhớ ngày xưa, họ càng không thể thích ứng, hoặc xích lại gần với lối sống của những đỉnh cao trí tuệ ở Hà Nội. Bởi vì, khi chúng úp cái nón cối, đi dép râu lên nền phong hóa là chúng đã chà đạp lên nền luân lý đạo đức căn bản của tiền nhân.

Từ đó, họ có đủ trăm ngàn lý do để cạch mặt Hồ chí Minh, nhưng lại không thể phản kháng bác. Không thể phản kháng, vì bác rất giỏi nghề ném đá dấu tay, và thạo việc thắt hộ khẩu của người anh em. Kết qủa, những người như bà phó Ba đành phải nhường bác một bước bằng cách tiêu cực, dấu cuộc đời, dấu nỗi cay đắng vào trong câu chuyện to nhỏ với bà Đăng và nhường cái loa ở ngoài cho Hố:

– Đấy bà nhìn xem. Họ bảo cần phải đánh đổ phong kiến, phải tiêu diệt cường hào ác bá để người dân được tự do ấm no hạnh phúc. Phong kiến đã đổ, cường hào ác bá đã tiêu diệt hết. Nhưng tại sao người dân mình lại điêu linh khốn khổ gấp trăm lần thời phong kiến và cường hào ác bá xưa kia? Hỏi xong, tự bà làm câu kết luận:

– Vì cường hào ác bá độc ác thua xa bác, thua xa đảng.

– Vì cường hào ác bá chẳng qua là những kẻ cậy quyền cậy thế, làm điều phi nghĩa, bất nhân theo tư thế cá nhân. Trong khi đó, nhà nước ta có bác, có đảng, có cả một chính sách đánh cho dân không có đường chạy, và cũng không thể khiếu nại. Đánh đến tài bà nhỉ?

Bà Đăng chưng hửng vì câu hỏi giữa đường của bà phó ba, bà ngồi im chưa góp ý. Phần bà phó Ba, càng nói càng hăng. Bà quơ tay múa chân, đôi khi lại kéo cái váy rách lên qúa đầu gối với cử điệu làm như bà sẽ một sống một chết với Hồ chí Minh. Hoặc ít nhất, bà muốn cho người ngoài hiểu rằng, bà và Hồ đã đoạn tuyệt, đã đường ai người nấy đi, đã nhà ai nấy ở. Và cả hai đã chỉ tay vào gốc chuối thề rằng, sống không thể ngủ chung một giường và chết không chôn chung một… lỗ.

Sự thể lục đục giữa bà phó Ba và Hồ chí Minh ra sao chả ai biết. Nhưng cho đến hôm nay, hai bên vẫn không thể xích lại gần nhau, lại cũng không thể lấy gío đá để hàn lại vết nứt, nên người ngoài không thể biết phần lỗi về bên nào. Chỉ tội cho bà Đăng, khi không bị rơi vào giữa hai thế kẹp. Mỗi lần gặp mặt bà phó Ba là một lần, bà Đăng phải ngồi hàng gìơ để nghe bà phó Ba mở loa tuyên truyền, kể tội Hồ chí Minh và tay sai của gã dã nhân này. Nghe riết, bà Đăng thuộc nằm lòng từng cử chỉ, từng lời nói của bà phó. Tuy thế, bà phó Ba không có ý đổi đề tài. Hơn thế, bà còn dọa:

– Tôi còn sống ngày nào là tôi còn nhắc đến câu chuyện ấy.

Trong khi đó, bạn bè nối khố của Hồ chí Minh ở Xuân Thủy, cũng không vừa. Chúng luôn luôn phản tuyên truyền, chống lại cái luận điệu đầy ác ý của bà phó ba. Tuy nhiên, chúng hơn hẳn bà phó. Chúng có tập thể, vừa nói vừa đánh. Kết qủa, làng xóm trắng tay nhưng không một ai dám nói ra nửa nhời. Phần bà phó, là người thua cuộc, đành đeo cái bản án thành phần vào cổ để mà chờ chết. Tội cho bà mà cũng tội cho người dân đất bắc.

Ngồi to nhỏ thêm một lúc nữa, bà chống tay xuống thèm, đứng dậy:

– Có nhẽ qúa trưa rồi, tôi phải đi về thôi. Chứ ngồi nói chuyện thế này, có nói cả đời cũng không hết chuyện.

Bà Đăng đứng lên theo, nói cho có lệ:

– Bà phó thong thả ngồi chơi đã, về làm gì sớm.

Như không cần để ý đến lời mời  của bà Đăng, bà phó Ba tiếp tục bước trên đôi chân mỏi. Ra đến giữa sân, như chợt nhớ ra điều gì quan trọng, bà phó Ba đứng lại, níu lấy cánh tay bà Đăng:

– Cái Hồi nó nhớn qúa rồi nhỉ? Đã có ai cho người đến mai mối, hay ông bà đã đồng ý cho cháu đám nào chưa vậy?

Bà Đăng cười dễ dãi:

– Chưa bà phó ạ, cháu nó còn nhỏ. Vả lại, chuyện trăm năm của cháu, thày cháu cho cháu được tự do quuyết định.

Bà phó làm ra vẻ sành sỏi có nhiều kinh nghiệm, dù bà chả có một người con nào:

– Chớ, ông bà không nên thế. Dẫu gì làm cha mẹ, ông bà cũng nên bảo ban, khuyên nhủ cháu. Không thể để cho chúng tự ý quyết định được. Bà cứ nom gương cái Nụ nhà tôi thì biết. Lấy ai chả lấy, đi lấy ngay cái thằng cán bộ không cha không mẹ, để nó kề dao vào cổ bố mình. Lúc này thì dở sống dở chết, đòi ly dị nhiều lần rồi nhưng nhà nước không thuận. Có sống như thế cũng bằng thừa bà ạ.

Ra đến đầu ngõ, bà phó còn đứng lại dặn dò bà Đăng thêm lần nữa:

– Khuyên nhủ cháu bà ạ. Lấy ai thì lấy, đừng bao gìơ đụng đến cái đám đoàn đảng, ủy viên ủy cục hoặc gia đình của chúng. Không được yên thân đâu.

Bà Đăng gật đầu quay vào sau khi tiễn chân bà phó. Cùng lúc ấy, trong lòng bà có muôn ngàn ý nghĩ ngổn ngang. Ngổn ngang không hẳn do lời bà phó Ba nhắc chừng, nhưng chính vì bà bị giằng co bởi nhiều phía. Một bên là ý kiến của Hồi xin được ở nhà với cha mẹ. Một bên là cái cảm tình chân thật của Dụng và ông bà Lục.

Mới có bấy nhiêu, bà đã rối trí. Lúc này, thêm một cái gương lớn như cái… chiếu của Nụ, bà không biết phải sử trí ra sao? Thúc dục Hồi đi lấy chồng cũng dở, mà để Hồi ở nhà mãi rất khó coi. Bà nôn nao quay sang ông hỏi ý kiến. Kết qủa, bà chỉ nghe được những tiếng thở dài tan nát ruột gan của ông. Bà đành nhắm mắt, phó mặc cho dòng định mệnh an bài số phận rủi may cho con bà!.

 

 

 

 

Chương tám,  **************************************************

***************************************************************

phần 1

Chiều hôm sau, lúc nắng ngả màu, ông Lục trịnh trọng bưng cái mâm đồng cũ, trên đó bà Lục để sẵn một con gà luộc, một dĩa sôi và một chén nước lạnh, đặt lên trên bàn thờ. Khi những đồ lễ cúng chưa yên vị, ông Lục đã thấy người xốn xang nổi đầy gai ốc. Ông hoa mắt, thụt lùi ra sau vài bước, gọi vợ:

– Bà ơi, hình như con nó về!

Cùng với tiếng gọi, ông Lục đoan chắc với bà là ông thấy đôi mắt của tấm di ảnh nhìn ông như người thật, hơn thế, nó làm như muốn nói điều gì với ông, thay vì chỉ là một tấm ảnh xuông. Phần bà Lục, đang dở tay dọn bữa, vẫn đước đến bên ông theo tiếng gọi. Bà xót xa nhìn ông trong lúc cố phủi cho hết những dấu màng nhện bám chung quanh khung ảnh. Một lát sau, bà lại trở xuống bếp.

Thật ra đây không phải là lần đầu ông Lục thấy tấm ảnh của Lũy, con ông, linh động. Nhưng mấy lúc gần đây, ông thường có cái nhìn siêu thực này. Chả ai nỡ trách ông, bởi lẽ, mỗi lần ông ngồi nhìn lại tấm di ảnh của Lũy là một lần làm ông nhớ lại toàn bộ những tình cảnh trong ngày con ông theo cộng, thoát ly. Lúc ấy, một ngày vào độ tàn xuân, lẽ thường thì hay có những cơn mưa phùn lất phất, ít khi gặp dông bão. Nhưng hôm ấy, mây đen giăng ngập trời, rồi dông gió theo nhau nổi lên đổ trút nước xuống trên xóm thôn. Cảnh nhà ông, vốn đã tang thương với bức vách gío lùa, lại thêm cánh mưa rơi buồn bã, lòng ông Lục như xát muối. Ông bỏ cả ăn uống, ngồi chết lặng trên cái ghế này nhìn con, và đếm bong bóng trôi dật dờ ngoài sân vào lúc con ông lầm lũi ra đi.  Trong khi đó, vì chiếu chăn lạnh, bà Lục chỉ nằm được một lúc rồi trở mình thức giấc. Bà ra ngồi ủ rũ trên cái chõng nhìn ông.

Nhớ lại, đếm hôm trước, gà chưa gáy sáng, bà Lục chống tay đứng dậy, đi xuống bếp. Bà lấy rá vo gạo, thổi nồi cơm. Sau đó, bắt con gà cắt tiết, làm bữa tiễn chân con lên đường theo đuổi chiến chinh. Bà cũng không quên lấy nếp, nấu thêm nồi sôi, nắm lại thành từng nắm để cho con bà đem theo ăn đường. Qua trưa, cơn mưa vẫn không tạnh làm trời chóng tối. Ông Lục thắp ngọn đền dầu lên và đặt trên cái gía đóng lưng chừng trên bức vách hậu. Nhưng phần vì ngọn gío mãi lùa qua bức vách, phần vì tim đèn không lớn nên nó không đủ sức thắp sáng, hay làm cho rạng rỡ niềm vui trên những khuôn mặt sắp tiễn người thân lên đường làm cách mạng. Trái lại, nó vẽ cho ra, soi cho tỏ thêm những nét u uẩn trên từng khuôn mặt đang ngồi quanh mâm cơm. Đến lúc xo đôi đũa, thay vì động viên khuyên nhủ con đôi điều trước khi nó lên đường vì nước, hoặc giả, có đôi nhời như để an ủi người đi và kẻ ở lại trong lúc tạm xa, ông Lục lại vội vàng thúc dục vợ con ăn cơm cho nó nóng. Tiếc thay, chỉ có một mình thằng Dụng thật tình đáp lại lời mời thành khẩn của ông, ngoài ra là những khuôn mặt chảy dài, bất động.

Khi ấy, ngoài trời mưa vẫn bay và trong nhà thì nồi cơm nóng, bát canh ngọt, nguội dần theo cơn gío lạnh. Trước cảnh hờ hững với bữa cơm ngon, ông Lục thúc dục vợ con thêm hai ba lần nữa, nhưng hình như chẳng ai thiết tha gì đến bữa cơm. Đột nhiên, giữa lúc có tiếng đũa bát trả về trên cái mâm đồng, bà Lục kéo cái vạt áo lên lau mặt rồi khóc òa lên. Thấy lạ, ông Lục tròn vo đôi mắt nhìn vợ. Ông toan lên tiếng cảnh giác bà về sự kiện gây thêm nước mắt cho ngày mưa, hai hàng nước mắt của Lũy cũng vội trào lăn và theo nhau đổ thánh thót xuống trên tay, trên vạt áo. Nó lăn vào chén canh, hòa lẫn trong bát cơm. Nhìn cảnh không dự kiến trước, ông Lục đành im lặng.

Một lúc sau, lúc tiệc chưa tàn và ngoài trời vẫn mù mịt trong mưa gío, Lũy nghe  có tiếng đập nhẹ và tiếng gọi nhỏ ở ngoài khung cửa, Lũy gượng đứng dậy hát câu: ”mùa thu nào, ngày hăm ba, ta ra đi theo bước chân sơn hà nguy biến”. Múa hát xong, Lũy khăn gói lên vai, từ biệt ông bà Lục. Nó đi, bóng nó in lên vách nom hiên ngang như bức tượng của một tráng sỹ thời trung cổ!  Có khác là khi xưa, những tráng sỹ ra đi vì nước, hôm nay con ông đi vì Việt Minh. Và khác là người xưa đi hiên ngang dưới ánh nắng mặt trời, còn con ông thì ra đi từ trong đêm tối, thâm u, như kẻ trộm. May là có tiếng mưa nặng hạt vỗ lộp bộp, trải đều lên trên cái mảnh áo mưa quấn ngang trên mình nó thay cho tiếng kèn tiễn quân lên đường!

Bà  Lụcthảng thốt đứng dậy, xót xa, mở to đôi mắt nhìn con. Ngay khi bóng nó chìm hẳn vào trong mưa đêm, bà không một khách sáo, vật mình, đập tay xuống trên cái chõng mà khóc kể. Tiếng khóc kể của bà vang vọng ra tận cuối vườn, đuổi theo bước chân bì bõm của con bà dưới cơn mưa dầm. Nó chính là vốn liếng cho Lủy mang theo làm kỷ niệm. Phần ông Lục, đã ray rứt vì cảnh nhà cửa vắng đi một người, lại thêm lời khóc kể của bà, ông càng đau xót thêm. Nhưng thay vì khóc theo bà cho có bạn, ông đứng tựa hẳn người bên khung cửa nhìn ra bóng đêm. Lát sau, ông cắn chặt lấy hàm răng và tự an ủi mình bằng một ý nghĩ táo bạo:

– Rồi ngày mai khi tan giặc, con ông trở về. Lúc ấy, hẳn là sẽ vui hơn.

Đến khi ngoài trời chỉ còn một màu đen thẫm với tiếng gió, tiếng mưa rơi chen lẫn nhau trên mái lá, ông Lục quay vào và hỏi gì, bà Lục cũng không gỉa nhời. Ông buồn bã, ngồi xuống trên cái chõng làm bạn với khói thuốc. Đêm ấy, cả hai ông bà đều thẫn thờ ngồi đứng không yên. Và hầu như suốt nhiều đêm kế, ông Lục vẫn một mình vò võ ngồi lặng bên cái điếu, cái đèn dầu và ấm nước trà đặc. Đã có nhiều lúc, ông muốn được nhìn bóng hình cô lẻ của chính ông in lên bức vách, hơn là tìm chén cơm hay giấc ngủ. Những lúc ấy, bà Lục không quên thích nhẹ vào sườn ông vài câu:

– Con ông đi làm… cách mạng, việc gì ông phải buồn?

Thật may cho ông, giữa lúc ông chưa tìm ra câu giả nhời thỏa đáng cho bà, bản tin thắng trận Điện Biên đã tràn như nước vỡ bờ trên khắp đất bắc. Nó chảy đến đâu là cán bộ ta hò hét reo mừng đến đó. Riêng ông Lục, khi nghe bản tin nhớn này, ông âm thầm mỉm cười và dõi đôi mắt vào trong cõi xa xăm như con hổ chờ mồi. Để đúng lúc, ông sẽ tự mở toang cánh cửa, lao ra ôm chặt lấy đứa con thay vì chạy ra đường hò hét, hoan hô mừng chiến thắng xuông. Khi ấy, ông sẽ không quên cắt nghĩa cho bà Lục biết, đâu là cái nhìn xa trông rộng của ông để bù cho những lúc bị bà càm ràm, trách cứ.

Chẳng ngờ, mấy hôm sau cơn sóng cuồng hò hét, hoan hô mừng chiến thắng do Vẹm tổ chức bị xì hơi. Và thay vào đó là cảnh người dân Việt bàng hoàng ngơ ngác vì bản tin hiệp định chia đôi đất nước do Vẹm chủ trương đã ra đời. Nhưng cảnh ngơ ngác bàng hoàng nào có dừng lại ở đó. Trái lại, khi bản tin này truyền lan đến đâu là nước mắt của người dân Việt chảy loang đến đó. Ở thành phố, tưởng rằng khá. Nào ngờ, người ta còn hoảng hốt hơn cả thôn quê. Có người chạy không kịp gọi con, gọi mẹ. Chạy không chờ người thân, chạy bằng đôi chân không dép guốc. Khi chạy, nhà không kịp đóng cửa, then không kịp gài, của cải không kịp mang theo. Ở thôn quê, từ miền thượng, xuống đồng bằng, không một nơi nào mà không có từng đoàn, từng lũ người với những đôi mắt trắng giữa đêm. Họ âm thầm, tay bồng tay bế, đầu đội vai gánh, dắt díu nhau, lặng lẽ  bỏ phần đất của cha ông mà ra đi.

– Họ đi đâu thế?

– Họ di cư vào Nam. Họ đi tìm tự do. Họ trốn chạy cộng sản đấy.

– Lạ nhỉ? Miền bắc đã có bác Hồ, đã có tự do, đã được ấm lo hạnh phúc, sao người ta còn bỏ của mà chạy lấy người thế này?

– Ấy, vì có… bác, nó mới nên nỗi.

Rồi những câu trao đổi vội vàng này đã lôi mọi người cuốn mình vào cơn lốc di cư. Xuân Thủy cũng không ngoại lệ, nhưng riêng ông Lục lại dửng dưng. Ông dửng dưng, không phải vì không thích di cư vào nam trốn nạn cộng sản. Trái lại, ông phải vờ dửng dưng để gạt bỏ ra ngoài tai những biến động của thời cuộc, để ông có đủ bình tĩnh đợi chờ một bản tin khác quan trọng hơn. Đó là bản tin hồi báo về đứa con của ông. Kết qủa, càng chờ ngày càng mau qua, và bóng hình của ông in lên vách mỗi đêm đã thu nhỏ lại.

Khác với ông, bà Lục bị khích động, bị lôi kéo vào dòng thác người muốn di cư vào Nam. Có nhiều ngày, sau khi ra ngoài nghe ngóng tin tức, bà trở về thuật lại cho ông nghe và nôn nóng dục ông:

– Ông không đi, còn ngồi đây chờ cho đến bao gìơ?

Ông Lục vờ như không nghe rõ, bà Lục tiếp:

– Không chờ với đợi gì nữa, phải bỏ lại tất cả mà đi!

Ông Lục vẻ không hài lòng:

– Bỏ cả đứa con của tôi à?

Tiếng bà Lục cao vút lên:

– Không bỏ cũng phải… đi. Vì nếu nó đã chết, ông có chờ một nghìn năm sau nó cũng không trở về. Trong trường hợp nó còn sống, nó sẽ biết tìm đường ra đi hoặc về lại căn nhà này. Khi ấy, mình sẽ liên lạc với nó sau.

Ông Lục đâm ra gắt gỏng trước bài tính khá gọn nhẹ của vợ:

– Bà nói dễ nghe nhỉ? Bao nhiêu công lao bú mớm, bà lại tính bỏ nó như bỏ một củ… khoai.

Bà Lục trả lễ:

– Tại sao vài năm trước ông không nói được một câu tương tự như thế? Lúc này, ông ngồi lỳ ở đây sẽ giải quyết được gì? Ông không ra mà xem, dân làng này họ đã đi qúa một nửa rồi.

Ông Lục rúng động vì bản tin, miệng vẫn nói cứng:

– Bà muốn đi thì đi một mình đi, tôi không đi đâu hết.

Nghe ông nói thế, bà Lục lăn tay áo lên, bước hẳn xuống sân:

– Được, ông đã nói nhời bạc như thế thì mẹ con tôi đi.

Nói xong, bà trở gót vào trong buồng. Tay bà nhanh nhẹn thu gấp lại vài bộ quần áo cũ cho bà và cho đứa con nhỏ. Bà xếp thêm vài mặt hàng cần dùng như nắm cơm, chai nước vào trong đôi thúng. Kế đến, bà lấy đôi quang, cây đòn gánh, ghé vai vào gánh thử:

– Ông không muốn đi thì ở lại chờ thằng nhớn, cơ nghiệp này ông gĩư lấy mà làm… vốn. Còn tôi, tôi chỉ cần đôi quang này và dẫn thằng bé ra đi là đủ.

Tưởng bà làm thật, ông Lục đứng bật dậy, tay níu lấy giây quang, tiếng nói đục khàn:

– Ới bà ơi là bà! Bà nỡ lòng nào làm xẻ đôi đoạn đường như thế? Ở thì ở hết, đi thì đi cả. Có tội tình gì mà bà toan cắt ruột chia hai?

Bà Lục mềm lòng, để đôi quang xuống, đứng tựa người trên cây đòn gánh nhìn quanh.  Thật ra, việc bà Lục nôn nóng, thúc dục ông bỏ lại tất cả để vào nam không phải là không có nguyên do. Những ngày gần đây, bà đi lại trong lối xóm, bà nghe được nhiều tin tức hoàn toàn bất lợi cho người ở lại. Người thì bảo:

– Đất nước mình chia hai, miền bắc thuộc về phe Việt Minh cộng sản, gọi tắt là Vẹm. Còn miền nam thuộc về Cộng Hòa, thuộc về Tự Do.

Kẻ khác lại nói:

– Nào có thuộc về Việt Minh. Nó thuộc về phe Nga, Tàu.

Nghe xong câu cắt nghĩa ấy, bà Lục run bắn đầu gối, vội vã chạy về, leo lên giường đắp chăn và réo gào ông phải ra đi. Lý do, bọn Nga, bà chưa biết mặt mũi chúng dài ngắn ra sao. Riêng mấy chú khách, bà chỉ nghe đến chữ Tàu… phù là tan bay hồn vía. Cái gương bị đô hộ cả ngàn năm kia, bà chưa dám quên. Từ đó, bà cứ lẩm bẩm một mình:

– Lạ nhỉ, tại sao miền nam được tự do, còn miền bắc lại thuộc phe cộng sản? Cộng sản là cái gì, tại sao họ rắc rối phân chia như thế?

Hỏi và bà không tìm ra câu trả lời. Nhưng nói cho ngay, bà Lục không cần phải có câu trả lời, và cũng chẳng cần lời giải thích. Lý do, bà không phải là người thích mánh mung như Hồ chí Minh, cũng không phải là kẻ xảo trá như Vẹm. Bà là người thực tế. Vì thực tế, bà nghe chữ tự do thấy nó êm tai, ấm lòng hơn chữ cộng sản. Từ đó, bà quyết thúc dục chồng bà phải tìm cách ra đi.

Thật không may cho bà, nhất thời ông Lục bất đồng ý kiến với bà. Ông bất đồng theo những lý lẽ của ông.

– Thứ nhất, dù đi đâu, ông vẫn phải vất vả đổ mồ hôi để kiếm miếng cơm manh áo. Chẳng ai có của cho không bao giờ.

– Thứ hai, khi ra đi dù có chữ tự do, nhưng xẩy đàn tan nghé. Cuộc sống sẽ bấp bênh và chưa biết trôi dạt về đâu. Trong khi đó, nếu ở lại, ông mất chữ tự do. Nói là mất cho nó sang, chứ thực ra, trong thời Pháp thuộc ông cũng chẳng mấy khi sài đến chữ tự do. Nhưng bù lại, ông đã có sẵn mảnh vườn, con trâu với mái nhà. Bấy nhiêu thứ cộng với sức lao động cần cù có sẵn của ông, lo gì không kiếm được miếng cơm manh áo cho vợ cho con? Hơn thế, ở lại ông còn có nấm mồ của tổ tiên, có miếng đất chôn nhau cắt rốn. Đặc biệt, có bản tin quan trọng ông đang ngửa cỗ ngóng trông từng ngày.

Từ suy nghĩ ấy, ông Lục bó buộc phải quên chữ ra đi, và làm ngơ không một lời giải thích trước sự ồn ào của bà. Bà giận dỗi, bỏ đôi quang trên vai xuống khi ông Lục níu kéo, một tay xách nhẹ vuông vải gói vài bộ quần áo cũ, một tay kéo thằng Dụng đi ra đầu ngõ. Ông Lục bàng hoàng, vội chạy theo sau nắm chặt lấy tay thằng Dụng, năn nỉ bà:

– Bà nóng nảy thế này là làm hỏng hết tính toán của tôi rồi. Đi cũng được, nhưng thong thả rồi hãy đi, không nên vội vàng hấp tấp qúa. Bà xem, nếu đi tốt như những tin đồn, ông bà Đăng đã đi. Người ta có con theo đoàn quân vào nam, người ta còn ở lại. Trong khi đó, con mình theo phía bên đây, có lý nào mình bỏ đi sớm như thế? Bà cứ nghe tôi thêm một lần nữa, thong thả chờ nó về rồi cùng đi vẫn chưa muộn.

Bất đắc dĩ, bà Lục phải tạm từ bỏ ý định vào nam với người hàng xóm. Bà dắt thằng Dụng quay vào:

– Được, tôi tạm nghe ông và chờ thêm mấy ngày nữa. Sang tháng nó không về, mẹ con tôi sẽ đi, còn ông thì tùy ý.

Đến khi cảnh khua chiêng đánh trống mừng chiến thắng của nhà nước Việt cộng bể trống, tan chiêng. Và con đường di cư vào nam đã bị Hồ chí  Minh gài mìn, kéo giây thép gai, ông Lục mới biết mình nhầm. Lúc ấy, cả hai ông bà đều chống mắt lên nhìn nhau. Họ nhìn nhau và nhìn toàn bộ đất bắc tự nhiên đổi khác. Đổi khác đến độ không một người nào dự đoán được.

Việc trước tiên, khi tấm màn tre vừa rủ xuống bên kia bờ vĩ tuyến là con đường bắc nam thực sự chia lìa, là toàn thể đất bắc rơi vào trong cảnh thê lương tang tóc. Hầu như, không có một nhà nào không có tiếng khóc than. Kẻ tỷ tê vì cảnh chồng bắc vợ nam, cha một nơi con một nẻo. Người khác thì ấm ức vì chậm chân lỡ bước. Rồi lại có kẻ vung tay đấm trời, gào thét lên trong phẫn nộ. Phẫn nộ vì lỡ ngu dại cho con em đi theo Vẹm. Những tưởng hết chiến tranh, chúng mang hòa bình, tự do, độc lập về phát cho bà con làng xóm xài chơi. Ai ngờ, đứa thì ngỏm củ tỏi từ lâu, nay mới được nhà nước xã hội chủ nghĩa chiếu cố báo tin buồn. Đứa khác, học được cái thói đá cá lăn dưa của Hồ chí Minh, rồi đem về nhà lừa cha dối mẹ, đưa dao thị uy dân làng.

Gia đình ông Lục cũng không tránh được tai họa. Lúc trước, bà Lục đã kém vui, vờ giận dỗi vì ông không nghe theo lời cố vấn của bà để di cư vào nam. Đến khi con đường di cư đã khép lại, gia đình ông Lục thường gặp cảnh cơm không lành, canh không ngọt nên ông phải dằn tiếng thở dài xuống đáy dạ dày, đi ra đầu ngõ, ngóng tin con.

Khi ra ngoài, ông Lục thấy cảnh làng vắng tanh! Chả con ngõ nào mà không có nhà bỏ trống. Ông bấm đốt ngón tay và tin rằng có đến một nửa dân số trong làng đã bỏ đi. Họ đi, đi rất vội vàng.  Nói trắng ra là trong cuộc tháo chạy bỏ đi ấy, có người còn bỏ lại cả một bầy heo, cặp trâu và gạo thóc thì còn đầy bồ, thật là phí của giời ban cho. Riêng gà vịt thì một là họ quảy gánh mang theo để ăn đường hai là đã lo giết trước khi đi nên không thấy còn lại mấy con. Rồi trơ ra ở đầu ngõ là vài con chó mất chủ. Chó thì thường thường theo chủ, Tuy nhiên, những con này, một là lạc chủ hai là không quen đi xa, nó chạy  theo chủ một quãng đường rồi lại lộn về nhà nên lúc này, chúng giống như gà phải cáo, nom thấy đôi dép râu của bác đảng là chạy cong đuôi vào trong sâu kêu ư ử.

Riêng người dân trong làng, tự nhiên họ đối với nhau như người rất xa lạ và chưa gặp mặt nhau bao giờ. Nhìn thấy người cùng lối xóm mà xem ra e dè, chẳng có vài lời cho nhau. Trái ngược với cảnh rụt rè, lo sợ hằn trên mắt môi người chậm chân là lớp người được gọi là các đoàn, đảng ủy viên, các  nhà cách mạng Việt cộng. Chúng nhảy múa, khoa tay múa chân., đi từ đường ngang đến ngõ dọc, lại sồng sộc đi thẳng vào trong những căn nhà vắng chủ. Tưởûng gì, ai ngờ, chúng không ngừng hò hét vợ con, anh em tiến lên theo dòng thác cách mạng. Một tay giơ cao cái mã tấu lên làm hiệu lệnh, một tay thì đưa ra vơ vét lấy tất cả những thứ gì có thể vơ vét được. Từ cái nồi, cái niêu, xoong chảo, dĩa chén cho đến cái chõng, cai bàn, cái giường của người anh em hàng xóm vừa bỏ đi đã được những nhà cách mạng này tận tình chiếu cố.

Thật  là cười cũng dở mà khóc cũng dở. Có người bỏ đi nam, nhưng không kịp đành phải quay về. Khi chưa về đến ngõ đã nghe tin căn nhà của họ chỉ còn lại mỗi cái nền nhà. Lý do, bí thư chi bộ đã hô hào dân công đến khiêng nguyên cái nhà của người anh em này về dựng lên trên phần đất gã vừa chiếm được để làm của riêng rồi. Lại có người về đúng lúc các nhà cách mạng đang hô hào vợ con tiến lên tháo gỡ, hôi của. Gia chủ ngơ ngác hỏi:

–  Các bác định tháo gỡ nhà của nhà em đấy à?

–  Không, chúng tôi chỉ sang nom chừng trộm cướp hộ anh đấy thôi.

– Có thế, nhà em thật tốt phúc, càm ơn các bác nhá.

Nghe thế, cha con nhà cách mạng lườm ngúy một cái rồi hằn học bỏ đi. Từ cảnh không vui ấy, làng quê Xuân Thủy thêm tiêu điêu, vắng lặng hơn.

Phần ông Lục, bước ra ngoài gặp toàn những cảnh đời không vui, lúc về nhà, lại thấy bà Lục mặt nặng như đá đeo.  Nên sau một thời gian ngắn là ông Lục mắc phải căn bệnh á khẩu. Cả ngày ông không buồn lên tiếng nói lấy vài câu. Chỉ thấy ông đi ra đi vào lặng lẽ như một cái bóng ma. Đi ra đi vào chán, ông kéo ghế ra ngồi co ro ở đầu hè nhà ngóng mắt ra sân. Lá thu vàng rực trước mắt ông, ông không hay biết. Đến khi cây trơ cành, xác xơ với những cơn gío bấc, ông vẫn làm ngơ như không hay biết cảnh đổi mùa. Trái lại, ông vẫn ngồi lý dõi mắt ra đường. Dõi cho đến lúc lộc trên cây mai gìa đã ra màu xanh đậm, và tai ông nghe rõ tiếng Cuốc gọi hè ông mới buồn bã chống tay đứng dậy. Ông đứng dậy và lòng nhủ lòng là thôi. Chẳng còn gì nữa để mà chờ với mong. Ông định bụng sẽ nói lại vài câu phải, quấy với bà cho gia đình êm ấm rồi tự ông sẽ tìm vui trong cái cày cái quốc cho qua những ngày dài.

May làm sao hả giời, giữa lúc người nhìn nam, kẻ ngó bắc, và cuộc sống tình cảm trong gia đình ông đã tụt xuống cuối đường tuyệt vọng thì bác đảng, chứ không phải giời, cho người đem thư đến cho ông Lục. Khi nhận được thư của nhà nước, ông Lục mừng như chết đi sống lại, chạy bay vào nhà, đưa thư cho bà cầu hòa:

– Đã có tin của thằng nhớn đây. Bà chả nên trách tôi ngồi đợi xuông cả nghìn năm nữa nhá.

Nghe nói thế, bà Lục gượng cười làm duyên, chuyện cũ coi như chín bỏ làm mười. Ông Lục không quên lên giọng:

– Nếu tôi nông nổi, theo ý kiến của bà ra đi thì nghìn năm sau đã chắc gì nom thấy mặt nó.

Bà Lục tay bưng rá gạo, nguýt yêu chồng thay cho lời nhận lỗi. Bà ngồi xuống bên ông, tiếng nói như chú vành khuyên líu lo buổi sáng. Nghe thế, nét mặt ông Lục tươi hẳn ra. Ông cười mãn nguyện trong lúc bà đang vẽ vời ra những hình ảnh trong bữa cơm đoàn tụ của gia đình. Ngay khi đó, thằng Dụng về tới, ông Lục hồ hởi, móc túi đưa lá thơ của nhà nước cho thằng Dụng. Ông dục nó đọc cho cả nhà cùng mừng.

Lúc đầu, bà Lục không tin vào cái tài biết đọc biết viết của thằng Dụng. Đến sau khi nó đọc lại lần thứ hai và giải thích:

– U không tin thì thôi. Rõ ràng nhà nước báo tin  và chúc mừng gia đình ta sắp được phong là gia đình liệt sỹ của cách mạng và cá nhân anh cấ thì được tuyên phong làm anh hùng của nhân dân. Cứ theo lá thư báo tin mừng này thì chú Út cũng chết luôn rồi. Bởi vì nhà mình có tới hai cái bảng tuyên công!

Không chờ Dụng nói dứt câu, cái rá gạo trên tay bà Lục đổ ụp xuống đất. Bà thét lên một tiếng, vật mình xuống trên cái chõng khóc ré lên. Khóc chán, bà Lục công khai kể tội ông đã cố tình lừa dối bà thêm lần nữa. Lần này thì nhất định lành làm gáo, vỡ làm môi, bà không thể hòa với ông được nữa.

Thật là oan cho ông Lục biết mấy, bởi chính ông cũng chưa biết lá thơ của nhà nước viết những gì. Ông chỉ nghe người đưa thơ bảo:

–  Có tin vui cho ông bà đây. Rồi cả làng ta đều hãnh diện vì cậu ấy.

Đang lúc nóng lòng chờ tin con, nghe thế ai không mừng. Bố ai mà đoán được cái ý định của nhà nước là họ báo tin… mừng vì con ông sắp được phong hàm anh hùng nhân dân và riêng bà thì được hàm mẹ chiến sỹ. Nhưng ngay sau vài chữ ngập ngừng của thằng Dụng là ông Lục hiểu được toàn bộ vấn đề. Người ông bắt đầu quay mòng mòng, đầu nhức như búa bổ. Lúc ấy, trong người ông không có một giọt rượu, ông vẫn thấy hoa đôi mắt và trời xa xuống đất. Cuối cùng người ông rũ liệt, gục đổ xuống trên cái bàn lúc nào ông không hay biết. Hôm ấy, nhà ông không  dọn bữa cơm chiều!

Sáng hôm sau, khi gà vừa gáy sáng, ông Lục quần ống thấp ống cao, lặng lẽ ra khỏi nhà. Ông lên xã, ra huyện, ông muốn gặp các đảng ủy viên, gặp các cấp lãnh đạo để tìm hiểu xem con ông đã chết ngày tháng nào. Chết ra sao và hiện được chôn cất ở nghĩa trang liệt sỹ nào, để ông làm cúng giỗ cho nó. Hơn thế, ông muốn biết trước khi nó về bên kia thế giới, nó có dối dăng lại điều gì hay không? Kết qủa, khi đi, lòng ông mang nặng những ưu tư. Lúc về, ông lại gánh theo một gánh sầu. Lý do, ông toàn hỏi những câu… khó, chẳng một ma nào biết nó chết lúc nào, chôn ở đâu để trả lời cho ông.

Vào lúc ấy, ông Lục giống như thỏi sắt nằm trên đe, dưới búa. Một bên là bà Lục, không ngừng khóc kể những tội lỗi to lớn của ông. Và một bên là nhà nước với những lời đường mật khuyên nhủ ông.

Nếu bảo ông hãy mạnh dạn theo nhà nước, lên án bà có những tư tưởng cổ hủ, ngại khó, không dám chấp nhận hy sinh để tổ quốc có độc lập tự do, lại muốn làm tay sai cho đế quốc thì ông không dám. Nhưng nếu bảo ông phải về phe với bà, kết tội nhà nước, ông Lục cũng khó thực hiện. Bởi lẽ, trách thế e là… oan cho bác, oan cho nhà nước. Lý do, các đảng ủy viên, rồi lãnh đạo đã bảo ông:

-Đã sinh ra, ai không một lần chết. Nếu nó không đi bộ đội. Nó ở nhà bị sét đánh chết thì ai phong cho nó lên hàng liệt sỹ Việt cộng. Nên khi nó đã thành liệt sỹ rồi, việc chết ở bờ lau bụi cỏ, chết ở chốn rừng hoang, đầm lầy không thành vấm đề. Bởi vì chết ở đâu mà không đi vào vinh quang với bác. Đề nghị ông quay về, tham gia lao động xây dựng xã hội chủ nghĩa hơn là đi tìm xác con. Riêng việc nhang khói, cúng giỗ, xây lăng mộ cho nó đả có bác, có nhà nước lo. Ông bà cứ an tâm.

Nghe xong lời khuyên giải, ông Lục lạnh run cả người. Ông liền trở về và không dám nói với vợ nửa lời. Tuy nhiên, ông chưa từ bỏ ý định đi tìm xác con. Mãi đến sau này, ông gặp một người cùng cảnh ngộ, lại là chỗ đồng thôn bảo ông:

– Ông bà đi lên đi xuống làm gì cho tốn hơi nhọc sức? Con của ông, chỉ có thể nằm trong hai trường hợp sau: Thứ nhất nó bị thằng địch bắt, thứ hai là chết mất xác.

– Ông bảo sao?

Thay vì trả lời, người đồng thôn giải thích tiếp:

– Trường hợp nó bị thằng… địch bắt, nhưng nhà nước không biết, vẫn làm giấy báo tử cho ông như trường hợp thằng con ông Điềm. Ông nên về nhà rủ bà đánh chén một bữa mà mừng. Mừng vì nó đã thoát được cái tai kiếp cộng sản. Trường hợp cháu đã chết thật, tôi khuyên ông nên về nhà ngủ cho nó khỏe. Vì ông có đi hỏi cho đến nghìn đời, chúng cũng không biết đường trả lời cho ông. Ngưng lại một chút, ông ta tiếp:

– Ông xem, lúc đánh nhau, người thì chết như rạ, ai ra đó mà kiểm tra, mà ghi sổ sách? Phải chờ đến lúc gần đây, nhà nước mới làm xong cuộc kiểm tra quân số. Kẻ nào có tên mà không thấy người, nhà nước liền làm giấy, phong cho hàm liệt sỹ rồi báo tin cho thân nhân để đúc kết hồ sơ, hết trách nhiệm. Như thế, ông còn đi lên đi xuống làm gì?

Nghe xong lời giải thích, hàm răng ông Lục bỗng kêu lên két. Ông chỉ tay vào giữa giời tuyên bố:

– Từ đây ông cắt đứt liên lạc, chấm dứt mọi quan hệ với đoàn đảng việt cộng.

Sau lời thề, ông trở về, xin làm hòa với vợ rồi tự dấu niềm đau vào trong cái cày, con trâu, cho qua ngày tháng.

Sự kiện cắt đứt liên lạc kia, những tưởng là đoạn kết trong câu chuyện ông Lục có con chết cho Việt Minh. Không ngờ, vào một buổi tối, ủy viên Thọ, đến tận nhà ông, trịnh trọng đưa tin:

– Tôi đại diện ủy ban, thay mặt đảng, đến báo tin và mời ông bà sáng mai lên ủy ban dự khán lễ ăn mừng chiến thắng, và làm lễ tuyên công cho những anh hùng liệt sỹ của nhà nước.

Ông Lục chắp tay trước ngực:

– Tôi xin cám ơn ông ủy viên đến báo tin, và có lời mời gia đình tôi. Tuy nhiên, tự biết mình là người không có công lao gì với nhà nước, tôi không dám nghĩ đến việc đi dự khán.

Thọ biết ông Lục nói lẫy, gã bảo:

– Quần chúng nhân dân đã nô nức chờ đợi cái ngày trọng đại này từ lâu. Có lẽ nào một gia đình có công, được tuyên dương, được mời như ông lại tự ý coi thường ngày lễ để vắng mặt?

Ông Lục bỗng dưng bực mình:

– Đến cái xác của nó chôn ở đâu, chết ngày nào tôi còn không biết, nói gì đến chuyện tuyên với công? Tôi đi cũng thế, không đi cũng vậy. Phiền ông ủy viên về nói lại với ủy ban cho tôi xin… kiếu.

Thọ bình tĩnh đứng dậy:

– Ông đi hay không là quyền của ông. Phần nhà nước, nhà nước đã ra chính sách đãi ngộ sứng đáng cho những gia đình có công với cách mạng. Ông bà là một trong những đối tượng của nhà nước, ủy ban chính thức có lời mời. Ông đi hay không tùy ý. Nhưng ông nên nhớ rằng. Ông đi, nhà nước không thêm vinh dự, và ông ở nhà, đảng cũng chẳng mất gì.

Nói xong Thọ bỏ ra về. Phần ông bà Lục, hai người trắng mắt bàn tính thiệt hơn.

Sáng hôm sau, ông Lục mặc một bộ quần áo tả tơi, tay cắp cái nón rách vành đi lên trụ sở ủy ban, nơi tổ chức buổi lễ. Đến khoảng 9 giờ, buổi lễ bắt đầu. Sau nghi thức to mồm hô hoán, đánh bóng về cái mà Việt cộng gọi là đại chiến thắng ở Điện Biên là phần nghi thức tuyên công. Phần này, kéo dài tưởng chừng như không bao gìơ chấm hết. Bởi vì phần này bao gồm việc đọc tên tuổi những anh hùng liệt sỹ thuộc Xuân Thủy đã ngỏm củ tỏi, và gọi tên người thân nhân lên lĩnh bằng.

Khi nghe xướng danh, ông Lục rưng rưng ngấn lệ, bước lên đứng trên lễ đài. Ông còn nhớ rõ, hôm ấy, người ta đã hết lời tán tụng chiến công của con ông. Thêm vào đó, ủy ban còn nhấn mạnh:

– ”Đây là một gia đình cách mạng tiên tiến, là tiêu biểu và là ngọn đuốc tiên phong nêu cao tinh thần cách mạng. Một gia đình liệt sỹ mà đời đời đảng và nhà nước phải ghi công. Và nhân dân phải hết mình, hết sức động viên, nâng đỡ cả tinh thần lẫn vật chất cho gia đình này. Nào mời nhân dân vỗ tay mừng.”

Lúc ấy, ai cũng cho rằng gia đình ông Lục đã được tưởng thưởng sứng đáng, và cá nhân ông được nở mày nở mặt với dân làng. Nhưng thật ra, họ không thể hiểu những giọt nước mắt đang lăn dài trên mặt ông là những giọt nước mắt đầy uẩn ức. Bởi vì, nếu tính từ khi nhận được tấm giấy báo tử của con ông tới nay, thời gian đã gần một năm, nhưng không có lấy một bóng ma đoàn, đảng ủy viên nào đến thăm và nói với ông vài câu. Nay bỗng dưng chúng đến, lôi ông lên cái đài cao này để tô son, đánh bóng cho ông. Làm thế là chúng muốn trả ơn ông, hay muốn biến ông thành một diễn viên, diễn nốt vở tuồng độc ác để lừa bịp những người chung quanh, mà ông không được một lời báo trước?

Câu hỏi ấy, đến hôm nay đã được trả lời. Qua câu chuyện giữa ông và ủy ban vào mấy hôm trước. Ông có linh cảm là khó gĩư nổi thằng Dụng ở nhà, trừ khi ông nghe theo lời khuyên của Thọ, lấy của đi thay người. Nhưng khi đã để của đi thay người, việc thằng Dụng có được ở nhà với ông hay không lại là một chuyện không ai dám bảo đảm. Từ đau đớn đó, ông Lục buồn bã ngồi chết lặng trên ghế. Nhang đã lạnh, khói đã tan, mà ông không hề hay biết…

Trong khi đó, chờ mãi không thấy ông xuống giúp một tay. Bà Lục từ dưới bếp đi lên, nom thấy ông ngồi ủ rủ trên cái ghế. Bà đoán chắc ông đang tưởng nhớ đến linh hồn đứa con, nên xót xa, bước đến bên ông:

– Thôi ông ạ! Nó sống khôn chết thiêng. Nó sớm biết đường lên… tiên với ông bà, thay vì sống với chúng là một hạnh phúc riêng của nó. Ông chả nên buồn phiền nữa.

Đang ủ rũ trong buổi chiều tà vàng úa, ông Lục giật mình khi nghe tiếng của vợ. Ông vội vàng đứng dậy, quyệt ngang tay áo trước mặt, nhìn ra sân nói lảng:

– Mặt giời sắp lặn rồi hả bà?

Nhìn chồng, bà Lục thêm tê tái. Bà hạ thấp giọng xuống:

– Còn gì nữa mà không lặn. Thằng Dụng đã dắt trâu vào chuồng từ lâu.

Ông Lục chập choạng bước đi vài bước:

– Ờ… ờ… chóng qúa bà nhỉ? Tôi cứ tưởng còn sớm.

Nói xong, ông đi ra phía cửa, tiếp:

– Cơm nước lo xong chưa bà?

Bà Lục nối gót bên ông:

– Xong cả rồi. Chỉ chờ ông bà ấy sang là chặt nốt con gà.

Vừa dứt tiếng, bà Lục nghe có tiếng người hắng dặng từ đầu ngõ. Bà dục ông:

– Chắc là ông bà ấy đến, ông đi ra mà mời khách.

Ông Lục chưa kịp bước ra, khách đã đứng sừng sững trước cửa nhà:

– Thật là may qúa. Tôi cứ tưởng đến gìơ này không gặp ông bà.

Ông Lục mặt biến sắc, lúng túng nhìn vợ:

– Chào ông… ông chủ nhiệm. Mời ông qúa bộ vào nghỉ chân.

Bảng khoa tay trước mặt:

– Thôi khỏi ông ạ. Nước với non làm gì cho thêm bận rộn, khách sáo. Tôi vừa uống ở nhà, chỉ định ghé lại bên ông bà một tý rồi đi ngay.

Nghe Bảng nói thế, ông Lục có ý mừng:

– Chẳng hay ông chủ nhiệm đến có công việc gì hay không ạ?

– Thì… tính đến thảo luận lại với ông bà về việc con trâu và việc gia nhập hợp tác xã.

Chủ nhiệm Bảng tính vào đề ngay, nhưng cái lỗ mũi rộng của gã đã đánh hơi thấy một mùi thơm rất đặc biệt, buộc gã phải xoay chiều câu chuyện:

– Tuy thế, ta cứ thong thả rồi bàn lại sau ông ạ. Việc của nhà nước ấy mà, chả đi đâu mà vội.

Nói xong, đôi mắt Bảng nhìn lộ liễu lên bàn thờ:

– Hôm nay ông bà làm cỗ bàn gì linh đình thế?  Chắc là làm đám hỏi cho thằng Dụng?

Hỏi và Bảng không chờ gia chủ trả lời, gã tiếp:

– Phải đấy ông bà ạ. Nó đã nhớn rồi, hơn thế, là con của gia đình cách mạng, ta phải tổ chức lễ tuyên bố cho trọng thể mới được.

Bà Lục có một cá tính lạ đời, hễ trông thấy mặt Bảng hay các đảng ủy viên nhà nước là như nhìn thây hủi, bà muốn tránh mặt chúng. Nên ngay khi nhìn thấy Bàng đứng  trước cửa, bà đã toan bỏ xuống bếp. Nhưng vì con  gà còn nằm lộ liễu trên bàn thờ. Bà phải lùi lại, cố ý lấy người che phía trước để Bảng khỏi nom thấy. Sau đó, chờ cơ hội thuận tiện, bà sẽ mang con gà xuống bếp với bà. Sự tính toán của bà khá chu đáo, kết qủa, vẫn thua đôi mắt Bảng. Đã thế, lại nghe Bảng nhắc đến tên thằng Dụng, bà bực mình nói thẳng:

– Nào có cỗ bàn gì đâu ông… chủ nhiệm. Thằng cả nhà tôi đã đi hơn ba bốn năm. Mãi đến hôm nay, tôi mới cho cháu được chén cơm nhạt.

Bảng buồn xo nét mặt, gã trịnh trọng bóp nhẹ đôi tay trước ngực:

– Thật, tiếc đến đứt ruột ra ông bà ạ. Đồng chí ấy ra đi để lại biết bao nhiêu tiếc thương cho bác, cho nhà nước và cho đảng ta.

Nếu ở trong trường hợp khác, chắc bà Lục sẽ phang cho Bảng mấy câu rồi muốn đến đâu thì đến. Nhưng lúc này, chuyện cho Bảng một bài học để đời không thể xảy ra. Bởi vì bà chỉ muốn mời chủ nhiệm Bảng ra khỏi nhà trước khi khách của bà đến. Bà liền hỏi:

– Ông chủ nhiệm đến đây có muốn dậy bảo chúng tôi điều gì hay chăng? Nếu có, xin ông vắn tắt cho.

Thay vì giận dỗi trước lời nói kém văn minh của bà Lục, Bảng lại bảo:

– Bà đã qúa lời. Vì thật ra, tôi nhớ ngày đồng chí ấy theo cụ Mác, nên có ý đến chia sẻ với ông bà thôi, ngoài ra chẳng có công chuyện gì.

Nghe Bảng nói thế, tóc bà Lục dựng ngược lên:

– Vậy, tôi xin có nhời cám ơn ông chủ nhiệm nhá. Giời ạ, con tôi thật tốt phúc được ông chủ nhiệm nhớ ngày giỗ để đến thăm.

Dù là gỗ đá cũng phải tự lăn ra khỏi nhà bà Lục sau khi nghe rõ ràng lời nói của bà. Tuy nhiên, Bảng không phải là gỗ đá, nhưng là một cán bộ nhớn, người đồng chí vĩ đại của Hồ chí Minh ở Xuân Thủy, nên gã bình tĩnh đả thông cái tư tưởng sai nhầm của bà Lục:

– Trước hết, bà chả nên nói nhời bạc thế. Vì nói như thế sẽ mất tình đại đoàn kết, một thứ tình vốn như keo sơn có sẵn giữa người cán bộ và nhân dân. Một thứ tình không thể dùng miếng thịt… gà hoặc tiền bạc mà mua được. Kế đến, tôi và đồng chí ấy, ngoài cái tình cảm là người chung một làng, chung một đơn vị chiến đấu, chúng tôi còn tự coi nhau như anh em ruột thịt. Có lẽ nào bà không biết đến khối tình thắm thiết đầy tình nghĩa cao cả ấy?

Bà Lục há hốc miệng, cứng lưỡi, không tìm ra câu gỉa nhời cho Bảng. Bà giận dỗi, nổ đom đóm mắt nhìn chủ nhiệm Bảng kính yêu một cái rồi lẳng lặng đi xuống bếp. Sau khi bà Lục bỏ đi, ông Lục lúng túng ra mặt. Phần Bảng, gã tự nhiên kèo ghế ngồi xuống, với tay kéo lấy cái điếu và xáp thuốc lào để trên bàn về phía mình:

– Ngồi xuống ăn điếu thuốc ông ạ. Đứng mãi thêm mỏi chân.

Trước tình cảnh éo le, ông Lục ngậm cười ngồi xuống trên cái ghế đối diện với Bảng. Trong khi đó, nhìn trời mỗi lúc một tối thêm, bà Lục lòng nóng như lửa đốt, đi ra đi vào trong bếp. Lát sau, như không thể ngồi im chờ khách về và đợi người đến cùng một lúc. Bà sáng trí tìm ra một kế lạ. Bà gọi lớn tiếng từ phía nhà bếp:

– Bố thằng Dụng đâu rồi, ông chủ nhiệm đã về hay chưa? Ông xuống đây tôi nhờ tý việc nào.

Nghe gọi, ông Lục vờ gắt gỏng:

– Tôi đang dở câu chuyện, bà nhờ thằng Dụng một tý có được hay không?

Trả lời xong, ông đứng dậy bảo:

– Xin lỗi ông chủ nhiệm một tý nhá.

Bảng không một phản ứng, tay vê bi thuốc khác:

– Cứ tự nhiên dọn cơm đi ông ạ. Tôi như con cháu trong nhà, ông bà chả nên khách sáo.

Vừa thấy bóng ông xuống tới cửa bếp, bà Lục liền dục ông ra ngoài đầu ngõ với hai dụng ý:

Thứ nhất, để Bảng ngồi một mình, gã phải hiểu gia chủ không có ý lưu khách.

Thứ hai, trong lúc Bảng chưa nhổ rễ mà ông bà Đăng đến. Ông Lục có nhiệm vụ chặn ông bà Đăng lại, và chuyện trò năm ba câu ở ngoài đầu ngõ. Sự kiện chặn này được giải thích là tình cờ gặp nhau.

Một lúc sau, sự kiên trì của chủ nhiệm Bảng phải khuất phục cái kế của bà Lục. Cực chẳng đã, Bảng đứng dậy, gã nuốt nước bọt nhìn con gà lần nữa rồi bước ra sân:

– Thôi chào ông bà nhá, tôi về đây.

Không có tiếng trả lời, Bảng lần đi ra ngõ. Bất chợt gã đứng khựng người lại, trợn ngược đôi mắt lên để nhìn cho rõ ba khuôn mặt đang nhỏ to với nhau ở ngoài đầu ngõ. Vợ chồng ông Đăng và ông Lục.

Thấy khách vào, bà Lục đon đả bước ra mời chào và dục con lo dọn bàn, trải chiếu. Sau khi ông bà Đăng ngồi yên vị, bà Lục bước đến trước bàn thờ, chắp tay xá một cái rồi cầm lấy con gà đi xuống bếp. Bà mạnh tay chặt, xẻ một nửa con gà đặt lên trên dĩa. Một nửa khác, bà cho vào nồi làm món kho gừng.

Khi bà Lục vừa đặt mâm cơm xuống trên cái chiếu Dụng trải sẵn, bà Đăng giật thót người. Bà giật mình vì trên mâm cơm xã hội chủ nghĩa chiều nay tại nhà bà Lục, không có mùi vị của xã hội chủ nghĩa, nhưng là mùi của tư sản. Một chai rượu nếp, một dĩa sôi đầy có ngọn. Rồi một tô canh miến sào lòng, một đĩa thịt gà luộc trên đó lất phất mấy sợi lá chanh thái mỏng, và một đĩa thịt gà kho gừng. Sau cùng, điểm trang cho bữa tiệc thêm khởi sắc là một nồi cơm gạo trắng đầy ắp. Bà Đăng ái ngại lên tiếng:

– Ông bà bày vẽ qúa. Chúng tôi sang chơi mà ông bà dọn mâm cao cỗ đầy như là đón khách.

Bà Lục tiếp lời:

– Nào có gì để bà bảo là mâm cao cỗ đầy. Chỉ tiện dịp mời ông bà sang chơi, và cho cháu chén cơm nhạt.

Bà Lục nhắc đến câu cho cháu chén cơm nhạt là lòng ông Lục nhói đau. Ông ngoảnh mặt nhìn ra sân. Cái phên tre làm cánh cửa ra vào đã đóng chặt, không cho ánh sáng lọt ra ngoài, nhưng trí tưởng tượng của ông Lục như thấy rõ hình bóng đứa con của ông còn ghi lên đó. Ông dõi mắt nhìn theo, quên cả việc cầm đũa và mời khách. Bà Lục nom thấy cảnh hững hờ của ông, vội lên tiếng nhắc:

– Bố thằng Dụng đến hay. Cơm nước không lo ăn, lại lo nghĩ đi đàng nào rồi.

Ông Lục cười trừ trong lúc bà tiếp:

– Chả dấu gì ông bà, ông nhà tôi lúc gần đây hay lẩn thẩn như thế.

Chợt thấy mình nói qúa lời, bà Lục chữa:

– Mà nói cho ngay, chẳng phải riêng ông nhà tôi mắc phải chứng bệnh này.

Nói xong, bà xo đôi đũa mời khách. Đang giữa bữa ăn, bỗng ông bà Đăng, ông bà Lục mặt biến sắc nhìn nhau. Họ nhìn nhau vì một tiếng động nhỏ. Tiếng động giống như tiếng bước chân người đi ngoài sân, hay đi bên phía hiên nhà. Theo một phản ứng tự nhiên, ông Lục bảo Dụng:

– Con ra ngoài xem có ai vào hay không?

Dụng bỏ chén đũa xuống, đứng dậy. Bà Lục sợ mất vui liền bảo:

– Làm gì có ai đến vào gìơ này.

Câu nói của bà rơi vào khoảng trống, không thể trấn an được những đôi mắt xanh xao. Họ vụt nhớ đến khuôn mặt Bảng, nhớ đến câu chuyện bức vách có lỗ tai, và nhớ đến câu chuyện về vợ chồng anh Bắc ở thôn nam năm nào.

Vợ chồng anh Bắc tuổi ngoài đôi mươi, họ cưới nhau được hơn một năm và chị ta đang có mang khoảng bốn, năm tháng. Đây là cặp vợ chồng rất gần gũi với người dân vùng Xuân Thủy. Cả hai sinh sống bằng nghề đi làm thuê, làm công cho những hộ nhà giàu trong vùng. Tài sản của gia đình anh Bắc, ngoài một mái nhà giống như túp lều ở cuối thôn, là hai cái cuốc và một cái cào dùng trong công tác mưu sinh.

Mái ấm của anh Bắc, nếu nhìn bằng con mắt tư sản lãng mạn, đây là một túp lều lý tưởng với hai trái tim bằng sắt. Nhưng nếu nhìn bằng con mắt xã hội chủ nghĩa, gia đình anh Bắc thuộc thành phần cơ bản của cách mạng. Nói cách khác, gia đình Bắc được định nghĩa như là một thành phần ưu tú thuộc giai cấp lãnh đạo đảng và nhà nước. Từ đó, nhà nước phải liều chết để bảo vệ thành phần cốt cán này. Nhưng không may cho Bắc, vào thời đấu tố. Cán bộ nhà nước bắt trói, đem ra pháp trường làng ở Xuân Thủy một người đàn ông luống tuổi, tên là Chu. Ông ta bị ghép vào hai loại tội ghê gớm: Tội phú nông địa hào, và tội có con cháu vào nam làm tay sai cho địch.

Sau một hồi khua chiêng đánh trống, phó đội trưởng đội cải cách anh dũng bước ra trước pháp trường. Gã vẻ khinh bỉ nhìn tội nhân trong tư thế đầu gục xuống đất, tay bị trói trặt ra phía sau lưng, chân qùy mọp trên mặt đất. Sau đó, gã dơ cao cái mã tấu lên làm hiệu lệnh cho làng nước im lặng, rồi quơ tay múa chân đi quyền, đọc thuộc lòng bản cáo trạng dài lê thê kể tội nạn nhân. Cuối cùng, gã lớn tiếng kết luận:

– Đấy, làng nước xem. Tội lỗi của nó to nhớn như thế thì có trời nào tha, đất nào dung thứ được? Thằng gìa này có chết đến hàng trăm nghìn lần, bác vẫn chưa hài lòng. Riêng bản thân nó, có tan sương nát thịt, cũng không thể đền bù được những tội lỗi ghê gớm do nó gây ra. Nhời tôi phát như thế có đúng hay không?

Câu hỏi không một người trả lời. Gã đảo mắt, ngó trước nhìn sau, dõng dạc tuyên bố:

– Nào, mời toàn thể dân làng đấu tố nó.

Mặc cho viên phó đội trưởng phùng mang trợn mắt, hò hét thúc dục, dân Xuân Thủy không một người nào lên tiếng. Họ không lên tiếng vì ớn nhìn cảnh biểu diễn trò chém người như chém chuối của Việt cộng. Đặc biệt, họ đang rét vì một bản tin, chưa biết thiệt hư, mỗi ngày một lan rộng. Nhà nước sẽ đánh trung nông, tiểu nông sau khi làm thịt hết phú nông địa hào.

Hò hét không đạt yêu cầu, viên phó đội trưởng bước đến trước đám đông, ngó trước nhìn sau, rồi bất ngờ chỉ tay vào mặt anh Bắc quát hỏi:

– Anh này, anh tên là gì?

Trần văn Bắc giật mình, run bắn đôi chân:

– Bẩm ông cán bộ, con tên là… là Bắc.

– À, phải rồi. Anh Bắc, mời anh bước ra đây.

Trần văn Bắc mặt tái như gà bị cắt tiết, run rẩy bước lên vài bước:

– Bẩm ông…

– Tôi đã bảo là mời anh bước ra đây mà.

Trong lúc Trần văn Bắc bước thêm vài bước về phía trước, viên phó đội trưởng túm lấy mớ tóc trên đầu ông Chu, giật ngược ra sau:

– Hỡi anh Bắc, anh có biết tên phú nông địa hào này không?

Trần văn Bắc nín thở, vòng tay run run đặt trước ngực:

– Bẩm ông cán có… có, con có biết ông ấy.

Phó đội trưởng ngửa cổ lên cười thỏa mãn:

– Anh biết thằng gìa này à?

– Bẩm vâng…

– Tốt qúa! Anh biết nó, là biết tội lỗi của nó. Anh hãy thay mặt nhân dân mà đấu nó đi.

Mặt Bắc xanh như tàu lá chuối:

– Bẩm ông cán bộ tôi… tôi không biết đấu.

Tiếng viên phó đội trưởng gầm lên:

– Anh ăn cơm gạo nhà nước mà không biết đấu à?

– Bẩm không…

Mặt viên phó đội trưởng đỏ bầm, ai cũng nghĩ gã sẽ đổ dồn cơn thịnh nộ lên đầu Bắc. Nhưng không, gã buông mớ tóc trên đầu nạn nhân ra, bước về phía Bắc:

– Hỡi anh Bắc, trước đây anh sinh sống bằng nghề gì?

– Bẩm ông cán, vợ chồng con sống bằng nghề đi làm thuê.

– Anh có đi làm thuê mướn cho tên trọc phú này bao gìơ không?

– Bẩm có… con có…

– Vợ chồng anh làm thuê mướn cho nó bao lâu?

– Bẩm ông cán lâu… lâu năm ạ.

– Như thế, anh chính là người bị nó bóc lột, và biết rõ những tội lỗi của nó. Đã biết rõ tội lỗi của nó, tại sao anh không đấu nó? Có phải anh muốn bao che cho những phần tử phản cách mạng không?

– Bẩm ông! Vợ chồng con có đi làm thuê cho ông ta thật, nhưng lần nào ông ta cũng trả công cho chúng con. Hơn thế, ông ấy còn cho thêm chúng tôi khi thì rổ khoai khi thì vài lít gạo. Ông ta có tội gì đâu. Khéo mà nhà nước đã bắt… bắt nhầm người tốt ạ.

Tiếng tên phó đội rít lên:

– Bắt… nhầm? Tôi bảo anh đấu nó, không bảo anh bào chữa cho nó. Anh có nghe rõ không?

– Bẩm nghe!

Sau tiếng trình bẩm của Bắc, có vài tiếng cười khúc khích. Viên phó đội trưởng quắc ngược đôi mắt lên, mặt đỏ như chàm đổ:

– Tôi bảo anh đấu nó. Anh có đấu hay không?

– Bẩm… không… Bẩm…

Con dao mã tấu trong tay viên cán bộ giơ cao lên trước mặt Bắc:

– Không? Anh không đấu? Anh muốn chống pháp lệnh của nhà nước?

Bắc qùy mọp xuống trên mặt đất, hai tay chắp trước ngực, đầu đập xuống đất như tế sao:

– Bẩm… bẩm ông cán… xin ông thương… thương…

– Thương với xót gì, tôi bảo anh đấu nó, anh có đấu không?

Chẳng hiểu nghĩ gì, sau một lúc giằng co, lời lẽ qua lại, anh Bắc quay mặt về phía tội nhân, cuí đầu chạm xuống tới đất mấy lần nữa rồi trả lời:

– Dạ… đấu! Tôi… đấu… đấu.

Viên phó đội trưởng mặt tươi đỏ như vang:

– Yên lặng. Yêu cầu làng nước im lặng để nghe đấu.

Bắc đứng dậy, đi đến trước mặt nạn nhân. Anh tần ngần đứng nhìn tội nhân thêm một lần nữa. Rồi bất ngờ, tiếng Bắc rất chói tai:

– Hỡi tên trọc phú này, hãy nghe đây.

Từ nãy, dù qùy mọp trước sân chờ chết, Ông Chu vẫn nghe rõ những lời đối đáp giữa Bắc và tên cán bộ. Ông biết những lời lẽ này không đủ cứu sống ông. Tuy nhiên, ông lấy làm mãn nguyện vì ít ra, người được gọi ra đấu tố ông, vẫn còn lưu một chút tình với ông. Và như thế, nếu ông có phải chết vì nhát chém của Vẹm, nhát chém ấy phải được hiểu là do lòng đố kỵ, và sự độc ác của Hồ chí Minh hơn là cái tội của ông. Chết như thế ông rất… mát dạ.

Tự nghĩ thế, ông Chu cố tạo sự bình thản để chờ chết. Ông gượng nâng cao cái đầu lên, mỉm cười nhìn Bắc thay cho muôn vàn lời nói trước khi về miền cực lạc. Nhưng rủi cho ông, thay vì được cười để chết, lại phải giật bắn người lên khi nghe Bắc trở giọng nói ngược. Trước cảnh tréo cẳng ngỗng này, ông Chu đã thu hết tàn hơi ngửa mặt lên, quắc mắt đổ trọn lửa giận lên mặt Bắc.

Chả ai nỡ trách ông Chu nóng nảy, hoặc sắp chết rồi còn hay sinh sự? Bởi vì, không riêng một mình ông phẫn uất, mà hầu như tất cả mọi người có mặt, kể cả vợ Bắc, đều ồ lên tiếng kêu bất bình trước sự kiện được coi là ăn cháo đái bát của Bắc.

– Anh Bắc, anh trả ơn người như thế à?

Nghe tiếng gọi, Bắc quay mặt lại nhìn vợ một cái rồi tiếp tục chỉ tay vào mặt nạn nhân đang chờ chết, hỏi lại. Tội nhân giận tím người vẫn phải thưa:

– Bẩm ông… nông dân, con nghe.

Tiếng Bắc nói như thật:

– Mày… chính mày là một người tội lỗi tày trời. Tội lỗi này đảng không tha và bác không dung thứ được. Mày có biết là đã phạm những loại tội lỗi gì hay không?

– Bẩm ông… nông dân…

Bắc lên dọng mũi:

– Còn trình với bẩm gì nữa? Hãy vểnh tai lên mà nghe cho rõ đây: Khi vợ con tao ốm nặng chờ chết, mày đã… độc ác không để cho vợ con tao chết tốt, lại còn bắt tao cầm tiền của mày đi mua thuốc về chữa bệnh cho nó. Kết qủa, đến hôm nay nó vẫn còn sống, và phải nai lưng ra kéo cày lao động cho nhà nước.

– Kế đến, gặp năm hạn hán mất mùa. Mày lại không để cho cả nhà tao và dân làng chết đói, cho thoát cảnh đời ô trọc, lại còn bắt tao đến tận nhà mày khiêng lúa gạo về nấu cơm, nấu cháo mà ăn. Kết qủa, mày đã không để cho bất cứ một người nào trong cái thôn này chết đói vào năm xưa, nhưng lại vô cùng khốn khổ đói rách vì ngày hôm nay. Mày hãy gỉa nhời đi. Tại sao lại… độc ác như thế? Tội lỗi to như thế thì bác nào tha thứ được?

Cả một đấu trường lúc khởi đầu thì im hơi lặng tiếng. Lúc này, những tiếng reo hò phụ họa nổi lên cuồn cuộn như thác lũ chảy theo lời đấu tố của Bắc:

– Đúng… đúng… đúng như thế!

– Câm mồm… câm mồm…

– Đấu đúng lắm… đúng lắm.

– Trói nó lại, trói nó lại, đem nó về trụ sở ….

– Tôi đấu chưa hết… chưa hết. Ông ta chẳng có tội gì, các ông đừng giết người nữa.

Trong lúc, tiếng viên phó đội gào thét bảo vệ bịt mồm, lôi Bắc ra khỏi pháp trường để chấm dứt sự kiện đấu tố phản thùng, dòng thác người cũng ào ào kéo đến giải vây cho Bắc. Trước biến động không có dự phòng này, viên phó đội trưởng liền rút súng ra bắn mấy phát thị uy, ra lệnh giải tán đám đông, ngưng cuộc đấu tố, đem tội nhân trở về ủy ban chờ lệnh. Phần Bắc được thoát nạn.

Câu chuyện về vợ chồng Bắc tưởng chấm dứt ở đó, chả nên chấp nhứt lời nói ngay thật của anh. Nhưng khi chiều đến, vợ Bắc thổi một nồi cơm ngon như là một hình thức tạ tội vì nhời nói thiếu suy nghĩ của chị hồi sáng. Bắc không khách sáo, anh làm một hơi đầy bụng. Cơm nước xong, vợ chồng Bắc dắt tay nhau ra ngồi trước sân chuyện trò. Trong lúc chuyện vãn, tình cờ vợ Bắc nhắc lại:

– Rõ hay nhỉ? Mình chả biết gì, cán bộ nhà nước lại bắt ra đấu tố ông ấy. Lúc mình đi ra, tôi chỉ sợ mình nhỡ miệng…

– Nhỡ làm sao được mà nhỡ. Ông bà ấy có làm điều chi nên tội ngoài việc giúp đỡ mình trước kia. Đã không gỉa ơn được thì thôi, có khi nào tôi lại bịa đặt thêm tội ra cho ông ấy. Ngưng lại một chút, Bắc dứt khoát :

– Tôi thà chết chứ không bao gìơ theo ai để làm ra chuyện ăn cháo đá bát ấy. Người ta có chết, mình chẳng được gì. Đã thế, còn bị dân làng nguyền rủa cho đến hết đời, và con cái mai sau cũng không dám ngửa mặt lên nhìn ai.

Chị Bắc mát lòng mát dạ nghe lời phân giải của chồng. Cả hai nhìn nhau mãn nguyện và toan đứng dậy vào trong nhà, đi ngủ. Bỗng đâu, có hai bóng đen từ phía hiên nhà lao ra. Chúng giơ con dao mã tấu của Hồ chí Minh ra trước mặt vợ chồng Bắc:

– Hì… hì… hì! Thì ra mày muốn chết à? Mày muốn chết thì… bác cho chết. Đêm tối ngủ không lo ngủ, lại dám ngồi đây kể tội bác đảng à?

Cười nói xong, hai đồng chí vĩ đại của bác ập đến. Chúng bắt và trói trặt tay Bắc ra phía sau lưng, dẫn Bắc ra phía cánh đồng. Khi đến bờ sông cách nhà Bắc chừng vài ba trăm mét. Chúng bắt Bắc qùy gối xuống, kể tội Bắc dám xỏ xiên chính sách đấu tố quang minh của đảng. Kết qủa, cùng với lời kể tội. Ánh sáng của cây mã tấu chớp loáng, Bắc rướn lên, gục đầu. Máu tưới xuống đất, đầu một nơi, xác đổ xuống một nơi, và hồn về nước thiên đàng trước khi nhìn thấy mặt vợ đang đuổi xát theo sau lưng.

Trong khi đó, tiếng chị Bắc không ngừng gào thét, đuổi theo sau bước chân của hai nhà cách mạng nhớn. Rồi khi đến nơi, tiếng chị thét lên rụng rời. Người ngã chúi xuống đất, hồn chơi vơi lăn lộn trên vũng máu, trên xác không đầu của chồng.

Cùng trong lúc ấy, từ cuối thôn vắng có dăm ba người nghe tiếng gào thét lanh lảnh giữa đêm tối. Họ biết, lại có người vừa được giải phóng. Kinh nghiệm đã dạy họ khôn hơn, không một ai dám ra khỏi nhà. Người can đảm nhất cũng chỉ dám đứng sát bên hiên, nép bên hàng rào, dương to đôi mắt, banh lỗ tai thật lớn ra để nhìn, để nghe ngóng xem người vừa về miền cực lạc là ai? Nghe xong, họ lặng lẽ bước trở vào trong nhà, nín thở leo lên giường. Nín thở vì cảnh tưởng chừng như đã quen mà người vẫn run.

Phần chị Bắc, khóc gào đến khan hơi, vẫn không một tiếng người đáp trả. Chị mỏi mệt chạy lộn ngược về cuối thôn, tính nhờ vài ba người ra tiếp tay khiêng xác Bắc về nhà. Kết qủa, chị đã hoài công. Cả làng thôn như đã say ngủ dưới cảnh thanh bình, hoặc đã bị đui điếc, không một ai nghe thấy tiếng đập cửa, tiếng kêu cứu của chị ngay trước nhà.

Cuối cùng, chị Bắc một mình tất tưởi trở lại bên xác chồng. Chị qùy xuống lạy ba lạy rồi đứng lên. Lần thứ nhất trở về, chị trải manh chiếu duy nhất trong gia sản của vợ chồng chị lên trên cái chõng tre giữa nhà, đặt đầu anh Bắc ngay ngắn trên đó. Sau khi để cây đèn dầu leo lét trên cái chõng, chị lại trở ra bờ sông. Lần này, chị không còn nước mắt để khóc than. Chị phải vận dụng toàn bộ sức lực của một người đàn bà đang bụng mang dạ chửa để lôi, để kéo, và để bồng bế anh Bắc trở về nhà với chị. Về đến nhà, chị đặt xác Bắc ngay ngắn trên giường cho liền với đầu. Sau đó, chị qùy xuống khấn vái linh hồn Bắc, rồi vuốt mắt cho anh. Làm xong bấy nhiêu công việc là chị ngất đi bên xác chồng.

Sáng hôm sau, vào lúc mặt trời chưa lên, hàng xóm lại được nghe tiếng khóc tỷ tê của chị. Có đôi ba người láng giềng không cầm được nước mắt, họ liều sang thăm, giúp chị đi đào cái huyệt nhỏ. Sau đó, bó xác anh Bắc vào trong tấm chiếu đẫm máu, đưa anh về miền đất lạnh, không gối chăn, không trống kèn, trước khi mặt trời khuất hẳn phía bên kia chân đồi.

Sau khi chôn xác và nấu cho anh Bắc nồi cơm cuối. Chị Bắc hình như không còn thiết tha với cảnh sống lẻ loi cô độc trên mảnh đất nặng u buồn, lắm đau thương này nữa. Chị đứng dậy, quấn vành khăn tang ngang đầu. Chị đi hết từ làng trên đến xóm dưới. Chị bắt đầu rao kể cho làng xóm nghe về câu chuyện đồng chí của bác, rình rập quanh nhà chị trong đêm tối, và nói rõ nguyên nhân cái chết của chồng chị cho mọi người biết.

Nghe chuyện chị kể, có người thương qúa hóa dại, trách Bắc dại dột để rước họa vào thân, hoặc đã làm một việc không nên làm. Lại có người lấy câu chuyện chân thật ấy, răn đe con cháu không nên làm chuyện ác gian, vu họa cho người. Tuy nhiên, dù khen hay chê, câu chuyện về anh Bắc đã làm cho Xuân Thủy một lần nữa lên cơn xốt.

Khoảng một tuần sau, Xuân Thủy đã vắng bóng chị Bắc tất tưởi dọc ngang kể tội bác và đảng. Bà con làng nước đoán chừng là chị đã chán làm cái công việc vô bổ ấy, chị nằm ở nhà nghỉ cho nó khỏe tấm thân. Ai ngờ, giữa lúc câu chuyện về cái chết của Bắc chưa lắng xuống, Xuân Thủy lại thêm một phen đất bằng dậy sóng. Người ta phát hiện ra cái xác của chị Bắc, chết trôi dạt và xình lên ở phía bên kia bờ sông. Khi kiểm tra, người ta thấy trên cái xác ấy có những nhát chém rất mạnh tay của đường dao mã tấu. Tuy nhiên, không một người nào biết tên kẻ đã… nhỡ tay chém chị là ai? Và cũng không nghe đến việc nhà nước cho truy lùng hung thủ.

Riêng phần ông gìa Chu, tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về cuộc đời và cái phúc của ông, dù dấu ngoặc ấy đến khá trễ. Số là sau ngày đấu tố hụt, nhà nước làm lơ, không giải ông Chu ra pháp trường nữa. Sự kiện vắng tin này đã làm cho nhiều người hoài nghi về lòng… tốt của nhà nước. Họ tin rằng nhà nước đã ra tay giết lén ông.

Sự thật không phải như thế. Nhà nước đã không cứa cổ ông như tin đồn, nhưng mời ông về miền thượng du gần Cao Bắc Lạng để học tập, ăn năn tội gần mười năm. Cuối cùng, ông vẫn còn xác để trở về ở với vợ con. Đặc biệt, sau ngày đổ cờ ở Sài Gòn vào 30-4-75. Ông liên lạc vào nam, rồi đích thân vào Sài gòn để thăm ba người con. Tội cho ông, chuyến hành trình qúa dài mà chả gặp mặt con. Ông vào qúa trễ, lũ con ông, một đứa bỏ nước chạy theo chân đế quốc. Hai đứa khác chậm chân, được nhà nước chiếu cố cho đi cải tạo chưa về. Trong chuyến thăm nam này, có người biết chuyện, hỏi cảm tưởng của ông. Ông không trả lời, chỉ thấy hai dấu lệ vươn trên mí mắt sụp..

Đến khi thằng Dụng quay vào, ông Đăng bỏ đôi đũa xuống trên cái mâm, bà Lục thấy vậy, cố nài ép, ông khôi hài bảo:

– Xin cám ơn ông bà thôi, thực tình là hôm nay tôi no qúa.

Bà Lục trách khéo:

– Rõ thật người nhà mà ông bà khách sáo qúa. Dọn lên mâm cơm, ăn xong, nhìn lại vẫn còn nguyên.

Ông Đăng bẻ cây tăm cho vào miệng:

– Không khách sáo đâu bà ạ. Cái dạ dày của tôi lâu nay tự nhiên bé hẳn lại. Có muốn ăn thêm cũng không có chỗ chứa.

Quay sang ông Lục, ông Đăng tiếp:

– Phải thế không ông? Ngày xưa thì mâm cơm này có thấm gì?

Ông Lục gật đầu như đếm:

– Ông nói phải.  Cuối cùng, bà Lục cũng bỏ đũa xuống. Bà dục con xuống bếp rót ấm nước chè nóng lên mời khách. Phần bà, bà tự tay thu dọn chén bát. Khi dọn, bà không quên nắm một nắm sôi, gắp mấy miếng thịt gà bỏ chung vào miếng mo cau với ý định, gởi bà Đăng đem về cho con dâu tương lai của bà. Phần còn lại, bà cất trên cái quang treo trong buồng ngủ, thay vì đem xuống cái chạn để trong nhà bếp.

Rồi sau chén nước chè tươi, vợ chồng ông Đăng đứng lên cáo từ. Ông Lục đưa mắt ra ngoài sân, biết trời đã muộn, ông lên tiếng giữ khách cho có lệ, và đứng dậy tiễn chân khách ra đến tận đầu ngõ. Ông bà Đăng bước nhanh dưới trời đêm. Vào lúc ấy, ông chưa biết, Hồi con ông, đang lúng túng trước những câu hỏi kém thiện cảm của chủ nhiệm Bảng…

Đồng Cạn

 

 

Chương chín  *********************************************************************

********************************************************************

Câu chuyện bữa giỗ tại nhà ông Lục hôm nào, chẳng có gì đáng nói. Tuy nhiên, một tuần sau bỗng dưng nổ lớn. Khắp thôn đông Xuân Thủy xôn xao, bán tín bán nghi về bản tin ông Lục giết gà làm giỗ cho con. Ông ta đã không làm đơn xin phép ủy ban, trái lại, còn mời thành phần xấu đến tham dự. Quanh bản tin này, có hai luồng dư luận xem ra trái chiều nhau. Những người thân tín của Bảng qủa quyết rằng: Bữa giỗ chỉ là cái… rổ, ông Đăng dùng để che mắt nhà nước trong lúc ông ta đi làm công tác, móc nối những thành phần chống đối nhà nước cho thằng địch. Nghĩa là ông ta tính đánh vào những chỗ nhà nước không phòng bị! Ở chiều ngục lại, cho rằng Bảng là thằng thối mồm!

Luận cứ thứ nhất không phải là không có lý. Bởi vì gần đây nhiều gia đình được “gọi là có công với cách mạng” đã ra mặt phỉ báng và chống đối những  việc làm tầm bậy, tầm bạ, bất nhân bất nghĩa của Việt cộng như câu chuyện xảy ra ở Yên Mô, Ninh Bình đã được truyền miệng trên khắp đất bắc:

Ông  Phạm Lê, người làng Yên Mô Thượng là  một viên chức nhỏ, giữ nhiệm vụ coi kho thóc đóng thuế của vùng Yên Mô, Ninh Bình từ trước khi có Việt Minh. Ông có hai người con trai đã đậu tú tài Pháp vào đầu thập niên 1940 là Phạm Chước và Phạm Lan. Sau khi đỗ đạt, thay vì ra làm việc với nhà nước bảo hộ, một ngày kia,  cả hai anh em cùng rũ nhau theo Việt Minh đi kháng chiến đánh Tấy! Chuyện họ đi kháng chiến đánh tây với thành tích ra sao dân làng không một ai hay biết. Nhưng vào một ngày đầu năm 1950, toàn thể dân làng Yên Mô Thượng, một làng có lẽ được xếp vào hàng lớn và giàu có của Ninh Bình lúc bấy giờ, phải bỏ làng, bỏ xóm mà chạy khi nghe tin Việt Minh kéo về. Trong lúc dân làng hoảng sợ, tay bồng tay bế, dắt diú nhau bỏ của chạy lấy người. Ông Phạm Lê,  thay vì cùng chạy tản cư ra tỉnh, vào tề với dân làng cho có bạn, ông lại đứng ra giữa đường, ngăn cản và khuyên bảo dân làng ở lại bằng những lời  lẽ rất chí tình:

– Hỡi đồng bào, làng ta sắp có hòa bình, sắp được giải phóng rồi. Bà con còn chạy đi đâu? Cứ nghe tôi ở lại với nhà cửa, với gia sản, với đồng ruộng, với kháng chiến mà nắm bắt lấy tự do độc lập ấm no hạnh phúc! Chớ có dại dột nghe nhời thắng dịch mà vào tề!

Theo lời khuyên của ông, một số người tin theo và ở lại. Nhưng đại đa số dân làng thì “bụng cứ rốn”! Nghe tin Việt Minh về là bỏ của chạy lấy người đã, còn tự do độc lập và hạnh phúc của chúng có hay không thì cứ từ từ xem sau cũng chưa muộn.

Kết quả, ngay đêm về làng làm giải phóng, “ bộ đội cụ hồ” đã tận tình vào từng nhà, gặp người thì  tra khảo của, hiếp đáp.  THất tài sản thì vơ vét  thùng gạo, bắt gà, vịt, cả heo, chó, của dân làng ra mổ bụng. Ăn không hết thì gánh mang theo.  Dân làng Yên Mô trông thấy bọn Việt Minh làm trộm cướp như thế nhưng không ai dám ho một tiếng. Trái lại, ngồi ru ú, ôm nhau  ở góc nhà bằng đôi mắt chỉ có lòng trắng, mặc chúng muốn làm gì thì làm.

Sau khi chúng kéo nhau đi, một số người định bụng đến nhà ông Phạm Lê mà mắng vốn, hoặc chủi toáng lên một trận rồi muốn đến đâu thì đến. Nhưng khi đi đến căn nhà mái ngói đỏ, sân gạch, tường cao của ông Phạm Lê, chẳng ai nom thấy bóng dáng ông và người nhà của ông đâu. Họ tụm năm, túm ba, to nhỏ, nghi ngờ ông Phạm Lê lừa dân làng ở lại, còn ông ta thì đã nhanh chân bỏ chạy từ lâu rồi. Lại có người nghi hoặc ông ta đã đi theo Việt Minh!

Giữa lúc chưa ai tìm được câu trả lời chính xác về ông, một bản tin truyền miệng lan rất nhanh, rồi làm cho toàn dân vùng Yên Mô mặt cắt không còn giọt máu:

– Ông Phạm Lê đã bị Việt Minh chặt đầu. Chúng giết ông và treo cái đầu của ông trên cái cọc cắm ngay ở ngã ba đầu làng. Trên cái cọc ấy còn viết một bản án theo lệnh của Hồ chí Minh là “ Việt Minh xử tử tên Việt Gian bán nước”

Câu chuyện ông Phạm Lê bị Việt Minh chặt đầu làm rúng động cà Yên Mô. Nên những ngưòi còn ở lại đều lặng lẽ cuốn gói ra đi. Do dó, cả tuần sau cái đầu của ông Phạm Lê còn treo trên đầu cái cọc ấy. Tuy thế,  câu chuyện về ông Phạm Lê chưa chấm dứt ở đây. Sau ngày gọi là hòa bình, hai người con trai của ông trước khi được về quê thăm lại làng xưa, họ bị điều vào công tác yểm trợ đấu tố ờ Việt Bắc rồi Hà Nam. Mãi đến khi lệnh sửa sai đến địa phương, cả hai mới xin nghỉ công tác để về làng thăm gia đình.

Khi về cả hai không còn là những ông tú thư sinh ngày nào, nhưng là những quan cán dạn dày gío sương của nhà nước trong độ tuổi mới ngoài 30. Dó là Trung tá Phạm Chứơc, Thiếu Tá Phạm Lan. Cả hải đều có thành tích chiến đấu giỏi trong chiến dịch diện biên. Niềm vui áo gấm về làng chưa thấy, cả hai đã bị đội cải cách Yên Mô Thượng túm cổ trước khi về  đến khu gia cư của ông phạm Lê. Chúng định đưa ra pháp trường sử lý ngay. Cũng may, nhờ có người quen trong đội cải cách, trung tá Phạm Chứớc và Thiều tá Phạm Lan giữ được hai cái đầu trên cổ, tránh được vạ chết oan vì bản án: “ thành phần con cái  Việt Gian bán nước được gài vào trong quân đội nhân dân” của Hồ chí Minh. Sau khi chết hụt, Phạm Chước và Phạm Lan mới biết ông Phạm Lê đã bị Việt Minh xử tử từ năm 1950. Họ được lệnh trở về đơn vị, thay vì về làng, rồi được cho về phục viên ngay sau khi ủy ban hành chánh Yên Mô gởi thư xác nhận, ông Phạm Lê bị giết… nhầm! Hai người cầm tờ giấy phục viên và ra đi biệt xứ từ đó.

Trở lại Xuân Thủy, nhiều người cho rằng: Nếu ông Đăng làm gián điệp cho thằng địch, ông ta sẽ không đi móc nối gia đình liệt sỹ của Việt cộng vào trong tổ chức. Nói cách khác, họ không tin theo nhời Bảng. Họ cho rằng, chỉ tại miếng thịt gà!

Về phía các nạn nhân, khi nghe làng xóm to nhỏ về bữa ăn, ông bà Lục, ông bà Đăng nhìn nhau bật cười. Họ bật cười vì câu chuyện chỉ bắt nguồn từ sự kiện, trâu buộc ghét trâu ăn. Nói trắng ra là vì không được mời ăn miếng thịt gà tại nhà ông Lục, nên chủ nhiệm Bảng thổi phồng sự việc lên cho nó thêm phần nghiêm trọng, chả việc gì phải bận tâm. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, ông bà Lục tắt hẳn tiếng cười và phía ông bà Đăng giống như người ngồi giữa lò lửa. Lý do, ông Đăng đã là người được nhà nước liệt kê vào thành phần xấu. Một thành phần tối nguy hiểm của nhà nước. Lúc này, đeo thêm cái tội đi móc nối người làm việc cho thằng địch, ông ta chỉ còn một con đường duy nhất để đi. Đường lên nước thiên đàng!

Thật ra, những lời qua tiếng lại này không bỗng dưng mà có. Nó có, là do công lao xây dựng, tổ chức lâu dài với những chủ đích riêng của nhà nước. Những lúc gần đây, cán bộ đảng viên của nhà nước ở khắp nơi trên đất bắc, bỗng nhiên thất nghiệp. Thất nghiệp là vì việc giết người qúa tay trong mùa đấu tố đã làm rúng động toàn đất bắc và đẩy đất bắc vào cuộc tang chế, kinh hoàng chưa bao giờ có trong lịch sử.  Nên nhà nước đành ngậm qủa bồ hòn theo kế sách tạm ngưng để sửa sai.

Dĩ nhiên, việc sửa sai chỉ là manh áo lừa dối hào nhoáng để che mắt nhân dân.  Bởi lẽ, nhà nước Việt cộng đã không thể lôi cổ Hồ chí Minh và Đặng xuân Khu  là hai tên đồ tể trong chính sách đấu tố tàn bạo này ra tước tòa án nhân dân. Nên phải thay vào đó là các bài bản sửa sai cho có lệ và đẩy mũi dùi tấn công, phẫn uất của đồng bào ngoài bắc sang một mục tiêu khác.  Đánh những kẻ có liên hệ với thằng địch ở trong nam và kết àn đây là thành phần việt gian như trường hợp Phạm Chứơc, Phạm Lan đã lặn sâu, trèo cao vào trong hàng ngũ cán bộ của nhà nước để chờ cơ, phá hoại chính sách cải cách ruộng đất của nhà nước. Với kế sách này, về cơ bản, hoàn toàn có lợi cho nhà nước giải oan. Hơn thế, còn tạo ra công ăn việc làm cho các đoàn đảng viên và các cơ sở của đảng.

Lúc ấy, si cũng biết chuyện di cư vào nam giống như một mũi dao nhọn, càng ngày càng thọc sâu vào tử huyệt của nhà nước Việt cộng. Nó là một nhức nhối, không phải chỉ trên bề mặt tuyên truyền, nhưng còn là một xỉ nhục lớn cho cái tập đoàn lãnh đạo của cái nhà nước xã hội chủ nghĩa này. Từ đó, sách lược nào của nhà nước cũng đều gặp trờ ngại và bị nghi ngờ vì nhân dân luôn hướng mắt, nhìn vào những cuộc di cư tìm tự do ở miền nam. Hồ biết rõ chuyện này, Y đã tính diệt gọn những thành phần có liên hệ với miền nam và tôn giáo trước khi làm cuộc  đấu tố cải cách ruộng đất. Nhưng trước tai mắt quốc tế dòm ngó, Hồ phải ngậm qủa bồ hòn, làm vui.

Ở chiều ngược lại,  chỉ sau mấy tháng cầm quyền,  nhân dân trên toàn đất bắc đã nhìn ra cái bản chất thật của tập đoàn lãnh đạo của nhà nước Việt cộng. Chúng luôn luôn  đẩy nhân dân vào những mâu thuẫn cục bộ để trục lợi và nắm lấy quyền lực. Chúng không bao giờ để cho nhân nhân có được cuộc sống bình thường, yên ổn. Bởi lẽ, nếu nhân dân được hưởng một đời sống hòa bình và tự do, có luật pháp, có luân lý có đạo đức xã hội,  không bị áp bức thì Hồ chí Minh đã bị treo cổ lâu rồi, cần gì phải chờ đến hôm nay!

Riêng tại Xuân Thủy, ngay sau ngày cánh cửa di cư vào nam đóng lại, ông Đăng đã là một trong những ngưòi được công an nhà nước ưu ái mời đi hỏi cung nhiều lần. Lần nào nhà nước cũng khuyến cáo ông nên thành khẩn khai báo, và trả lời những câu hỏi đại loại như:

– “Con ông hiện ở đâu? Nó đổi tên là gì và đang giữ chức vụ nào trong quân đội hay chính quyền của thằng địch? Phía nhà nước ta, những kẻ vô học, vô vô gíao dục đã làm nhớn, lẽ nào con ông có bằng thành chung mà chỉ nắm cái chức trung sỹ?  Nó có thường liên lạc về nhà hay không? Rồi những khi nó liên lạc về nhà, nó đã nói những gì?”

Những câu hỏi này ông Đăng đã thuộc lòng, nhưng không tìm ra câu trả lời. Lý do, hai câu đầu, cả ông lẫn cán bộ nhà nước đều không biết. Riêng câu hỏi sau, nhà nước biết rõ hơn ông. Chả có một lá thơ nào Thông gởi về cho ông bà Đăng mà không qua bàn tay kiểm soát của Việt Cộng. Tuy thế, cán bộ vẫn thích hỏi ông. Ông không trả lời được là ông mệt với nhà nước!

May cho ông, giữa lúc lúng túng chưa biết trả lời ra sao, vụ đấu tố phú nông địa hào nổ ra. Nó buộc các cán bộ nhà nước phải dốc toàn lực vào công tác đặc biệt này. Nhờ đó, ông Đăng dễ thở đôi chút. Đến hôm nay, cuộc đấu tố mới tạm nghỉ tay. ông Đăng lại nhận được lệnh mời. Khi được mới, ông không ngạc nhiên, chỉ khó hiểu về cách mời. Họ đến, thông báo cho ông giờ giấc đến trình diện công an Xuân Thủy, thay vì gởi giấy như những lần trước.

Lúc nghe lệnh mời, ông Đăng thấy lòng bất an. Nhưng không muốn nhìn thấy dấu lệ trên viền mi, ông vội đi về phía sân sau nhà, nhìn trời, nhìn đất. Ai ngờ, khi đến bên cái chuồng trâu, nhìn cảnh màn giăng nhện bám, lòng ông thêm héo úa.

Nhớ lại những ngày trước mùa phân chia đất nước, cái chuồng trâu nhỏ bé này đã cho ông nhiều phấn khởi. Phấn khởi vì ngoài việc nó cung cấp cho ông một ít phân xanh cần thiết, nó còn cho đôi mắt và lỗ tai của ông lắm niềm vui mỗi khi ông nhìn thấy con nghé nhảy những bước chân non trong chuồng, rồi rúc đầu vào cái vú căng sữa của con trâu mẹ. Tiếc thay, niềm vui và hạnh phúc của ông chỉ như chút nắng vụt loé lên sau cơn mưa chiều. Đó là một chút nắng không thể hong khô manh áo ướt trước khi bóng đêm vội đến.

Sở dĩ ông Đăng chỉ có được niềm vui ngắn ngủi sau ngày được gọi là hòa bình như thế là vì: Ngay sau khi cánh cửa di cư vao nam khép lại, Hồ chí Minh và đồng bọn  đã hồ hởi mở cuộc đấu tố gọi là: đào tận gốc, trốc tận rễ thành phần trí phú địa hào, đẩy toàn bộ đất bắc vào cuộc tang chế, thê lương. Kẻ thì chết, người đi tù, kẻ trắng tay. Tuy họ bị kết án là cường hào ác bá có nợ máu với nhân dân. Nhưng thực ra, họ chính là thành phần nòng cốt đã bao che và nuôi ăn uống toàn bộ các đoàn đảng viên nhớn nhỏ của nhà nước Việt cộng trong thời còn kháng chiến.  Nói cách khác, không có họ, từ Hồ chí Minh đén đồng bọn Lê Duần, Phạm văn  Đồng, Trần quốc Hoàn võ nguyên  Giáp. Nguyễn lương bằng, Tôn dức Thắng.. và cả cái tập đoàn Việt Minh ấy đã chết nhăn răng vì đói, vì khát, vì lạnh hoặc bị bắt cầm tù từ lâu rôi, chẳng còn kẻ nào sống đến hôm nay? Nhưng lũ bất nhân này, sau khi rơi vào hũ gạo, thay vì tìm cách trả ơn cho những người đã gia ân, cứu giúp mình. Chúng trở mặt, tặng cho họ những nhát giao giải phóng để cướp luôn tài sản của những ân công này. Trướng hợp bà Nguyễn thị Năm là một điển hình ở trung ương và các địa phương đều có chung một sách lược đối xử như thế.  Nếu người dân biết được bộ mặt thật bất lương của chúng sớm hơn một chút thì làm gì có cảnh dở khóc dở cười trong mùa đấu tố. Làm gì ông bà Đăng, và toàn bộ  nhân dân phải trắng mắt, trắng tay trước những mục đích to nhớn của chúng như:

– Thứ nhất, Việt Minh sẽ chiếm, đoạt lấy toàn bộ tài sản của nhân dân, của đất nước vào trong tay một đảng cộng sản.

– Thứ hai, mở  ra  những cuộc đấu tố để nhân dân tự ý đấu tố lẫn nhau, để rồi tự giết chết tình người, đạp đổ nền luân lý đạo đức và truyền thống văn hóa nhân bản của dân tộc Việt.

– Thứ ba, vẽ ra con đường một chiều, mà trên đó, cách đi đứng, cách ăn nói, lề lồi  sống đều rập khuôn theo khuôn mẫu vô gia đình vô tôn giáo và vô tổ quốc của bọn bất lương đề ra.

Theo sách luợc này,  nhà nước, đảng Việt cộng thắng lớn,  phần nhân dân miền bắc thì dở sống dở chêt. Riêng ông Đăng, sau khi từ buồng công an Xuân Thủy bước ra, ông đã là một trong những người đầu tiên tự biết mình có… lỗi với nhà nước. Ông về nhà, bàn với bà Đăng, sau đó, áp dụng kế sách lấy của đi thay người như cán cộng hướng dẫn.

Theo sách lược này, ông Đăng phải làm giấy dâng hiến toàn bộ tài sản của gia đình ông bao gồm: hai sào ruộng nước, một con trâu cái, một con nghé sáu tháng và một dàn bừa cho nhà nước. Thêm vào đó, ông cũng không quên… dâng cho nhà nước chính khu nhà ông đang cư ngụ. Khu thổ cư này rộng gần bốn trăm mét vuông đất, trên đó có một căn nhà ba gian, một cái bếp và cái chuồng trâu. Theo bản văn hiến dâng tài sản của ông Đăng, nhà nước hân hoan đến tiếp quản toàn bộ tài sản của ông. Tuy nhiên, vì thiếu người quản lý, nhà nước đã giao khu nhà ở cho ông Đăng trông coi. Từ đó ông nất quyền  hưởng huê lợi từ mấy cây mít và hàng cau quanh nhà.

Khi biết mình trắng tay, bà Đăng rầu rĩ đi ra đi vào tiếc của khóc mếu. Thấy vậy, ông Đăng đã can đảm khuyên bà bằng những lời lẽ sắc bén:

– Bà chả nên buồn vì kế lấy của đi thay người. Hơn thế, bà nên chạy ra đường mà reo mừng lên. Mừng vì từ đây, gia đình ta đã được liệt kê vào thành phần vô sản, một thành phần căn bản của xã hội. Theo đó, từ đây tôi sẽ đứng chung trong hàng ngũ lãnh đạo đảng và nhà nước với bác. Như thế, bà thử nghĩ xem, còn một vinh dự nào to nhớn hơn không?

Dù chẳng tin nhời ông lý luận, bà Đăng cũng không có con đường giải quyết khác. Bà đành cười gượng làm vui hơn là hờn dỗi ông. Bởi vì cùng nằm trong trường hợp bị án treo như ông Đăng, có người bị khủng hoảng, không dám sống trong nỗi kinh hoàng ám ảnh mỗi ngày. Họ đã thắt cổ mà chết. Lại có kẻ ra điên thành dại. Riêng ông Đăng, ông phải lập kế giả câm giả điếc. Bởi vì, chính ông đã nói nhỏ với bà Đăng rằng: Ông cần phải sống. Sống để nhìn thấy cuộc cờ đổi thay.

– Cuộc cờ đổi thay!

Ông Đăng tự chép miệng, ngước mắt lên nhìn trời. Nghĩ đến cuộc cờ đổi thay mà lòng ông xe thắt. Lý do, từng tấc đất, từng cọng rau đến ngọn cỏ dại đang gợi lên trong lòng ông sự bồi hồi, sao xuyến. Một sự sao xuyến hầu như không bao giờ có ở trong ông. Ngay lúc Thông và hai người con của ông lên đường, vợ ông ngồi khóc như cha chết, ông vẫn bình thản như không có gì xảy ra. Nhưng hôm nay, ông đã rơi nước mắt khi dừng lại bên cái lưỡi cày vất ở góc vườn. Nhìn cảnh giậu đổ Bìm Bìm leo, ông chán nản nghĩ đến phận mình. Liệu ông có giống như cái lưỡi cày bị vất vào góc vườn hay không?

(tiếp)

Chiều đến, khi ngồi  bên mâm cơn trên cái chiếu rách trải giữa nhà, ông tính thông báo cho bà Đăng và cho con gái biết tin về việc được mời lên công an làm việc, nhưng lại yên lặng, ăn cho xong bữa cơm.

Cơm nước xong, Hồi đi họp tổ sản xuất, bà Đăng một tay cầm cái tăm, một tay bưng bát nước bước ra cửa. Bà ngậm hớp nước chè nóng, súc ùng ục mấy cái trong miệng rồi nhổ toẹt xuống trên sân đất. Khi quay vào, bà thuận tay khép chặt lại cái cánh cửa, đến ngồi trên cái chõng đối diện với ông. Bà rót thêm cho ông và cho bà lưng chén nước, sau đó, mở hộp trầu, lấy miếng cau cho vào miệng nhai trước trong lúc tay bắt đầu quyệt vôi trên lá trầu. Thấy ông Đăng vẫn một mình một bóng co ro bên cái điếu, bà thắc mắc hỏi ông:

– Sao hôm nay ông lặng lẽ thế?

Chả biết nghĩ gì, ông Đăng trả lời:

– Tôi lặng lẽ lắm à?

Bà Đăng nguýt chồng:

– Ông hỏi đến hay!

Thay vì trả lời, ông Đăng châm lửa vào đầu cái đóm rồi từ từ hạ thấp đốm lửa xuống trên cái nõ điếu. Phía bên kia cái điếu, bà Đăng cũng cầm que vôi, quyệt sẵn vào đầu ngón tay trỏ chút vôi. Chờ khi nhai dập miếng trầu, bà sẽ cho thêm tý vôi và bi thuốc lào vào miệng, cho miếng trầu thêm đậm đà.

Nếu như không có chuyện giải phóng, cũng không có chuyện xã hội chủ nghĩa và chính sách đấu tố của Vẹm. Những hình ảnh tuy đơn sơ, mộc mạc này, dư sức làm cho người dân quê cảm nhận được cái hạnh phúc sau một ngày cực nhọc trên cách đồng. Tuy nhiên, thực tế lại khác. Từ lúc Việt Minh về và sau này là mùa đấu tố. Người dân quê trên đất bắc không còn cái may mắn để ngồi nhắc, nhớ lại những câu chuyện ngày mùa với hương thơm gạo mới, với tiếng cười đùa của lũ trẻ thơ nữa. Thay vào đó là cảnh vợ chồng ngồi bó gối, trắng mắt nhìn nhau, con ruồi đậu trên mặt cũng không buồn đuổi.

Trong bối cảnh đó, sau khi nhả khói thuốc, bỏ cái xe điếu xuống trên bát điếu. Ông Đăng kín đáo quan sát bà, rồi đột nhiên bảo:

– Này bà, nếu một ngày nào đó chúng mời tôi đi và không được về…

Bà Đăng giật nẩy mình, căng đôi mắt lên nhìn ông, gịong đầy trách móc:

– Hôm nay ông ăn nói đến hay nhỉ? Từ nãy thì ngồi như ngậm thóc, gìơ lại buông ra lời nói gở.

Ông Đăng thở dài thườn thượt:

– Có lẽ không gở lắm đâu bà ạ. Từ lâu tôi biết chắc thế nào cũng phải đi, nhưng không dự đoán được là bao lâu và vào thời gian nào mà thôi.

Bà Đăng không đồng ý, gạt phăng đi cái tư tưởng yếm thế của ông:

– Ông chỉ khéo lo!

Ông Đăng bảo:

– Chẳng ai muốn đeo khổ vào người. Nhưng cái khẩu lệnh ngày mai tôi phải lên công an trình diện, chắc không phải là chuyện trò chơi?

Bà Đăng trố mắt nhìn ông:

– Họ đến khẩu lệnh cho ông bao giờ?

– Mới sáng nay.

– Tại sao nó không gởi giấy mời như những lần trước?

– Chuyện chúng làm có đến Giời cũng chẳng biết!.

Vừa nghe xong câu trả lời, bà Đăng hiểu toàn bộ những lý do khiến ông thẫn thờ từ sáng tới giờ. Bà buột miệng:

– Chẳng lẽ chỉ vì một bữa ăn.

Ông Đăng chậm rãi cắt nghĩa cho bà:

– Không phải như thế, bữa giỗ chẳng là cái gì trong cái ly đã tràn nước. Theo tôi nghĩ, cái diện như mình chính ra đã bị đánh trước khi có chính sách đấu tố phú nông địa hào. Nhưng lúc ấy, vì sợ tai mắt quốc tế còn nhiều, nên nhà nước chỉ vờ làm công tác gọi là kiểm tra nhân sự. Lúc này mới là lúc thuận lợi để họ ra tay. Ngưng lại một chút, ông tiếp:

– Bà cũng biết đấy, cuộc cải cách, chém giết dã man, đã gây ra sự công phẫn lớn trong dư luận quần chúng nhân dân. Do đó, chúng bó buộc phải nghĩ đến việc tạm ngưng thi hành rồi tìm cách đánh lạc hướng nhân dân. Dịp may đã đến, nhân lúc có nhiều nguồn tin, thật hư chưa ai biết, đều nói đến việc trong nam bắt đầu gởi cán bộ ra ngoài này hoạt động, nhà nước liền dùng kế mượn gío bẻ măng. Nghĩa là, họ sẽ tuyên truyền và tạo ra dư luận mới. Tiếng là để bảo vệ an ninh cho tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Nhưng thực ra, họ muốn tiêu diệt tận gốc rễ những thành phần họ cho là nguy hiểm để khỏi di họa về sau. Theo đó, diện như mình, khó thoát khỏi bàn tay của họ, và việc tôi phải đi chỉ là trong sớm tối!

Ông Đăng nói một hơi khá dài, giọng chắc như đinh đóng cột làm bà Đăng thêm hoảng hốt. Nhưng theo kinh nghiệm bản thân, bà không lên tiếng trách

Bất ngờ ông Đăng gắt gỏng:

– Bà bé mồm bé miệng một tý có được hay không? Than thở như thế có ích lợi gì? Lúc này là lúc nghiêm trọng, không thể thờ  ơ trước mọi ngoại cảnh được. Bà nên lưu tâm, để ý tới đôi lời dặn dò của tôi.

Bà Đăng nhìn chồng không chớp mắt. Mấy chục năm trời chung sống với nhau, chưa bao gìơ ông gắt gỏng và nói với bà một câu nghiêm trọng như thế. Bà buồn lòng, nhổ miếng trầu đắng chát ra khỏi miệng, đưa mắt nhìn ra trời đêm. Tiếng nói mất tự chủ:

– Nếu ông phải đi, mẹ con tôi có sống cũng bằng không. Cần chi lời dặn dò…

Bà ngập ngừng, giọt nước mắt vội lăn trên gò má rồi lăn xuống đôi tay. Ông Đăng trông thấy. Ông không trách bà mau nước mắt, chỉ buồn cho quãng đời đen tối. Sau một lúc im lặng, ông lên tiếng trấn an bà:

– Tuy thế, bà chả nên lo lắng thái qúa. Sống chết là do mệnh trời, không do con người. Và nếu tôi đã giống con cá vướng lưới hoặc đã nằm trên thớt, bà cần phải can đảm mà sống. Sống để lo cho chúng nó. Con Hồi, thằng Thông, thằng Phú, thằng Nhân không thể thiếu bà khi đã mất tôi.

Mới nghe ông nói được vài câu, bà Đăng đã kéo vạt áo lên lau mặt. Ông Đăng tê tái, ông không đủ can đảm nói thêm. Lát sau, ông đứng dậy, thở dài:

– Tôi chỉ dặn hờ bà như thế thôi. Nếu tôi không phải đi, việc của chúng nó, tôi có phương cách giải quyết. Trái lại, bà nhớ thay tôi mà lo cho chúng.

Bà Đăng ngồi bất động, lỗ tai lùng bùng. Phần ông Đăng, sau khi dặn bà vài câu, ông bước ra cửa. Bà Đăng nom thấy vội lên tiếng:

– Tối rồi, ông ra ngoài làm gì cho sương xa nó xuống.

Ông Đăng quay lại:

– Tôi định sang thăm ông bà ta một tý.

Bà Đăng bước theo ra cửa, nhìn trời:

– Khéo mà trễ qúa rồi, mai hãy đi.

Ông Đăng bước xuống sân:

– Trễ cũng phải đi. Bà ở nhà, tôi sẽ về ngay…

Cùng trong thời gian đó, ông bà Lục không dấu nổi sự lo âu trước bản tin mỗi ngày một lan rộng và bất lợi cho ông Đăng. Có lúc ông đã chép miệng, đấm ngực than thở, hối hận về việc không mời Bảng ở lại để gây ra rắc rối lớn. Riêng bà Lục, tuy kém vui, nhưng cương quyết gạt bỏ ý kiến của ông:

– Cho nó ăn cũng thế, không cho nó ăn cũng vậy. Nó muốn bới lông tìm vết thì thiếu gì cách, cần gì phải có bữa ăn.

Ông Lục trả lời:

– Đành rằng thế, nhưng có lẽ không nên gìa néo bà ạ.

– Ông lại sợ đứt giây để cho nó trèo lên đầu lên cổ mình hay sao?

Thay vì trả lời câu hỏi, ông Lục lại hỏi bà sau khi đẩy hơi khói ra ngoài:

– Về việc thằng Dụng và con Mễ bà tính sao?

Bà Lục dương đôi mắt nhìn ông:

– Ông hỏi như thế là có ý gì?

Tiếng ông Lục đục khàn:

– Nào có ý gì khác ngoài việc muốn biết ý kiến của bà. Nếu phải chọn một trong hai, bà sẽ chọn cách nào?

Giọng bà Lục cất cao trong đêm tối:

– Ông đến là lẩn thẩn. Con không chọn lại đi chọn con trâu!

Trả lời xong, bà Lục tự biết có phần vô lý khi đặt ngược vấn đề với ông. Lý do, bà chưa biết rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao lại thấy ông ngồi trong tư thế hai tay ôm chặt lấy cái đầu gối, mặt đầy nét ưu tư. Bà liền hỏi:

– Chúng nó định bắt thằng Dụng hay là con Mễ? Sáng nay ông lên ủy ban, chúng có nói gì không?

Trong lúc ông Lục bưng chém nước trà nóng lên ngang miệng để làm kế hoãn binh, bà Lục lại nóng nảy nói toáng lên:

– Không thể lép vế như thế được. Ông phải ra và bảo cho chúng biết, gia đình này là gia đình liệt sỹ của nhà nước. Cán bộ đã không lo lắng đến đời sống của mình thì thôi, có đâu lại ra tay chèn ép người có công.

Ông Lục ngắt lời bà:

– Bà đến là lắm nhời! Ai không biết cái khoản liệt gân liệt cốt của bà. Nhưng sống ở chốn đồng hoang dã thảo, sống dưới thời việt cộng, bà đào đâu ra luật lệ? Luật lệ là con dao của chúng. Chúng muốn nói gì, muốn làm gì tùy thích thì bà bảo sao?

Nghe hỏi ngược, bà Lục không chùn bước. Hơn thế, bà có phản ứng giống như người sắp lâm chiến. Bà đánh xèng hai bàn tay trước mặt một cái rồi kéo thốc cánh tay áo lên cao:

– Ông hỏi đến là ngớ ngẩn. Bộ nhà nước này không có luật pháp và ngoài cái ủy ban Xuân Thủy này ra, không còn một nơi nào khác để ông đến khiếu nại hay sao? Ông tính để mặc cho cái bọn ăn cướp ấy muốn làm gì thì làm à?

Ông Lục xưa nay là người vốn không thích chiến tranh. Ông thường có khuynh hướng, bà bảo sao ông nghe vậy hơn là việc lời qua tiếng lại với bà. Nhưng tối nay, khi bà to tiếng, ông sợ chuyện bức vách có lỗ tai. Ông đã không ngần ngại phá vỡ quy luật có từ ngày cưới vợ. Ông nói át:

– Bà bé mồm một tý có được hay không? Thời buổi này toàn là tai vách mạch rừng. Không phải dễ sống đâu.

Bà Lục há miệng, kinh ngạc trước thái độ cứng rắn khác thường của ông. Nhưng chỉ sau vài giây, bà lấy lại bình tĩnh và quyết vùng lên thay vì chấp nhận phương cách im hơi lặng tiếng, xuôi chiều lép vế giống như ông:

– Không sống thì chín. Ông ra bảo cho chúng nó biết, nếu động đến tôi là tôi úp… váy vào mặt đấy. Đừng có tưởng con mẹ gìa này chịu nhịn chúng mãi đâu.

Trước cảnh lên đồng của bà, ông Lục đành ngồi im. Phần bà, bà chưa hả cơn giận. Bà đứng dậy, một tay kéo cái váy lên cao trên đầu gối, một tay chỉ thẳng ra phía đầu ngõ:

– Được! Đã đến nước này thì lành làm gáo, vỡ làm môi. Sáng mai tôi sẽ lên thẳng ủy ban để hỏi xem chúng muốn gì cho biết.

Thấy bà hăng qúa mức dự trù, ông Lục bó buộc phải hạ giọng:

– Bà chỉ hay nóng nước đỏ gọng. Đã không giải quyết được gì lại mua thêm rắc rối vào người.

Nghe chồng không có ý về phe với mình, bà Lục giận dỗi, ứ hự một tiếng trong cổ rồi xách ấm nước vào trong nhà. Ông Lục ngồi một mình mất hứng khởi, cũng đứng lên, cầm cái điếu đi vào theo. Vừa bước vào và chưa kịp ngồi xuống trên cái chõng, đã nghe có tiếng gọi cửa. Hai ông bà giật mình nhìn nhau:

– Ai gọi cửa nhà tôi đấy?

– Tôi đây ông bà ạ.

Nghe giọng nói quen thuộc, bà Lục vội đi ra mở cửa. Bà không dấu được sự ngạc nhiên khi mời khách vào nhà:

– Mời ông vào chơi, uống bát nước. Bà có khỏe không ông?

Tiếng bà chưa dứt và ông Đăng cũng chưa ngồi xuống ghế, lại có tiếng gọi cửa khác. Cả ba cùng đánh thót người.

– Ông bà Lục có nhà không?

Nghe hỏi, ông bà Lục bụng bảo dạ:

– Thế này là chết cửa tứ rồi. Ông ấy đi một bước là chúng theo một bước. Ông ấy nói một nhời là chúng thu vào máy. Rõ khổ!

Than xong, ông bà Lục nhìn nhau lộ rõ nét ái ngại vì sự có mặt của ông Đăng vào thời điểm này. Không mở cửa cho Bảng thì không được, mà mở sẽ có bao nhiều điều phiền phức kế tiếp. Thật là hoạ vô đơn chí. Lưỡng lự một lúc, bà Lục đành lên tiếng:

– Đêm hôm ai đến gọi cửa nhà tôi có việc gì đấy?

Tiếng nói từ ngoài vọng vào mãnh liệt hơn:

– Tôi đây, tôi là chủ nhiệm Bảng đây.

Ông Lục trở ra, cánh cửa vừa hé đã thấy hình bóng chủ nhiệm Bảng oai phong đứng sừng sững trước cửa nhà. Ông Lục cố gắng niềm nở:

– Ông chủ nhiệm lại nhà, mời ông vào uống bát nước.

Nghe câu mời lơi, chủ nhiệm Bảng thấy ứa gan. Khi có con gà đĩa xôi, gã không hề nghe được một câu mời. Lúc này, cần gì phải mời với mọc. Tự nghĩ thế, Bảng bước vào khi ông Lục đứng né sang một bên. Thấy Bảng vào, ông Đăng, người khách vừa đến trước gã vài bước vội lên tiếng chào. Bảng giật mình quay sang, trả lời đáp lễ và không quên nhìn gia chủ và người khách bằng đôi mắt đầy nghi ngờ và bất thiện cảm. Gã kéo ghế vào đề:

– Sao ông bà đã nhất trí chưa?

Bà Lục chưng hửng chưa hiểu chuyện gì, lại khó chịu trước thái độ và giọng nói trịch thượng của Bảng. Bà sẵng tiếng:

– Ông chủ nhiệm bảo nhất trí, nhất trí về cái khoản gì?

Nguyễn văn Bảng vờ ngạc nhiên nhìn bà Lục trong lúc một tay gã đưa ra, cầm lấy xáp thuốc lào của gia chủ, một tay còn lại kéo cái điếu vế phía gã:

– Té ra ông nhà chưa đả thông cho bà cái phương án đã được đề quyết với ông tại văn phòng ủy ban sáng nay hay sao?

Bà Lục toan lên tiếng, nhưng lại thôi. Bảng ăn vội điếu thuốc, nhìn về phía ông Đăng nhả khói:

– Kể ra thì gia đình của ông bà là gia đình liệt sỹ của nhà nước. Một gia đình được xếp vào diện ưu tiên nằm trong chính sách đãi ngộ đặc biệt của đảng. Theo chính sách này, cán bộ, nhân dân ta phải hết lòng hết sức bảo vệ, chăm lo đến đời sống của ông bà. Tuy nhiên, trong hiện tình của nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, đảng đã kêu gọi toàn thể nhân dân hãy khắc phục thêm một thời gian nữa. Kế đến, như ông bà đã biết. Trong lời kêu gọi ấy, đảng đã nhắm và ra sức vận động những gia đình nằm trong hàng ngũ gia đình cách mạng, phải làm gương đi tiên phong trong các chính sách của nhà nước để cho quần chúng soi gương. Thí dụ như, khi chính sách cải cách ruộng đất và đấu tố ra đời. Ông bà phải mau mắn hồ hởi, phấn khởi hiến dâng tài sản và tích cực tham gia công tác đấu tố những thành phần… xấu.

– Thứ đến, khi nhà nước mở hợp tác xã. Ông bà phải biết đi tiên phong, xin gia nhập để mở đường cho quần chúng nhân dân nối gót. Rồi khi con cái đến tuổi thi hành nghĩa vụ quân sự. Nhiệm vụ chính yếu của ông bà, phải động viên chúng hăng hái thi hành để được cái tiếng là người biết lo lắng đến sự an nguy của tổ quốc.

Bảng dừng lại, có ý thăm dò phản ứng của ông bà Lục. Thấy ông bà Lục ngồi im bó gối, gã tin chắc câu chuyện đồn thổi bên ngoài, rất có lợi cho câu chuyện của gã tối nay. Gã liền tranh thủ thời cơ:

– Đó là cơ sở trên phương diện lý luận. Tuy nhiên, đảng đã có chỉ thị. Các cấp bộ địa phương được tùy nghi vận dụng sáng tạo trong việc thi hành chính sách của nhà nước để đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Do đó, sau nhiều cuộc thảo luận sôi nổi của chi bộ. Toàn thể cán bộ trong chi bộ đã có đánh gía thực tiễn về hiện tình của ông bà. Chi bộ đề quyết chỉ xét về mặt tình, không nói đến lý lẽ như sau:

– Thứ nhất, gia đình ông bà không còn lao động chính. Ủy ban quyết định miễn cho thằng Dụng không phải đi thi hành nghĩa vụ quân sự.

– Kế đến con trâu. Ông bà đã biết ở dưới chế độ ưu việt của ta, không một người nào có quyền có tài sản riêng. Do đó, ông bà phải làm đơn hiến cho nhà nước để làm tài sản chung. Riêng sào ruộng cấy lúa của ông bà, nó đã nằm sẵn trong cánh đồng hợp tác của nhà nước. Ông bà chỉ cần làm cái giấy xin gia nhập là được chấp thuận ngay. Ngưng lại một chút, Bảng phân bua:

– Đấy ông bà xem, quyết định của ủy ban rất rõ ràng và rất hợp tình hợp lý, ông bà chả nên nghi ngờ lòng tốt của nhà nước. Đã thế, ông bà không nên ỷ nại vào cái khoản tình cảm riêng tư của ủy ban, để kéo dài thời gian thi hành. Sự kéo dài này, dĩ nhiên không có lợi cho ông bà. Trái lại, đó là tai họa lớn. Bởi vì, ông bà có thể bị nghi ngờ là người đã liên hệ với thành phần xấu, đã có chủ đích chống lại chính sách của nhà nước. Một khi bị nghi ngờ, ông bà đã rõ, phép nước bất vị thân.

Lửa giận tự dưng bốc lên đầu, bà Lục không cần giữ ý tứ:

– Cứ như nhời ông chủ nhiệm vừa phát biểu, không biết những người thuộc diện gia đình liệt sỹ như chúng tôi sẽ được ăn cái giải gì?

Bảng há mổm thả khói:

– Ăn cái giải gì à? Tại sao bà phát biểu linh tinh như thế? Há bà không biết, khi phát biểu như thế là bà cố tình tạo cơ hội cho kẻ địch chống đối đường lối quang minh của nhà nước hay sao? Bà  nhớ rằng, việc phải tham gia các chính sách của nhà nước đẻ ra là một bổn phận. Còn sự kiện được nhà nước đền ơn đãi ngộ, chỉ là một đặc ân. Hai việc này không thể kéo cưa qua lại được.

Bà Lục vốn là người dân quê, thấy trắng bảo trắng, đen bảo đen. Bà không thích và cũng không muốn nghe kiểu lý luận vòng quanh. Bà lớn tiếng:

– Vậy tôi có nhời hỏi lại ông chủ nhiệm. Làm liệt sỹ như tôi được những đặc ân gì?

Bảng lại cười:

– Đến bây giờ bà vẫn không biết được nó là cái đặc ân gì à? Tôi nói cho bà nghe nhá. Bà được cái bảng tuyên công, được cái danh vị là gia đình liệt sỹ, và đặc biệt, được cả nước gọi bà là mẹ của cách mạng, là mẹ của chiến sỹ. Được bấy nhiêu thứ, bà còn muốn gì nữa?

Bà Lục nóng tiết, trả đũa:

– Xin lỗi ông chủ nhiệm. Nhà tôi không cần mấy cái danh vị hão huyền ấy. Vì nó không thể đem ra mà ăn thay cơm gạo được.

Bảng gạt phăng câu nói của bà:

– Sao bà lại dại dột phát biểu như thế? Bà có biết nói như thế là… là có lỗi với nhà nước, là làm đau lòng bác hay không? Bà nên nhớ, nếu nhà nước chưa đền ơn đãi ngộ sứng đáng cho những gia đình có công, không phải là do sự kiện ăn cháo đái bát của nhà nước, nhưng vì hoàn cảnh đất nước còn gặp nhiều khó khăn. Há bà không nghe, chính bác vô vàn kính yêu đã dạy:” Đất nước có đi vào con đường xã hội chủ nghĩa lẫy lừng như hôm nay là do công lao của những người đã hy sinh. Do đó, Bác có cởi áo của mình ra để đền ơn cho họ vẫn chưa sứng.

– Đấy bà xem, bác có hai cái áo, bác cũng muốn cởi ra một cái để đền ơn cho bà. Bác có một cái quần cũng muốn cởi ra để trả nghĩa cho những góa phụ trẻ và cô nhi chưa chồng. Nhưng vì hoàn cảnh, bác chưa làm được. Tuy nhiên, bác còn sống và nhời thật của bác còn đó. Ai dám nuốt nhời của bác? Lòng bác thì bao la như thế, bà đã không chịu hiểu, không chịu thông cảm cho bác, cho nhà nước, lại còn nói ra nói vào những lời làm tổn thương tình nghĩa thắm thiết giữa đảng và những gia đình có công. Bảng chắt lưỡi:

– Thật, nhắc lại câu bà vừa phát biểu chỉ thêm buồn. Buồn vì người ngoại cuộc không hiểu vấn đề, họ sẽ đánh gía sai nhầm là gia đình ta để mất quan điểm cách mạng, và làm rơi lập trường của giai cấp đấu tranh. Buồn vì ta xơ hở để chúng tưởng nhầm là nhà nước bóc chanh bỏ vỏ, hay chỉ nói chuyện ốc đi bằng mồm. Buồn vì nó trở thành cơ sở lý luận cho kẻ địch lợi dụng phá hoại nhà nước. Và buồn vì còn hàng trăm thứ lý do khác tôi không tiện nói ra. Nhưng thôi, Bảng khuyên nhủ bà Lục:

– Bỏ câu chuyện dĩ lỡ ấy đi ông bà ạ. Gia đình ta đã có công nhớn với cách mạng, ta không nên vì một con trâu, vì một nhời nói để trở thành những người đối địch với nhau. Có phải thế không ông?

Chẳng hiểu nghĩ gì, sau khi đã nghe lời khuyên nhủ của Bảng. Bà Lục thay vì lấy bút giấy ra viết lá đơn hiến dâng tài sản cho nhà nước, lại không rằng không nói, đứng dậy đi thẳng vào trong buồng. Lát sau, bà trở ra với một cuộn giấy cuốn tròn trong tay. Bà ném mạnh một cái, cuộn giấy lăn tròn trên bàn, ngay trước mặt chủ nhiệm Bảng. Bà chua chát:

– Báo cáo ông chủ nhiệm. Xét theo lời ông vừa dạy bảo, tôi tự biết không sứng đáng và không dám nhận cái ơn lớn ấy. Vậy, nhân tiện có mặt ông ở đây, tôi xin gởi trả lại ông cái mảng giấy tuyên công này phỏng có được hay không?

Bảng há hốc mồm ra nhìn, bà Lục tiếp:

– Tôi xin trả lại cho ông, vì xét cho cùng, tôi còn giữ nó ở trong nhà ngày nào là còn chuốc lấy tai họa và thêm bực mình ngày ấy. Phiền ông chủ nhiệm… khiêng nó ra ngoài hộ tôi một cái.

Bảng xám mặt, gã hết nhìn cuộn giấy lăn trước mặt lại nhìn bà Lục. Ông Lục thấy tình thế căng thẳng. Ông đưa tay ra cầm lấy cuộn giấy, vờ can ngăn bà:

– Thôi, bà hãy đem cất nó đi. Có nóng nảy nhời qua tiếng lại với ông chủ nhiệm, đã không giải quyết được gì lại thêm mất lòng nhau. Riêng chính sách của nhà nước đã đề ra, và ủy ban đã rộng xét như thế, bà nên nghe nhời ông chủ nhiệm, từ từ mà tuân thủ. Có phải như thế không ông chủ nhiệm?

Bảng nổ đom đóm mắt nhìn ông Lục khi nghe hai chữ từ từ ông vừa nói. Hai cái chữ này chính Bảng đã nghe ông nói hàng trăm lần, nhưng ông ta chỉ muốn đánh trống bỏ dùi thay vì nghiêm chỉnh thi hành. Càng nghĩ Bảng càng giận. Giận vì ông bà Lục đã không nghe lời khuyên nhủ chí tình của Bảng. Giận vì ông bà Lục ỷ mình có mảnh giấy lộn ở trong tay rồi tát nước vào mặt Bảng trước sự hiện diện của ông Đăng. Rồi thêm giận vì ông Đăng cả gan ngồi chứng kiến cuộc chiến tương tàn này. Sau khi tự làm cho mình nóng mặt, Bảng xô ghế đứng dậy:

– Được! Ông bà đã có ý kiến như thế thì tôi xin kiếu, và sáng mai mời ông lên ủy ban để nghiên cứu lại phương án.

Ông Lục nhìn theo gót chân Bảng, đáp gọn:

– Phải!

Ra khỏi nhà ông Lục, Bảng đứng lại nhìn trời nhìn đất nhưng chưa biết phải đi đâu trong lúc lửa giận vẫn bốc lên ngùn ngụt. Lát sau, Bảng phanh ngực áo ra hóng gío, gã nhớ đến hình bóng đẫy đà của Lựu. Gã mỉm cười, quyết trở lại nơi mấy hôm trước gã đã thua cuộc trước mặt bí thư Thọ.

Trong khi đó tại nhà ông Lục, không khí ảm đạm không theo gót chân Bảng ra ngoài. Trái lại, nó tiếp tục đè mối ưu tư lên những mái đầu bạc. Ông bà Lục, ông Đăng chậm rãi nhìn nhau. Một lúc sau, ông Lục chép miệng nhắc lại câu than:

– Thật cây muốn lặng, gío chẳng ngừng!

Ông Đăng thận trọng bày tỏ ý kiến của ông sau khói thuốc:

– Tôi nói câu này, có lẽ là không phải…

Ông Đăng ngập ngừng, bà Lục chép miệng:

– Thật ra thì chuyện này cũng khó sử lắm ông ạ.

– Tôi cũng biết thế, nhưng khéo gìa néo qúa ông bà ạ.

Ông Lục nói toạc ra những uẩn ức của ông:

– Chẳng dấu gì ông, cái khoản ấy tôi biết rõ lắm. Nhưng tôi phải níu cứng như thế may ra mới giữ được thằng út ở nhà. Nếu không thì mất cả người lẫn của.

– Thật thế à?

– Phải!

Từ trước, ông Đăng đã biết ông Lục có những nỗi buồn thuộc diện khó giải. Tuy nhiên, ông Đăng lại chủ quan cho rằng: Không phải một mình ông Lục có con chết mất xác vì việt cộng, và cũng không phải chỉ có một mình ông bị dân làng hiểu nhầm, xa lánh. Trái lại, diện như ông ở Xuân Thủy không ít. Đến lúc này, sau khi chứng kiến cuộc tương tàn giữa nhà nước và người có công, ông Đăng mới sáng mắt, và biết ông nghĩ như thế là nhầm lớn. Nhầm vì sự kiện ông Lục bị nhà nước lừa đau hơn là nỗi buồn mất con.

Phần ông Lục, khi nhìn sang ông Đăng, ông thấy ái ngại. Ngại vì đã nông nổi, nghe lời xúi của vợ để mời ông bà Đăng sang ăn giỗ. Ngại vì đã thiếu suy nghĩ để lôi thêm một gia đình vào trong cái phiền não sẵn có của ông. Rồi ngại vì bản tin đồn, cho ông là người của Bảng đã cố ý gài ông Đăng vào tròng. Do đó, ông khổ sở dằn tất cả những u uẩn vào trong cái xe điếu. Khói thuốc làm ông ho lụ khụ:

– Thật, tôi có lỗi với ông bà và cháu gái bên ấy. Chính ra tôi không nên vội vàng để gây ra nhỡ nhàng cho ông bà và cháu.

Ông Đăng hiểu ý, trả lời:

– Ông chả nên nghĩ thế. Con cái tới tuổi trưởng thành thì mình lo cho chúng, nên hay khõng là do duyên trời. Còn chuyện của xã hội, biết đâu mà lường.

Bà Lục lấy lại tự chủ:

– Ông nói nhời nói phải. Đời người là dài, cách mạng của chúng nó thì được mấy nỗi. Nếu được ông bà thương đến cháu, tôi chả tiếc gì sào ruộng và con trâu.

Ông Đăng tiếp lời:

– Nói cho ngay thì hạnh phúc không nằm trong con trâu và miếng vườn bà ạ. Như tôi với ông bà, khi ra lập nghiệp làm gì có ruộng có vườn, nhưng cũng có ngày hôm nay.

Ông bà Lục tươi nét mặt:

– Phải…

Khi rời nhà, ông Đăng có ý định sang thăm ông bà Lục rồi tùy theo thời cơ thuận lợi, ông sẽ xa xôi nhắn gởi con lại cho ông bà Lục. Đến lúc này, ông Đăng tự biết bản thân ông bà Lục chưa chắc tránh được khó khăn, nói chi đến việc ra tay nghĩa hiệp cứu người. Ông đành yên lặng, lát sau đứng dậy cáo từ. Ra đến đầu ngõ, ông Đăng buột miệng:

– Trời có vẻ thanh bình lắm, chỉ tiếc là…

Ông Đăng kịp giữ lại đoạn cuối: Chỉ tiếc là… tôi không còn dịp ngồi bên ông uống cốc nước để hàn huyên. Trong khi đó, ông Lục lại tưởng ông Đăng tiếc cảnh xưa nên bảo:

– Ông nói phải lắm.

Nói xong, ông Lục quay vào và ông Đăng lững thững bước đi. Chưa đi được mấy bước, ông Đăng bỗng giật mình ớn lạnh. Cái lạnh thấm hơn cả những đêm đông. Theo phản ứng, ông ngoái cổ nhìn lại phía sau. Không một bóng người theo bước chân ông. Ông ngửa mặt nhìn trời cao. Phía trên đầu ông vẫn nghìn sao lấp lánh, và ánh trăng non buông rủ êm đềm xuống trên ngôi làng nhỏ bé. Ông không tìm thấy một dấu vết của qủy thần xuất hiện, nhưng mỗi lúc lòng ông thêm biến động.

Ông nhanh chân hơn khi thấy từng đợt gai ốc thay phiên nhau nổi lên khắp trên người. Ông thêm bối rối, không kiểm soát được những bước chân. Ông đổ mồ hôi hột giữa trời đêm trên con đường làng. Một con đường, vốn dĩ là người bạn thân quen với ông từ mấy chục năm qua. Về gần đến nhà, mắt ông lại chạm vào ánh sao băng vừa đổi ngôi. Dù không phải là người hay tin kiêng nhảm nhí, cũng không phải là người mê tín dị đoan, ông Đăng vẫn run bắn đầu gối lên vì ý tưởng rờn rợn vừa vụt thoáng qua trong trí óc.

Lúc bước vào trong nhà, ông Đăng nom thấy vợ còn ngồi co ro đợi chờ bên ngọn đèn dầu leo lét. Ông mừng rỡ, bước đến, ngồi xuống một đầu cái chõng đối diện với bà. Bà nhìn ông trong thinh lặng. Cùng lúc ấy, Hồi đi sinh hoạt về. Nàng bước đến bên bà Đăng, trịnh trọng thông báo cho ông bà Đăng một bản tin nóng hổi:

– Thày U ạ, buổi sinh hoạt tối nay lạ lắm. Nhà nước tự nhiên cho học tập bài đả kích kịch liệt những thành phần xấu đã tiếp tay cho bọn gián điệp trong nam chống phá cách mạng, phá hoại sự an nguy của tổ quốc. Bài học tập gay gắt lắm. Hơn thế, nhà nước còn khẳng định chính những thành phần có liên hệ với miền nam đã tích cực phá hoại chính sách cải cách ruộng đất của nhà nước.

Ông Đăng biến sắc hỏi lại:

– Có học tập như thế à?

– Thưa vâng!

Bà Đăng vội hỏi chồng:

– Lạ nhỉ ông nhỉ? Lâu nay nhà nước đã ra nghị quyết cấm không cho khơi lại vết thương chia đôi đất nước. Cấm không cho ai đả kích hay nhắc đến những thành phần có con cháu lỡ dại vào nam. Bởi vì, vết thương ấy sẽ gây ra mất tình đoàn kết và tạo ra sự chia rẽ không cần thiết trong hàng ngũ quần chúng nhân dân. Thế tại sao, hôm nay họ lại tổ chức học tập đả kích?

Ông Đăng nhìn vợ, nhìn con, chống tay đứng dậy:

– Bà có nghe chuyện khỉ đội mũ và con vẹt biết nói chưa?

 

 

 

Chương mười   ******************************************

*****************************************************

 

Chờ ngọn lửa tàn, bà Đăng bác nồi cơm đặt xuống trên lớp than tro, sau đó, một tay chống đỡ cái đầu gối, một tay với lấy rổ rau đã nhặt sẵn, đi ra phía cái chum đựng nước. Trong lúc rửa rau, bà Đăng bỗng giật mình, ngửa mặt nhìn lên. Trời chiều đã bảng lảng về tây. Ánh nắng vàng úa, nhạt nhòa. Nhạt nhòa theo tầm mắt của bà. Nó chiếu dọi xuống trên sân những hình ảnh lỗ chỗ trắng đen theo kẽ lá của hàng cây. Đến lúc nhìn lên, những ráng mây in lên đường chân trời có  sắc rực hồng. Có chỗ thì loang đỏ theo làn mây gợn sóng nằm ngang, có chỗ lại mang màu thẫm đặc như màu máu. Nhìn ráng mây thẫm đỏ, bà Đăng buột miệng:

“Mỡ gà thì gío, máu chó thời mưa”!

Nói xong bà quay lại, đôi mắt bâng khuâng nhìn ra đầu ngõ. Tim gan bà bỗng quặn thắt. Bà không hiểu nổi vì lý do gì, ông Đăng đi từ buổi sáng, gìơ này vẫn chưa về.

Ngay khi đó, thấy có bóng người thấp thoáng đi vào trong con ngõ nhỏ. Bà Đăng vội để rổ rau xuống thau nước và đi trở ra trước sân. Bà chưa kịp ngạc nhiên vì sự xuất hiện khá trễ của bà phó Ba, đã thấy bà phó Ba mắt nháy nhó, tay đưa ra phía trước như làm dấu ngăn cản bà Đăng đừng đi ra ngoài. Bà Đăng thấy vậy, bước thêm vài bước rồi dừng lại. Bà phó Ba đi lướt qua với giọng đầy âu lo, mất chủ động:

– Đi vào trong này bà ạ! Tôi có câu chuyện khẩn trương lắm.

Bà phó miệng nói, chân không dừng bước. Hơn thế, mắt bà còn đảo trước ngó sau, làm như có người đang đuổi theo bén gót để bắt, hay nghe lóm bản tin quan trọng của bà sắp nói. Thấy sự kiện bất thường, bà Đăng quay gót trở vào theo bà phó Ba. Vừa vào đến gần cửa nhà bếp, bà phó Ba nắm chặt lấy cánh tay bà Đăng, giọng nghiêm trọng:

– Ông có nhà không bà?

Câu hỏi thăm rất bình thường của bà phó Ba bỗng làm bà Đăng giật thót người. Bà nhìn trả lại bà phó Ba, tự nghĩ: Chẳng lẽ chuyện ông Đăng lên công an bà phó Ba đã biết tin, hơn thế, còn biết rõ là ông chưa về. Bà Đăng vội trả lời khỏa lấp:

– Thày cháu và con cháu đi… lao động chưa về bà ạ. Bà phó đến chơi hay có việc gì không?

Giọng bà phó to nhỏ, chứa đầy bí ẩn:

– Nào có công chuyện gì đâu. Tôi vừa ở nhà cái Nụ ra, nghe nó cho biết vài nguồn tin khá bất lợi cho người mình, nên tiện đường tôi tạt ngang vào đây báo cho ông bà hay.

Bà Đăng đảo đôi mắt ra đường:

– Chuyện gì vậy hả bà phó?

Bà phó Ba đứng sát vào người bà Đăng:

– Nghe nói là nhà nước họ sắp sửa đánh lớn. Chủ yếu nhắm vào những thành phần như… như tôi với bà.

Nếu ở trong trường hợp khác, chắc bà Đăng đã cười vì câu nói như tôi với bà của bà phó. Bà cười vì biết bà phó Ba muốn cho câu chuyện nghiêm trọng nên cố tình thêm vào cái đoạn cuối ấy. Nhưng lúc này, bà Đăng không còn lòng trí nào để cười, để phân tích câu thêm mắm muối ấy có nghĩa gì, và cũng không có thì gìơ để trách cứ bà phó hay thêm nỗi lo cho người. Đã thế, chỉ nhìn cung cách to nhỏ và điệu bộ của bà phó Ba là bà Đăng bụng đánh lô tô:

– Ai bảo thế hả bà phó?

– Thì cái thằng Bảng nó bảo với vợ nó, rồi cái Nụ nó kể cho tôi nghe. Nghe xong là tôi chết lịm cả người bà ạ!

Chuyện kể chưa xong, bà phó chép miệng, đưa mắt nhìn xa vắng:

– Không biết người… mình có sống được với chúng nó nữa hay không?

Bà Đăng hoàn toàn mất bình tĩnh:

– Thật như thế hả bà phó?

– Thật hay gỉa thì chưa biết, tôi chỉ nghe nó nói thế. Nhưng người mình là trên đe dưới thớt rồi, chúng muốn chặt chém lúc nào tùy ý. Hơn nữa, mấy hôm rồi tôi không gặp ông bà, lại xốt ruột khi nghe nhiều nguồn tin đồn thổi rất bất lợi cho ông nhà, nên khi nghe được câu chuyện là tôi đến báo tin cho ông bà ngay. Bà nhớ dặn ông cẩn thận khi giao tiếp với… bên ấy nhá. Lỡ ra chúng gài người lừa mình thì hối không kịp.

Bà Đăng biết bà phó Ba muốn ám chỉ ai, nhưng lại nói tránh:

– Cám ơn bà phó có lời dặn dò. Nhưng ông nhà tôi lâu nay chẳng giao tiếp với ai.

Chừng như không hài lòng về câu chuyện né tránh của người cùng phe. Bà phó Ba quay đầu nhìn ra ngõ, hỏi thẳng:

– Mà câu chuyện bữa giỗ bên ông Lục ra sao hả bà? Tôi nghe nhiều người bàn tán xôn sao lắm. Có thật như những tin đồn hay không?

Bà Đăng do dự một chút, sau đó, vắn tắt kể lại câu chuyện cho bà phó Ba nghe, thay vì dấu kín. Đoạn cuối, bà đưa ra kết luận:

– Sự thật chỉ có thế, ngoài ra không có một chuyện gì khác. Tuy nhiên, khi nghe lời qua tiếng lại, bàn ra tán vào, ông nhà tôi buồn lắm.

Nghe thế, bà phó Ba bảo:

– Buồn là phải! Nhưng bà có nghĩ đây là cái bẫy họ gài không?

– Chả có lý nào bà ạ. Trước hết, ông bà ta và chúng tôi là chỗ bạn bè giao tiếp với nhau lâu năm. Kế đến, việc ông bà ta có ý muốn xây dựng cho các cháu là điều thật lòng.

– Tôi cũng nghĩ thế. Nhưng thời buổi này có nhiều khó khăn lắm. Ngay người trong nhà cũng sẵn sàng hại nhau, nói chi đến người ngoài. Bà cứ nom gương anh tôi đấy, có thằng con rể đi làm cán bộ, người ngoài những tưởng là một phút bước lên vinh hoa. Ai ngờ lại mất đầu vì cái thằng đảng viên vô phúc ấy.

Bà Đăng vốn đã lo lắng từ chiều, lúc này nghe lại bài học cũ của bà phó, bà càng rối loạn. Khi nói chuyện với bà phó mà lòng bà nóng như lửa đốt, riêng đôi mắt không lúc nào ngưng việc dòm chừng ra ngoài ngõ. Cử chí lúng túng, bất an của bà Đăng không qua khỏi ánh mắt kinh nghiệm của bà phó Ba. Tuy nhiên, bà phó Ba không lên tiếng hỏi cái nguyên do.

Đứng chuyện vãn thêm vài câu nữa, bà phó Ba ngước nhìn lên. Trời chiều với vệt nắng vàng đã bỏ đi và thay vào đó là màu xẩm tối. Dù rất muốn, bà phó Ba vẫn phải bỏ ý định chờ ông Đăng về, hỏi thăm vài câu chuyện với mục đích, tìm hiểu xem ông Đăng có phải là người của bên kia gài lại như tin đồn hay không? Hay đó chỉ là cái cớ gỉa tạo của nhà nước tung ra?

Chả ai nỡ trách bà phó Ba thuộc diện… gái góa lại khéo lo chuyện triều đình. Họ không trách vì bà có những lý do của bà:

– Thứ nhất, bản tin ấy có liên quan mật thiết đến tương lai, hạnh phúc của bà hơn là mục đích thỏa mãn tính tò mò riêng tư.

– Thứ hai, nếu đây là một sự thật. Có lẽ bà sẽ âm thấm xin làm một công tác nào đó.

– Thứ ba, quan trọng hơn. Bà sẽ chờ đợi sẵn, sẽ mở to đôi mắt ra để nhìn Hồ chí Minh ngã đổ xuống dưới… chân bà. Nếu giây phút ấy đến, chắc đời bà phó Ba không có một niềm vui nào to nhớn hơn.

Tự nghĩ thế, bà phó mỉm cười đi dần ra ngoài ngõ. Đột nhiên không hiểu nghĩ gì, bà phó Ba dừng lại chép miệng:

– Thật, chả ai như ông bà. Con cháu nó khôn ngoan xinh đẹp như thế lo gì ế ẩm, hoặc lo gì không có người mình mà ông bà lại tính làm thông gia với bên ấy để rước họa về sau?

Bà Đăng im lặng, bà phó Ba níu lấy cánh tay bà Đăng làm như một nhà cố vấn chuyên nghiệp:

– Nếu từ chối được thì nên khuyên cháu đừng ôm rơm cho nó rặm bụng. Phần ông bà cũng không nên liên hệ với người ta nhiều. Họ là gia đình liệt sỹ của phía bên đây, trong khi đó mình là người của bên… kia! Như thế, đôi bên đã có sẵn hàng rào cách biệt. Có tốt mấy cũng khó xích lại gần nhau bà ạ.

Thấy bà Đăng lơ đễnh không buồn trả lời, bà phó Ba mất hứng bước đi:

– Thôi chào bà, tôi về nhá. Cho tôi gởi lời thăm ông. Hôm nào rảnh tôi ghé lại thăm ông bà sau.

Bà Đăng trả lời theo một phản ứng tự nhiên:

– Vâng, xin chào bà phó, bà lại nhà.

Đi được vài bước, bà phó Ba lại ngoái cổ lại dăn:

– Nhớ bảo ông cẩn thận bà nhá.

Khi bà phó đi rồi, bóng bà Đăng như đơn côi đứng bên con đường cũ. Bà dõi mắt nhìn hết bên tả sang bên hữu, bóng ông vẫn biệt tăm. Bà buồn rầu trở gót. Ngay lúc ấy, Hồi đi lao động về tới, bà Đăng mừng rỡ:

– Con có gặp thày con không?

Hồi chưa kịp trả lời, bà Đăng tiếp:

– Con không gặp thày con à?

Hồi trố mắt nhìn bà trong lúc bà Đăng tự biết mình luẩn quản:

– Không, con không thấy.

Nói xong, Hồi dợm chân bước đi. Bà Đăng theo vào, miệng lẩm bẩm nói một mình:

– Chả có nhẽ nào. Hay là ở bên ông Lục?

Hồi đứng lại bảo bà:

– Chắc không phải U ạ. Con vừa gặp ông ta dắt trâu ở ngoài đồng về.

– Thế thì đi đâu?

Hồi nghe rõ câu hỏi của bà. Tuy nhiên, Hồi cho đó là nỗi thắc mắc thường tình nên thay vì đặt câu hỏi, nàng vào trong nhà lấy quần áo đi ra phía cầu ao. Trong lúc đó bà Đăng thơ thẩn một mình,  tự trách:

– Rõ thật, trông gà hóa cuốc. Mặt trời vừa lặn đã tưởng khuya!.

Tự nghĩ thế, bà Đăng trở lại bên chum nước tiếp tục công việc dở dang. Rửa xong rổ rau, một tay bà cầm cái xoong đựng gáo nước, một tay bưng rổ rau đi vào bếp với ý định nhúm lửa luộc nồi rau trong lúc chờ ông về. Khi vào đến trong bếp, bà chưng hửng vì thấy trên tay bà là cái gáo múc nước thay vì cái xoong. Bà lấy làm lạ. Sau đó, bà để rổ rau trên gía bếp, rồi trở lại bên chum nước. Bà thất vọng ra mặt khi trên tay bà lại có rổ rau thay vì cái gáo múc nước. Bà với tay, lấy cái tô trong rổ chén bát gần đó múc nước thay cái gáo. Vừa luộc xong nồi rau, Hồi đã gọn ghẽ trong bộ quần áo khác đến ngồi bên cạnh bà. Sau vài câu trao đổi, bà Đăng xốt ruột đứng lên đi ra cửa bếp. Phía bên ngoài, trời đã bắt đầu tối:

– Lạ thật, thày con có khi nào về trễ như thế bao gìơ.

Hồi nhặt cọng rau muống luộc cho vào miệng:

– Khi đi, thày con không nói gì với U à?

– Có, khi đi thì có nói, nhưng đi từ hồi sáng.

Hồi tròn đôi mắt nhìn bà, cọng rau nằm vắt ngang giữa hai hàm răng:

– Thày con đi đâu mà đi từ hồi sáng hả U?

Đến lúc này, bà Đăng thấy không cần thiết phải dấu Hồi. Bà bảo:

– Thì lên công an.

Hồi vội nhả cọng rau ra khỏi miệng:

– Thày con lên công an à? Có chuyện gì thế U?

Bà Đăng nhìn Hồi:

– Chả biết nó mời lên làm gì. Chỉ thấy cho người đến kêu đi.

Hồi kinh ngạc nhìn bà Đăng:

– Họ đến thông báo khi nào hả U?

– Đã vài hôm nay rồi, nhưng thày con bảo không có gì quan trọng, nên không cho con biết.

Hồi không hỏi thêm, nàng đi thẳng ra ngoài sân. Trời đã tối hẳn, bà Đăng thắp vội cây đèn dầu đặt lên gía rồi đi ra cửa. Hai mẹ con Hồi, chẳng ai bảo ai, đều bước ra phía đầu ngõ. Đứng đến mỏi nhừ đôi chân mà bóng ông vẫn biệt tăm. Cuối cùng bà Đăng bảo Hồi:

– Con ở nhà trông chừng để U chạy ra ngoài xóm xem có tin tức gì không? Nếu thày con về, con lo dọn cơm cho thày con ăn trước đi.

– Dạ…

Tiếng Hồi lý nhí không ra khỏi cổ trong lúc bóng bà Đăng chập chờn, khuất dần trong trời mờ tối. Hồi dõi mắt nhìn theo và bắt đầu nhớ lại những lời gay gắt trong buổi sinh hoạt đêm hôm trước. Hồi tự hỏi:

– Liệu những lời cáo giác ấy có liên hệ đến việc ông Đăng bị mời lên công an hay không?

Hồi không tìm ra lời giải đáp. Lát sau Hồi trở vào, nàng dọn sẵn mâm cơm đặt trên bàn rồi ra đứng tựa bên khung cửa dõi đôi mắt vào trong trời tối ngóng trông. Lúc ấy, tự nhiên Hồi nhớ lại câu chuyện chiều hôm trước, lúc Hồi đang lúi húi gánh nước tưới vài liếp rau sau nhà. Ông Đăng tay cầm cái bình tưới nước đến bên nàng hỏi:

– Con đã đánh thư vào trong nam cho anh con chưa?

– Thưa đã!

– Con viết về cái địa chỉ nào?

– Cả ba địa chỉ thày ạ. Một cái qua bên bác Tiến ở Hố Nai, một cái gởi theo địa chỉ trong quân đội cho anh ấy. Còn một cái nữa con gởi qua hội chữ thập đỏ nhờ nhắn tin.

Ông Đăng nhìn Hồi vẻ hài lòng:

– Như thế hy vọng sẽ đến tay anh con. Nhưng con có viết những điều thày dặn không?

Hồi ngừng tay, đáp:

– Chả viết chuyện ấy được thày ạ. Mục đích con chỉ viết hỏi thăm sức khoẻ và báo tin gia đình bằng an thôi.

Ông Đăng gật gù mái đầu vẻ thông cảm với sự khôn ngoan của Hồi, ông bảo:

– Vậy cũng được!

Nói xong, ông cúi xuống nhổ tỉa vài cây rau cải xanh:

– Mong anh em nó bằng an khỏe mạnh và biết tin nhà trước khi thày đi.

Hồi ngạc nhiên nhìn ông:

– Thày bảo đi đâu?

Biết mình nói hớ, ông vội mỉm cười chữa lại câu nói:

– Có mấy ai mà sống được ngoài trăm tuổi!

Hồi kém vui:

– Thày chả nên nói thế! Tuy lúc này sức khỏe của thày kém hơn trước một chút, nhưng so với người ngoài thì còn hơn nhiều. Thày chả nên lo về việc không gặp lại anh con.

Ông Đăng mủi lòng:

– Năm, sáu mươi không phải là cái tuổi qúa lớn. Hơn thế, mệnh sinh mệnh tử là do trời, không do con người. Tuy nhiên…

Ông chưa dứt tiếng, Hồi đã tiếp:

– Con không nhất trí với cái ý kiến ấy. Lý do, nói như thế là thày tin rằng trời đất đã ban cho ông Hồ cái quyền làm cho cuộc sống của nhân dân dài ra hoặc ngắn lại à? Vì trên thực tế nhiều người chính ra được hưởng lộc lâu hơn, nhưng ông ấy đã cho đấu tố chết người ta.

Ông Đăng giật bắn người khi nghe Hồi đặt vấn đề. Ông bảo:

– Cái điều thất đức ấy có trời đất nào ban cho nó. Chúng đã lợi dụng bè đảng, quyền hành để gây ra tội ác, ắt có ngày phải đền trả.

– Ai cũng mong chờ cái ngày nó ngã lăn ra mà thác. Nhưng nếu nó chết cũng không giải quyết được gì. Vây cánh và bè đảng của nó vẫn tiếp tục con đường ấy thì dân mình cũng không hết khổ. Do đó, nếu dân mình muốn hết khổ chắc phải tìm con đường khác. Con nghĩ, một là đánh trả, hai là chạy trốn.

Ông Đăng nhìn Hồi chăm chú, Hồi tiếp:

– Từ suy nghĩ ấy, con biết con đường thứ nhất mình chưa đủ lông đủ cánh. Riêng phương cách thứ hai dễ thực hiện hơn, do đó, đôi khi con có ý tiếc là lúc trước thày U không đi với anh cả.

Ông Đăng đứng chống tay lên mạn sườn nhìn vài ngọn mây trắng bay lững lờ trên không. Mắt ông như chợt sáng lên:

– Chúng không thể tồn tại lâu được.

– Con chưa hiểu ý của thày.

Ông Đăng đứng gần lại bên Hồi giảng giải:

– Thuận thiên giả tồn, nghịch nhân gỉa vong! Cái lý thuyết ấy thời nào cũng đúng. Kế đến, chúng còn bị ràng buộc vào một cái hiệp định của quốc tế. Chúng không thể một sớm một chiều mà… nuốt được.

– Đó là lý do thày quyết định ở lại à?

Ông Đăng gật đầu:

– Phải! Đó là lý do thày quyết định ở lại, và nó có thể trở thành một quyết định sai lầm! Tuy nhiên theo anh con nói, và theo nhời bản văn hiệp định quy định thì việc chia đôi đất nước không kéo dài! Trễ lắm là đến cuối năm… 57-58 gì đó là cả hai miền nam bắc sẽ được bầu cử tự do và thống nhất đất nước. Con nghĩ thử xem, nếu có bầu cử tự do thật, có ai dại dột mà bỏ thăm cho chúng. Từ căn bản ấy, thày nghĩ, có ra đi cũng chỉ năm bảy năm là trở về. Lúc về, biết đâu nhà cửa sản nghiệp đã tiêu tan. Chi bằng ở lại giữ lấy cơ nghiệp của cha ông.

Hồi nhìn ông hỏi lại:

– Anh cả con có nói thế trước khi đi à?

– Có nói thế và thày cũng tin là đúng. Kế đến, nhìn sinh hoạt của chúng, thày biết ngày bầu cử đã gần và chắc trong nam chắc đã gởi người ra hoạt động để sửa soạn bầu cử thống nhất.

Chắc không ai nỡ trách ông Đăng đã dại dột nghe lời con, và tin vào cái bản văn bá vơ gọi là hiệp định quốc tế kia để giải thích cho Hồi bằng những lời chắc như đinh đóng cột. Lý do, ông chỉ là một người nhà nông với những đặc tính chân thật cố hữu. Trong khi đó, Hồ và Vẹm hoàn toàn khác và trái ngược với ông. Chính Hồi cũng đã bảo ông:

– Thày nói thì con để bụng. Nhưng con chả tin chúng dại dột cho tổ chức bầu cử tự do.

Nhìn con, thay vì trách Hồi còn nhỏ đã lắm đa nghi về lòng… tốt của Hồ, ông Đăng định nói và cắt nghĩa thêm cho Hồi nghe một vài điều ước quan trọng trong bản hiệp định để nàng yên tâm chờ đợi. Nhưng có tiếng bà Đăng gọi ông từ trong bếp làm cắt ngang câu chuyện. Lúc này, Hồi không cho câu chuyện chiều hôm trước là đơn giản. Hơn thế, nàng lo ngại khi nhớ đến chữ đi của ông, nàng tự hỏi:

– Phải chăng ông đã sửa soạn sẵn cho chuyến đi bất tường này?

Hỏi, rồi Hồi tự trách mình đã vô tình trước những lo lắng phiền muộn của ông lúc gần đây. Nàng đứng dậy, bước ra cửa nhìn trời chiều đã đổi ra màu đen đậm. Nàng đi ra ngõ, rồi lại trở vào ngồi tựa bên khung cửa đợi chờ. Ngọn đèn dầu leo lét trên gía không đủ soi sáng khuôn mặt tái nhợt của nàng. Nó chỉ đủ sáng để in lên vách một bóng đen với đôi tay, đôi chân run không đều nhịp.

 

Trong khi ấy, sau khi vội vã ra khỏi nhà, bà Đăng nhanh gót nhắm hướng nhà ông Lục. Bà đến nhà ông Lục không phải là không tin lời Hồi, nhưng vì cho rằng ngoài ông Lục ra, ông Đăng có thể bàn tính câu chuyện với bà Lục. Rồi biết đâu giữa lúc ông đứng lên cáo từ thì ông Lục về đến, nên bó buộc ông phải nán lại cho hết câu chuyện dở.

Khi đến nơi, mồ hôi ướt đẫm lưng áo và nét thất vọng hiện rõ lên mặt. Phía ông Lục thêm ngạc nhiên, thắc mắc. Bà Đăng lại lật đật chào ông bà Lục rồi bước trên đôi chân mỏi. Bà cuống cuồng ngược xuôi trên đường, chưa biết phải đi đâu. Cuối cùng, bà quyết định lên trụ sở của ủy ban để tìm hiểu sự việc. Kết qủa, văn phòng ủy ban đã đóng cửa gài then trước khi mặt trời lặn, nó vắng lặng không một bóng người. Bà thất thểu bước đi. Bất ngờ trên đường về, dưới ánh trăng non, bà nom thấy bóng Bảng đi như chạy. Bà vội lên tiếng:

– Bẩm ông chủ nhiệm!

Bảng giật bắn người:

– Ai đấy?

– Bẩm ông, tôi là bà Đăng mẹ cháu Hồi đây ạ.

– Bà đi đâu về tối thế?

– Chả dám dấu ông chủ nhiệm. Thày cháu lên trình diện ủy ban từ sáng, nhưng gìơ này vẫn chưa thấy về nên tôi lo lắng…

Không cần chờ bà Đăng trình bày hết câu chuyện, Bảng đứng chống tay lên ngang hông, ưỡn ngực ra phía trước:

– Té ra ủy ban chưa cho người đến thông báo cho gia đình bà biết tin à?

– Thông báo cái tin gì hả ông chủ nhiệm?

Bảng ngửa mặt nhìn trời đêm, mỉm cười:

– Thôi bà chả phải lo lắng cho ông ấy nữa. Nếu ủy ban chưa thông báo cho gia đình bà, tôi theo gương bác làm phúc cho bà biết trước nhá: Ông ấy là tổ trưởng tổ chỉ huy tiền phương của thằng địch, nên đã được gởi đi cải tạo rồi. Bà nên về và tự lo lấy thân thì hơn.

Nghe chưa xong bản tin, bà Đăng thấy trời đất quay cuồng. Đêm đã tối, càng tối thêm! Cùng lúc ấy, chủ nhiệm Bảng hai tay chắp sau lưng, lững thững bước đi ngang qua trước mặt bà. Gã nở nụ cười mãn nguyện vì vừa làm được một điều đại phúc.

Thật ra, không nên cười phương cách làm phúc của cán bộ Bảng. Ở ngoài bắc, những trường hợp bị đưa đi cải tạo như ông Đăng không phải là ít. Có kẻ sáu bảy tháng, có người cả vài năm sau mới được thông báo. Riêng việc được tập trung ở đâu, lại là một bí mật không thể tiết lộ. Cũng vì chính sách cấm báo tin này. Có người tù sau khi đi cải tạo năm bảy năm, lúc về đến nhà thay vì mừng rỡ vì còn có ngày gặp mặt vợ con, lại lớn tiếng trách cứ vợ con tệ bạc không chịu đi thăm nuôi, hoặc không có đôi lời hỏi thăm thư từ. Trách chán, người tù mới vỡ lẽ ra, tờ giấy xin thăm nuôi chồng, cha của vợ con đã làm mấy năm rồi, nhưng chưa có chữ thuận của nhà nước. Họ biết chồng, con ở nơi đâu mà thăm với nuôi.

Lại có người nhận được giấy chấp thuận cho đi thăm nuôi của nhà nước sau khi, hoặc cùng lúc với bản tin đến chậm hồi báo về việc người đi cải tạo đã được giải phóng để về bên kia thế giới cách đây vài ba năm trước. Thế là… huề cả làng. Người nhà có đau buồn thì khóc òa vài tiếng là cạn nước mắt. Rồi nhờ ơn nhà nước, họ bớt được một nhiệm vụ khá quan trọng. Không cần phải lo đồ cúng lễ cho người qúa cố. Phần ông nhà nước thì an tâm mà sống, hưởng lộc.

Cũng có người vợ trẻ, sau khi theo đuổi giấy tờ đi thăm chồng trong vài ba năm. Kết qủa, giấy chưa được thuận, may có người cán bộ về tận nhà báo tin là chồng của chị đã về nước… thiên đàng. Nghe xong bản tin, chị vợ vật mình trên đất khóc than. Chị khóc chưa hết nước mắt đã ôm cầm, gá nghĩa với anh cán tốt bụng hôm nào. Nhưng thật không may cho chị và anh cán đến báo tin. Giữa lúc tình đang lên men cháy giường thì anh chồng cũ lù lù mở cửa bước vào. Hai vợ chồng cũ nhìn nhau tưởng là trong giấc chiêm bao. Riêng anh cán, bạn thân của Hồ chí Minh thì nhanh mồm hiến kế:

– Anh chị không nên buồn vì việc nhà nước báo tin… nhầm. Bởi lẽ, nếu anh còn muốn chị ấy thì tôi xin… gỉa.

Nói xong bấy nhiều lời, tay đồng chí, bạn nối khố của bác Hồ vội vã gom góp đôi dép râu, cái mũ cối và bộ quần áo ra khỏi nhà để mặc cho mụ vợ và tay chồng cũ đứng chết giữa giời. Phần gã, gã đã có chủ trương. Gã phải tuyệt đối noi gương bác trong bài tẩu vi thượng sách. Bởi vì: Trước hết, gã phải… gỉa vợ lại cho nạn nhân để được tiếng là người biết chăm lo đến đời sống và hạnh phúc của nhân dân. Kế đến, gã không nên tiếc xót, níu kéo thêm vài giờ nữa để có thể bị ăn dao. Do đó, trong trường hợp của bà Đăng, ông Đăng mới bị đưa đi hồi sáng và ngay chiều cùng ngày đã được chủ nhiệm thương tình báo tin thì phải được kể là một cái phúc nhớn.

Vì cái phúc nhớn ấy, bà Đăng bỗng có hình hài đầu bù tóc rối giống như một mụ điên. Khi đi, đôi chân chập choạng bước thấp bước cao, lúc xiêu té vào hàng rào, lúc sụp xuống bên đường. Lại có lúc bà ta la hét rồi ù té chạy như bóng ma chập chờn trong đêm. Đến khi về đến nhà, vừa nom thấy Hồi, bà nằm ngã xõng xoài xuống trên ngưỡng cửa. Miệng kêu ú ớ:

– Ối giời đất ơi! Ới con ơi!

Thấy bà té xuống đất, nàng vội chạy đến:

– Chuyện gì thế U? U trúng gío à? Con đưa U vào trong nhà và tìm người đánh gió cho U nhá?

Mắt bà trắng dã, hơi thở kèm theo bọt mép:

– Không… không có gío máy gì hết! Tại thày con… thày con…

– Thày con… thày con làm sao. Đánh U à?

– Thày con bị… bị bắt đi cải tạo rồi.

Hồi bật ngửa người ra phía sau:

– U bảo gì? Thày con bị bắt đi cải tạo à?

Bà Đăng gật đầu:

– Phải… phải.

– Ai bảo U thế?

– Bảng, cái thằng… Bảng!

Hồi đỡ bà Đăng dậy, rồi dìu bà đến bên cái chõng. Vừa đến nơi, bà Đăng vật mình nằm giang tay giang chân trên chõng như người chết rồi. Thấy vậy, Hồi xanh mặt. Nàng lay và réo gọi, bà Đăng vẫn nằm yên nhắm mắt. Giọt nước mắt không đợi chờ đã vội lăn dài trên đôi gò má nàng. Lát sau, thấy bà tỉnh lại. Hồi mừng rỡ, một tay nắm chặt lấy bàn tay bà Đăng, một tay quyệt ngang trước mặt:

– U… U tỉnh rồi hả? U làm con lo qúa. U có sao không?

Đầu bà Đăng vật bên này, lắc bên kia:

– U… U không sao!

– Con lấy nước, lấy cơm cho U nhá.

– Nuốt làm sao được mà ăn với uống. Con có đói thì đi ăn trước đi.

Trong lúc chờ ông bà Đăng về, ruột gan Hồi đói cồn cào. Lúc này, nghe bà Đăng dục đi ăn cơm, nàng lại hờ hững nhìn mâm cơm nguội lạnh:

– Con không thấy đói.

Ngay lúc đó, có tiếng gọi trước sân. Cả hai mẹ con bà Đăng đều giật mình, lo âu đưa mắt nhìn ra cánh cửa còn mở. Có tiếng gọi hỏi nữa, Hồi đứng lên, đi trở ra. Vừa nom thấy Hồi, khách đã lên tiếng:

– Thày cháu về chưa?

– Thưa ông…

Hồi ngập ngừng quay lại cùng lúc bà Đăng nhổm người ngồi lên:

– Ông lại nhà! Mời ông vào trong này tôi có chút câu chuyện muốn thưa với ông. Hồi à, con xuống lấy ấm nước.

Hồi đứng né qua một bên khi ông Lục bước vào. Dưới ánh đèn tuy không sáng, ông Lục vẫn có thể quan sát thấy những hình ảnh kém linh động. Trên bàn, mâm cơm chiều còn nguyên vẹn, chưa có người ăn. Trên chõng là một bà Đăng đầu bù tóc rối, mặt tái nhợt, cặp mắt thất thần. Nhìn cảnh này, dĩ nhiên không cần phải hỏi, ông Lục đã nắm được toàn bộ vấn đề. Ông bảo:

– Thôi cháu, nước non làm gì. Tôi vừa uống ở nhà trước khi sang đây.

Nói xong, ông Lục cầm lấy cái ghế đôn đi về phía bà Đăng, xác định lại cái nghi vấn của mình:

– Ông nhà chưa về, phải không bà?

Bà Đăng ngồi dựa lưng vào cái bức vách bên cái chõng:

– Mời ông ngồi nghỉ chân đã.

Trong lúc ông Lục tự tay kéo cái ghế nhỏ ngồi xuống, Hồi trở lại với ấm nước trà nóng trên tay:

– Rước ông sơi nước ạ!

Ông Lục quay lại:

– Cháu cứ để cho tôi tự nhiên.

Nói xong ông nhìn Hồi và bà Đăng:

– Bà và cháu chưa ăn cơm chiều à? Nếu chưa, mời bà và cháu đi ăn cơm đi.

Không có tiếng trả lời, ông dục thêm lần nữa:

– Bà với cháu đi ăn cơm kẻo nguội!

Bà Đăng nói toạc móng heo:

– Chả dấu gì ông, lòng dạ mẹ con tôi rối rắm lắm. Chẳng còn thiết gì ăn với uống.

Dù biết chắc cái phỏng đoán của mình không sai, ông Lục vẫn hỏi lại:

– Ông nhà chưa về hả bà?

– Thật không dám dấu ông. Ông nhà tôi đã… đã bị đưa đi tập trung rồi.

Ông Lục tưởng tai ông về già đâm ra nghễng ngãng nghe không rõ. Ông nhắc lại:

– Ông ấy bị đưa đi bao gìơ, ai bảo bà thế? Mới tối hôm qua ông ấy còn ngồi bên nhà tôi mà?

Rõ chán, ông Lục càng gìa càng lẩm cẩm. Ông làm như nhà nước ta, khi thích bắt ai đi tập trung sẽ thông báo cho nạn nhân biết trước, để sửa soạn hành lý và từ gĩa người thân quen hay sao? Há ông không biết, gìơ của bác đảng đến cũng giống như gìơ của thần chết? Nó đến rất tình cờ, đến thật bất ngờ và đến không hẹn giờ hay sao?.

Hỏi xong câu hỏi, ông Lục chợt biết mình kém thông minh, ông liền chép miệng:

– Thật, đúng là quân dã… nhân, cách mồm cách miệng cái nỗi gì chúng!

Nói xong, ông lại đặt vấn đề:

– Thế chúng đến mời ông đi sáng nay hay lúc nào hả bà?

Ông Lục chưng hửng khi nghe câu trả lời:

– Ông nhà tôi đi sáng nay. Nhưng thật ra chúng đã đến báo vài hôm trước.

Ông Lục xa xầm nét mặt:

– Thế mà ông ấy nỡ lòng dấu cả tôi.

Trách xong, ông Lục thấy mình vô lý. Bởi vì, ông và ông Đăng tuy tình rất thân thiết, nhưng chuyện ấy tuyệt đối không thể nói ra. Riêng bà Đăng, khi nghe lời trách. Bà lên tiếng bào chữa cho chồng:

– Xin ông bỏ qúa cho. Vì nói cho ngay, ông nhà tôi đã bị mời đi nhiều lần, nhưng không ngờ lần này… đi luôn.

– Nhưng bản tin có chắc đúng như thế không bà?

– Chả sai được! Khi tôi rời bên ông, tôi chạy thẳng lên ủy ban để tìm hiểu. Tình cờ, tôi gặp thằng Bảng. Chính nó bảo là nó làm phúc báo cho tôi biết sớm như thế.

Nghe đến tên Bảng là ông Lục nghiến… lợi ken két. Từ trước, ông không ưa Bảng, không tin lời nói của Bảng, nhưng bản tin này lại khác. Ông buột miệng:

– Vậy là đúng rồi!

Ngay lúc đó lại có tiếng gọi từ ngoài cửa. Bà Đăng nghi ngại nhìn Hồi:

– Con ra xem ai thế.

Chừng như người khách hiểu rõ nỗi lòng gia chủ nên chưa vào đến cửa bà ta đã lên tiếng:

– Tôi đây bà ạ.

Cánh cửa mở ra, Bà Lục chân trong chân ngoài:

– Ông nhà về chưa hả bà?

Hỏi xong, bà nhìn quanh. Bên cái bàn quen thuộc, chỉ có một ông Lục ngồi ôm cái điếu. Bà đến bên, ngồi xuống bên cạnh bà Đăng nhắc lại câu hỏi:

– Ông vẫn chưa về hả bà? Không chờ câu trả lời, bà Lục kể:

– Tôi ngồi ở nhà thấy xốt ruột, lại sinh nghi là bên ông bà có chuyện nên vội chạy sang đây xem thực hư thế nào? Thế ông đi đâu mà gìơ này vẫn chưa về hả bà?

Hỏi xong, bà Lục không ngớt lắc đầu chép miệng trong lúc bà Đăng tường thuật lại câu chuyện. Sau khi nghe thủng câu chuyện, bà Lục đi đến kết luận:

– Thật chỉ vì miếng ăn, mà chúng đang tâm giết người ta như thế.

Ông Lục gắt ngang:

– Bà bé miệng một tý có được hay không?

Bà Lục tuy không đồng ý với ông, nhưng không tiện lên tiếng phản đối khi cả hai đang ngồi trong nhà bà Đăng. Chợt bà Đăng lên tiếng:

– Không biết hồi hôm ông nhà tôi có thưa câu chuyện gì với bên ông bà không?

Bà Lục đáp thay ông:

– Ông vừa sang thì thằng Bảng đến, nên chả nói được mấy câu!

Chẳng hiểu nghĩ gì, bà Đăng ngồi thẳng lên:

– Tiện có ông bà ở đây, và thầy cháu đi… vắng. Chuyện của cháu, tôi tính xin ông bà cho thư thả lại một thời gian.

Có tiếng ông Lục dứt khoát:

– Không nên đình lại bà ạ!

– Tại sao thế?

– Theo ý của ông hôm trước và nếu bà không phản đối, chúng tôi sẽ tiếp tục tiến hành thủ tục xin làm lễ tuyên bố cho các cháu ngay.

Bà Đăng cắt ngang lời ông Lục:

– Ông bảo ý thày cháu là…

Ông Lục đáp gọn:

– Phải! Ông đã dặn tôi như thế.

Bà Lục ngơ ngác nhìn ông, bà không biết ông Đăng bảo chồng bà như thế lúc nào. Riêng ông Lục, khi nói nhời ấy, dĩ nhiên, ông không phải là người gian dối. Nhưng đứng trước cảnh éo le này, bó buộc ông phải có một vài quyết định táo bạo. Bởi vì:

– Thứ nhất, ông rất qúy mến gia đình ông Đăng.

– Thứ hai, ông là người thủy chung. Không thể để cho mẹ con Hồi cái cảm nghĩ vì ông Đăng bị bắt, rồi vợ chồng ông sợ vạ lây nên lờ luôn việc cưới xin.

– Thứ ba, quan trọng hơn. Ông muốn chứng minh ngược lại những lời đồn đãi bảo rằng, ông là cái bẫy nhà nước dùng để vồ ông Đăng. Ông muốn cho làng xóm hiểu rằng, lời đồn ấy là do ý gian của nhà nước, bà con lối xóm đừng tin. Tự nghĩ thế, ông Lục bảo:

– Không nên trì hoãn bà ạ. Mình dời ngày lại là rơi vào kế chia rẽ của nhà nước.

Nghe nói thế, bà Đăng chưa biết tính sao. Riêng bà Lục, từ lúc nghe chữ phải từ miệng ông, bà rất đỗi ngạc nhiên. Bà không biết ông đã tốt nghiệp cái văn bằng nói láo như Việt cộng ở trường đảng nào, và vào thời điểm nào? Lúc này nghe ông giải thích, bà không trách ông. Trái lại, bà hài lòng góp ý:

– Ông nhà tôi tính phải đấy bà ạ. Chả nên rơi vào cái kế tin đồn nhảm của chúng. Ông có ở nhà hay không chúng tôi vẫn một lòng muốn xin lo cho cháu sớm. Ngưng lại một chút, bà Lục phân trần thêm:

– Sự thật thì chúng còn trẻ, ngày còn dài tháng còn rộng. Có chờ thêm vài ba năm chẳng là bao. Tuy nhiên, ông đi chưa biết đến ngày tháng nào mới về, và kẻ ở nhà biết đường nào chờ mong. Đã thế, khi nhìn lại. Bà cũng như tôi, ngày xế chiều cả rồi. Lá vàng lắt lẻo trên cây được thêm mấy mùa. Dời lại, không biết mình còn cơ hội lo cho chúng hay không?

Bà Đăng ngồi bất động, không một ý kiến trước lời khuyên nhủ thống thiết bi ai của bà Lục. Khi bà vừa dứt tiếng, ông Lục tiếp:

– Theo lý, chờ ông về là phải. Nhưng trước khi đi, ông đã có lời dặn và nếu mình không lo liệu cho chúng, tôi sợ thất lễ với ông. Ngoài ra, bà còn lạ gì cái thói ở đời. Có chị nào muốn cho em trắng đùi? Từ đó, sẽ thiếu gì kẻ lợi dụng cơ hội để ném đá dấu tay. Như thế, hoãn lại không phải là kế tốt bà ạ.

Nói thế, không có nghĩa là ông Lục chèn ép bà Đăng, nhưng chính vì sợ những khó khăn đột xuất. Trong khi đó, bà Đăng cũng có nỗi khổ riêng. Trước hết, Hồi chưa dứt khoát nhận lời lấy Dụng. Kế đến ông Đăng không có nhà, một mình bà không biết xoay trở ra sao. Nếu đồng ý, bà Sợ tiếng đời mỉa mai. Nếu không, lại lo nhỡ nhàng tương lai của con. Cuối cùng bà bảo:

– Nếu ông bà đã có lòng thương đến cháu, và thày cháu trước khi đi đã có lời với ông bà. Xin ông bà thư thả cho vài ba tháng.

Bà Lục nắm lấy tay bà Đăng:

– Tôi cũng dự tính thế. Vì từ đây đến tết còn những năm bảy tháng nữa, chả đi đâu mà vội.

– Ông bà tính như thế cho cháu cũng phải.

Thấy câu chuyện tương đối ổn định và sau vài lời an ủi bà Đăng. Ông bà Lục đứng lên cáo từ. Bà Đăng đứng trước cửa từ tạ thay vì ra tận ngõ tiễn khách. Sau khi tiễn chân khách, bà quay vào trong buồng. Lát sau bà gọi lớn tiếng:

– Hồi à! Vào đây U bảo cái này.

Hồi bước vào, bà Đăng nét mặt nghiêm trọng báo tin:

– Thì ra thày con đã có xếp đặt trước cho chuyến đi này.

– U nói thế là nghĩa gì?

Bà Đăng chỉ tay lên giây vắt quần áo:

– Mùa này là mùa nóng nực, mặc một cái áo đã đổ mồ hôi. Nhưng sáng nay lên ủy ban, thày con đã mặc hai lớp áo trên ogười.

– Thật thế hả U?

– Còn thật với dối gì nữa. Hai cái áo thày con vẫn treo ở đây, giờ không còn cái nào.

Nói xong, bà Đăng ngồi xuống bên mép giường. Nước mắt lại ứa ra theo hai bên khóe mi. Bà thấy buồn và tự trách mình qúa hờ hững trước những băn khoăn lo lắng của ông. Bà muốn khóc òa lên cho thỏa nỗi lòng ray rứt, nhưng thấy Hồi bên cạnh, bà lại thôi. Lát sau, bà lau mặt rồi ngước nhìn lên ngọn đèn. Ngọn đèn soi rõ hai khuôn mặt sầu thảm với hai bóng đen in lên vách đối diện nhau. Bà héo úa, bà lại nhớ đến ông. Tuy thế, một trong những điều an ủi lớn lao nhất của bà vào lúc này lại chính là sự kiện: Khi ông Đăng ra đi đã mặc hai lớp quần áo trong người.

 

 

 

Chương mười một ***************************************************************************************************************************************************************

 

Vào một sáng mùa hạ, khi trời còn dày đặc hơi sương, chủ tịch Nguyễn văn Bảng giật mình thức giấc. Bảng thức giấc không phải vì những cơn ác mộng như thời vác dao đi làm cuộc đấu tố, cũng không phải vì tiếng gọi… đò của vợ gã đưa người sang sông, nhưng vì một đột biến vừa xảy ra. Lê Thọ, bí thư kiêm chức chủ tịch ủy ban Xuân Thủy được điều đi học bồi dưỡng. Chi bộ họp khẩn, sau bình, phê, chủ nhiệm Bảng được đề cử tạm thời xử lý chức vụ đứng trên cổ vạn dân trong vùng.

Sự kiện to lớn nghiêm trọng này làm Bảng mất  ăn mất ngủ mấy đêm liền. Lại đến đêm nay, mới vừa chợp mắt được một tý thì mấy con chuột đói ăn, rượt đuổi nhau, kêu chí cha chí chóe trên cái xà nhà, một con xa chân rơi xuống ngay cái chõng, nơi Bảng nằm ngủ làm gã giật mình chồm dậy. Vừa nhổm dậy, Bảng quơ chân tìm cái dép râu dưới gầm giường, gã bất thần cúi xuống túm lấy một cái ném thẳng tay lên  trần nhà. Lũ chuột sợ đồng chí Bảng, nên lặng lẽ tháo lui. Phần Bảng, gã bực mình lẩm bẩm vài tiếng trong cổ rồi nằm xuống. Sau khi vật mình xuống, Bảng trở mình hết bên này đến bên kia nhưng không tài nào giỗ được giấc ngủ. Lát sau, Bảng lại nhổm dậy. Gã rê chân đi tìm cái dép ném lên trần  nhà hồi nãy xem nó rơi xuống chỗ nào. Tìm được cái dép rồi, Bảng đên bên cái bàn làm điếu thuốc lào. Lúc nghiêng mình nhả khói, gã nhìn ra bên ngoài, trời tối như bưng. Bảng lại lên giường nằm.

Lúc trời hừng sáng, Bảng ra mở cửa, đến bên chum nước, múc lấy gáo nước súc miệng thay vì đánh răng. Gọi là đánh răng cho nó giống người ta vậy, thực ra, khi nào cáu bựa  bám đầy chân răng thì Bảng dùng miểng vỏ cau khô, loại vỏ cau khô mà  ngưòi dân quê dùng để ăn trầu khi không có cau tươi, mà chà qua chà lại mấy lần cho nó sạch miệng, bình thường thì chỉ cần ngậm hớp nước, súc ùng ục vài lần trong miệng là xong công tác đánh răng của chủ nhiệm bảng.  Rửa mặt xong, Bảng vào bếp lục nồi, vét bát cơm nguội lót lòng. Vừa nhai, Bảng vừa lẩm bẩm một mình:

“ Nói ra thì bảo là lắm điều lắm nhời, nhưng không nói ra thì nó ấm ức trong lòng. Vợ con người ta khi nghe tin chồng lên quan hàm nhớn thì mừng rỡ làm tiệc mừng chồng, đãi khách. Riêng Nụ, vợ gã thì không  hỏi han lấy một nhời! Gã muốn đi sớm về hôm tùy ý”

Sở dĩ có sự kiện này tồn tại trong nhà đồng chí bảng là vì: Sau ngày ông Bính bị bảng tặng là con rể tặng chomột nhát giao giải phòng, cái tình cảm giữa Nụ và bảng không còn. Nụ muốn xin ra riêng nhưng ủy ban không thuận. Mà bỏ Bảng thì mất hẳn căn nhà. Nên, cả hai tuy còn sống chung trong một căn nhà với nhau, nhưng không còn gì để qua lại ngoài một mục đích duy nhất: Chờ cho đối phương, một là trúng đường dao giải phóng của “bác Hồ”, hai là trúng gió mà chết để khỏi phải chia cái gia tài của ông Bính ra làm hai mà thôi. Bảng biết thế, nên gã đành cắn răng chờ xem ai chết trước, nhưng lại có nhiều lúc lo vãi cả ra  quần vì sợ ăn nhầm phải thuốc chuột! Thật bỏ thì vương, thương nửa cái gia tài của ông Bính là rươc khổ vào  người. Tuy thế, nếu dem xo với Hồ chí Minh thì Bảng lại  hơn y một bậc. Bảng vẫn còn có vợ! Hồ thì  bị thiến!

Ăn xong, Bảng vất cái bát đôi đũa vào trong cái thau bên chum nước, với tay cầm lấy ấm nước đi lên nhà trên. Gã đến bên cái chõng, ăn điếu thuốc,  quần áo sửa soạn lên đường. Lúc đi Bảng không quên lấy thêm vài cái đóm và cái điếu cày cho vào trong cái bị đeo lên người. Khi biết chắc không còn thiếu sót gì, Bảng cầm lấy cái mũ cối úp chụp lên đầu và ra khỏi nhà. Mới đi được mấy bước, Bảng vội đứng lại. Những tưởng là còn công việc hệ trọng cần phải làm trước khi đi nhưng gã quên chưa làm, buộc gã phải dừng lại, quay về. Không ngờ, sau khi đứng dừng lại, Bảng đảo mắt ngó trước nhìn sau một lượt. Khi thấy không có bất cứ một bóng dáng người quen hay lạ nào ở gần đó, gã vội cúi xuống, thả một bên ống quần còn sắn cao trên đầu gối xuống, sau đó chững chạc bước đi từng bước. Bảng thận trọng mỉm cười và tin rằng, việc đi đứng của gã lúc này hoàn toàn phù hợp với chức vụ mới!

Vào đến văn phòng ủy ban, việc trước tiên Bảng đặt úp cái nón cối lên bàn dành riêng cho chủ tịch. Kế đến, Bảng tự kéo ghế, ngồi xuống để thưởng thức sự kiện chủ tịch của chính mình. Sau khi hít hà vài hơi trên cái ghế chủ tịch, Bảng đảo mắt vòng quanh căn phòng trống một lượt, rồi yên tâm lôi cái điếu cày ra khỏi cái bị, đặt nó lên trên mặt bàn. Bất chợt, Bảng mỉm cười. Gã có ý nghĩ là phải làm một qủa thuốc lào trên cái cương vị chủ tịch, xem nó lẫy lừng ra sao?

Là chủ tịch, cung cách hút thuốc lào của Bảng cũng đổi khác. Trước tiên, Bảng chậm rãi vê nhẹ bi thuốc bỏ vào cái nõ. Kế đến, gã cẩn thận châm lửa vào đầu cái đóm, thay vì dí cái đèn bật trên  nõ diếu theo thông lệ. Sau khi có lửa, có thuốc, Bảng trịnh trọng nâng cái điếu cày lên trước mặt. Gã kiểu cách đặt đầu ống điếu chếch sang một bên mép. Lúc ấy, đôi mắt Bảng như nhắm lại nửa vời, nhưng thật ra là một nửa làm như chăm chú nhìn, lắng tai nghe người đối diện đang nói, còn một nửa liếc chừng trên ngọn lửa. Giữa lúc đang nhập tâm ấy, Bảng nhếch mép bập nhẹ vài cái rồi lên gân rít mạnh một hơi. Cùng với sức mạnh của làn hơi rít vào trong lồng ngực, cái điếu cày rung lên trước mắt Bảng, trong khi ngọn lửa trên đầu cái đóm được kéo ngược chiều xuống trên nõ điếu. Nháy mắt, xác thuốc cháy tụt hẳn vào trong ống điếu. Bịch… cả người lẫn ghế đổ lăn kềnh xuống trên nền nhà.

Trời quay cuồng, đất đảo lộn, chân tay thì bủn rủn. Mãi một lúc sau Bảng mới ú ớ, quờ quạng chống tay nhổm dậy:

Đéo… Đéo mẹ nó, say… say thật! Làm chủ tịch  say đến… sướng!

Cái say đến với Bảng một cách rất lạ lùng. Lúc đấu gã mơ màng tưởng địch đánh bom, ai ngờ cái ghế đổ, làm cà người lẫn ghể đổ  lăn ra đất. Gã chống tay đứng dậy, thở dốc. Hậm hực nhìn lớp bụi đất dính trên quần áo và nhìn cái ghế. Gã không ngờ mình bị say thuốc! Nhưng nào có phải là say thuốc. Chẳng qua lúc gân cổ lên kéo, Bảng không để ý mình đang ngồi trên ghế. Gã ngả ngưòi ra phía sau qúa độ, làm cho cái ghế mất thăng bằng mà ra nông nỗi. Tuy nhiên, nhờ cú té bất ngờ, Bảng mới chợt biết cái xảng khoái nhất của người hút thuốc lào chính là giây phút say thuốc. Giá mà chết ngay thì chả còn tiếc sự gì nữa!

Sau khi tỉnh thuốc, Bảng đưa mắt nhìn ra trước sân. Cái sân vắng lặng. Nhớ lại, khi bước vào văn phòng, Bảng  đã dự kiến là  sẽ có một ngày bận rộn vì khách khứa sẽ ra vào chào thăm Bảng lên ngôi.  Ai ngờ,  khi nắng đã lên cao mà văn phòng ủy ban vẫn không một bóng người. Khá thất vọng, Bảng lại tìm vào cái ghế. Ánh mắt buồn thảm của viên chủ tịch lâm thời đặt lên trên cái điếu cày đang nằm chơ vơ trên mặt bàn. Gã không ngờ cái chức chủ tịch ủy ban nó nhảm nhí đến như thế. Nếu biết trước sự tình nhạt nhẽo này, Bảng đã tìm cách thoái thác, hoặc nại ra những công tác khó khăn cụ thể của nhà kho và hợp tác xã để không nhận lời.

Đảng ủy viên, chủ nhiệm hợp tác xã Nguyễn văn Bảng nghĩ thế cũng là phải. Bởi vì, khu nhà kho của hợp tác xã Xuân Thủy trong trí nhớ của Bảng có khác chi rừng gìa trong trí nhớ của con hổ nằm trong sở thú. Hổ nhớ rừng vì nó đã xa cơ lỡ vận, mất giang san, mất chốn tìm mồi, mất bạn bè và mất cảnh núi non hùng vĩ. Phần Bảng, gã xa nhà kho là xa cả một thế giới huyền bí, kỳ diệu. Ở đó, tuy không có lầu son gác tía. Không nệm gấm không giường loan. Không rượu nồng, không chè chén. Không nhạc hội đàn ca sướng hát, không dập dìu tài tử giai nhân. Nhưng nó lại có cả một toà thiên nhiên, lồ lộ ra trong giấc ngủ ngày của người nữ đồng chí kính yêu Lê thị Lựu.

Lê thị Lựu, năm ấy đã vào tuổi ba mươi. Một cái tuổi mà người ta bảo là đã toan về già. Theo đó, y thị chả còn gì để mất nên cũng chẳng còn gì để phải giữ gìn. Lê thị Lựu là một khuôn mẫu đồng chí gái vẹn toàn của đảng Việt cộng. Y thị đã không ngại khó, hơn thế, còn  tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc vào trong lòng đảng qua ngả cái giường.

Riêng ở nhà kho, Lựu đã từng vào ra với tình đồng chí. Hơn thế, Lựu có một thói quen không tài nào thay đổi. Lựu thích ngủ ngày! Khi ngủ, Lựu thường chọn cái ghế dài đặt trong văn phòng của hợp tác xã để nằm. Lúc nằm, Lựu thích gác một chân lên thành ghế, một chân còn lại thì sẽ tùy nghi được co lại, hay duỗi thẳng ra trên mặt ghế cho nó phù hợp với thời tiết nóng lạnh ở bên ngoài. Từ thế nằm đặc biệt này, cái quần rộng ống của Lựu luôn có khuynh hướng chạy ngược lên phía đùi. Từ đó, nó phơi bày ra trước thiên nhiên một khoảng da thịt béo tròn, nom rất ngậy. Người khó tính đi qua, vô tình nhìn thấy cảnh ngủ ngày của đồng chí Lựu, họ sẽ lâm vào cảnh đi cũng dở, ở không xong. Đi không xong, bèn nuốt nước bọt, mắng vốn Lựu bằng một ý tưởng ngược đời:

– Thật khéo lẳng lơ!

Nhưng bác lại tấm tắc khen:

– Lựu biết thời biết thế, biết tìm nơi kín đáo để dựa lưng.

Phần Lựu, Lựu chẳng bao gìơ quan tâm đến lời bàn và những chi tiết kém phần quan trọng ấy. Lý do, Lựu là người đơn giản. Ăn trưa xong là Lựu cần một chỗ ngủ. Đã ngủ thì lọ phải cầu lầu son gác tía? Theo đó, Lựu chỉ cần có ngọn gío mát thổi thốc vào, để giữa buổi trưa hè nắng cháy cỏ, Lựu vẫn có một giấc ngủ ngon là được.

Còn Bảng? Gã là một đồng chí vĩ đại của bác, gã là chủ nhiệm của hợp tác xã. Trong vai trò to nhớn ấy, có khi nào Bảng lại thắc mắc, hoặc muốn thêm bớt ý kiến gì về sự kiện ngủ ngày tại nhà kho của Lê thị Lựu. Đã thế, Bảng còn muốn Lựu cứ giữ mãi giấc ngủ trưa, để Bảng được v bo no đôi mắt

– Các đồng chí tự quản nhá. Nếu công tác nào gặp khó khăn, chờ tôi về giải quyết sau. Trường hợp khẩn trương có thể đến tìm tôi ở nhà kho nhá.

Dặn dò xong, Bảng yên trí đội cái mũ cối lên đầu rời trụ sở ủy ban. Khi đến nhà kho, Lựu đã có mặt ở đó. Y thị lăng xăng trong một bộ áo cánh khá tươi mát. Vừa trông thấy Bảng, Lựu nở nụ cười xã giao rất xã hội chủ nghĩa:

– May qúa, đồng chí đến rồi hả? Mời đồng chí vào trong này ngay cho. Hàng thì đè xếp lớp lên nhau, tôi không biết nên cởi phía bên trên trước hay là bên dưới trước cho nó tiện.

Vừa nói, Lựu vừa đưa tay đẩy rộng cánh cửa phân chia giữa văn phòng và nhà kho ra:

– Mời đồng chí vào giúp em một tay nhá. Có nhẽ chả cần phải cởi phía bên trên đâu. Ta chỉ cởi phía dưới cho nó gọn nhẹ cũng được đồng chí ạ. Này, đồng chí cầm lấy cái này để chống đỡ cái cửa sổ lên. Nếu không chống lên, ở trong ấy tối lắm, đi không nom rõ lại va vào người nhau.

Lựu nói một hơi dài, lchẳng đầu chẳng cuối. Lúc quay lại thấy Bảng đứng ngay như cán cuốc ở giữa nhà. Lựu mỉm cười, y thị biết nói thế là gây họa cho Bảng. Tuy nhiên, thị không có ý chữa lại kiểu nói. Hơn thế, Lựu vờ làm nghiêm, dậm gót chân trên nền nhà

– Ơ hay, đồng chí nhìn cái gì mà nhìn kỹ thế? Nếu muốn nhìn… người thì cũng phải vào trong buồng chứ.

Bảng giật mình, gã bước đi như một cái máy. Chờ Bảng vào hẳn bên trong, Lựu khép lại cánh cửa, vào chuyện :

– Đồng chí bí thư đi rồi hả đồng chí?

Bảng ngạc nhiên, trả lời:

– Ừ đi rồi, nhưng sao đồng chí biết sớm thế?

Rõ chán cho chủ nhiệm Bảng. Một đời khôn ngoan mà hỏi một câu thừa. Lựu tiếp:

– Công tác của ủy ban chắc là giao cho đồng chí xử lý cả?

– Phải! Lại trăm dâu đổ lên đầu tằm!

– Đồng chí bận thế thì còn giờ đâu mà nghỉ ngơi! Em có muốn mời đồng chí ly trà cũng khó!

– Bận, bận lắm! Giờ đâu mà chè với nước. Nếu có thì cũng phải nửa … đêm.

Lựu quay mặt đi để tránh cái nhìn xỗ sàng của Bảng:

– Ăn nói đến hay.

Bảng không trả lời, gã đi về phía cái buồng nhỏ cuối nhà kho. Đầu óc bén nhạy của người nữ cán bộ báo cho Lựu biết rõ ý đồ đen tối trong lòng Bảng. Thọ đi vắng, Bảng muốn làm vua cả cái thân của Lựu đây! Nhưng thay vì buồn cho số phận của một đời cán bộ được gọi là vì dân vì nước như mình, Lựu lại bảo:

– Anh Bảng này, lại mà xem mặt hàng mới về đã. Có nhiều kiểu bông đẹp lắm!

Bảng tê dại vì tiếng gọi anh Bảng của Lựu. Gã hoang mang nhớ lại, hình như từ lúc có gói qùa làm vật dẫn đường, làm vật di… tình đến nay, tâm tư của Lựu đã biến đổi và dành cho gã nhiều mỹ cảm hơn. Tự nghĩ thế, Bảng không bỏ lỡ cơ hội. Gã quay lại, đứng như nép người vào bên Lựu, vờ vịt đưa tay cầm nhầm cánh tay Lựu. Lựu đủ khôn ngoan để đoán biết gian ý của Bảng, nhưng gặp kỳ phân phối nhu yếu phẩm, Thọ lại đi vắng, Lựu chả cần phải phản đối Bảng. Y thị bạo dạn liếc Bảng bằng đôi mắt lá răm trong căn phòng tranh tối tranh sáng:

– Anh này hay nhỉ? Giữa ban ngày ban mặt mà…

Lựu bỏ lửng câu nói, Bảng thêm phấn khởi nắm lấy cánh tay Lựu như có chủ đích từ trước:

– Đi vào đây, xem cái… này!

Vừa nói, Bảng vừa kéo Lựu đi về phía căn buồng nhỏ. Khi đến trước cửa buồng, Lựu gỡ tay Bảng ra:

– Hay nhỉ, ai lại vào trong ấy để xem cái… giường!

Bảng quay lại, gắt nhẹ:

– Ai khiến xem cái giường?

– Chứ xem cái gì?

Nhìn nét mặt đầy khích động của Bảng, Lựu biết cái số của nàng sắp phải nhận thêm lộc. Mấy ông thầy bói đến là tài. Ngày xưa khi còn bé, có ông đã bảo Lựu:

– Cái số của cô có của là nhờ đôi mắt.

Khi nghe lời tiên đoán, Lựu không tin. Đến lúc khóc chồng giữa lứa tuổi đôi mươi, Lựu càng cho đó là những lời nói nhảm nhí. Nhưng từ ngày Lựu bước đôi chân khép mở vào trong lòng đảng, vận số đã đổi. Lựu không tin, vẫn phải tin. Và hôm nay chắc hẳn là một trong những lần Lựu bó buộc phải tin. Tự nghĩ thế, Lựu giả ngây dại như gái mười tám chửa biết yêu là cái chi chi, đứng nép người bên khung cửa, nhìn vào trong buồng, gỉa nhời Bảng:

– Thôi chả vào đâu, tôi đứng chờ ở ngoài này được rồi.

Bảng yên lặng bước vào trong buồng, gã lưỡng lự một chút rồi cúi gập người xuống gầm giường, lôi ra một gói hàng đặt lên trên giường. Tay hí hoáy cởi nút giây cột, mặt ngoảnh về phía sau dục Lựu thêm lần nữa:

– Đã bảo vào mà xem, có ai làm gì đâu.

Mắt Lựu không rời gói hàng:

– Có thật như thế không đấy, hay lại nói điêu để lừa người ta?

Hỏi xong, Lựu bước vào. Khi vào, thay vì phải giữ một khoảng cách an toàn, đồng chí Lựu lại theo gương bác, tự ý xóa bỏ đường ranh giới cách biệt giữa đôi bên. Y thị đứng xát người bên Bảng. Bảng nhìn sang, bàn tay chai đá của gã chỉ muốn đặt lên cái… mông vĩ đại của người đồng chí gái. Căn phòng vốn không sáng, lại thêm tối tăm vì ý nghĩ của Bảng. Như đã có quyết tâm nhớn, đồng chí Bảng mạnh dạn lôi hẳn khúc vải mỹ a màu đen láng ra, đặt lên tay Lựu. Thị Lựu mở to đôi mắt, nắm lấy cánh tay Bảng xuýt xoa:

– Đẹp qúa anh nhỉ?

Khen xong, Lựu nhích người về phía Bảng. Cái nhích có chủ đích tạo ra sự cọ sát, sự thèm thuồng giữa hai giống đồng chí của bác. Do đó, dù Bảng đã toan tính sẵn những mưu kế lọc lừa, gã vẫn mất chủ động. Lát sau, đồng chí Bảng cho rằng, nếu ta có đặt bàn tay đảng lên chỗ cần đặt thì chắc đồng chí ấy cũng không phản đối. Tự suy luận thế, Bảng đưa một tay ra phía sau, xoa nhẹ trên thắt lưng và lần xuống cái mông của Lựu. Thay vì phản đối, đồng chí Lựu mỉm cười trên đôi môi ướt:

– Nỡm!

Âm thanh như lời khích dục, Bảng đưa luôn cả hai cánh tay ra ôm chặt lấy người đồng chí gái.  Lựu vờ đẩy Bảng ra:

– Anh Bảng… bỏ em ra đi. Làm gì mà ôm người ta giữa ban ngày thế này?

Bảng gỉa điếc, cứ ôm chặt lấy cái béo tròn của  Lựu. Y thị lại nhắc:

– Á… anh bỏ em ra đi! Người ta nghẹt thở, chết bây giờ!

Nói thế là Lựu chỉ nói cho có lệ thôi. Bởi vì, trong lòng thị đã có sẵn một lý luận vững chắc, đầy tính đảng là, Có cho nó ôm nhờ một tý cũng chẳng… mất vốn mất lãi gì!

Cùng với bài tính giản đơn này, Lựu xoay người, quay mặt về phía Bảng. Mục đích của những động tác này, không có ý tìm cách vuột ra khỏi vòng tay Bảng. Trái lại, Lựu muốn cho Bảng chóng điên. Kết qủa, chiến sỹ nhân dân Nguyễn văn Bảng, người đã từng dũng mãnh đẩy bánh pháo trên chiến trường Điện Biên, người từng hung hãn ra oai đưa ngang cây mã tấu vào cổ nhân dân, đã chào thua cục… mỡ nóng bỏng trong tay. Gã thở dốc theo bàn tay nhịp nhàng chuyển động dọc ngang của Lựu:

– Chết… thế này thì… bác cũng phải chết!

– Anh bảo gì?

– Nào có bảo gì đâu. Cái… này, tôi… tôi để dành cho mình đấy.

Dù có dự đoán trước, Lựu vẫn ngẩn người ra vì cái kết qủa đến qúa nhanh. Y thị ngửa mặt lên, làm như cố nhìn cho rõ khuôn mặt của người đồng chí tốt bụng:

– Anh, anh định cho em thật đấy à?

– Chứ còn ai vào đấy?

Lựu vờ cảm động, thị gục đầu, thở hơi nóng trên ngực Bảng. Lúc này nom thị giống như một người tình nhỏ bé đòi yêu thương hơn là một người nữ đồng chí giỏi tay nghề:

– Em cám ơn đồng chí!

Nghe lời ngọt mềm, chủ nhiệm Bảng tham lam cúi xuống trên mặt Lựu. Gã tính tặng Lựu một nụ hôn thắm thiết tình đồng chí và dạt dào tình xã hội chủ nghĩa anh em. Lựu hiểu ý, y thị quay ngang, nghiêng người sang một bên để tránh cái hôn kém vệ sinh của chủ tịch Bảng. Rồi thật nhanh, y thị từ từ gỡ bàn tay Bảng

ra:

– Thôi bỏ em ra đi! Nhỡ có ai vào thì chết cả đám.

Tay Bảng vẫn níu chặt lấy phần dưới thắt lưng Lựu. Lựu bảo:

– Đừng làm qúa, em sợ! Nếu anh muốn em thật thì cũng phải chờ đến… tối.

Bảng mở to đôi mắt:

– Đến tối à?

– Chứ chẳng lẽ chờ khi Thọ trở về?

Nghe thế, chủ nhiệm kiêm xử lý chủ tịch ủy ban Nguyễn văn Bảng vội gỡ gạc thêm một tý, rồi buông Lựu ra:

– Có giữ nhời không đấy?

– Chỉ ngại chị  ấy không cho anh ra khỏi nhà!

Nói xong, Lựu đứng nhích qua một bên. Y thị hoàn toàn mãn nguyện về kế hoạch đàng nào cũng vào mình cả, chả đi đâu mà thiệt. Không có Thọ, Lựu sẽ túm lấy Bảng. Con cá sống vì nước, Lựu sống vì tình đồng chí. Lựu cầm xấp vải lên ngắm nghía:

– Anh lấy ở đâu ra mặt hàng đặc biệt này? Tiêu chuẩn dành cho các đầu ngành à?

Bảng hãnh diện vì sự u tối của Lựu:

– Sai! Đây là mặt hàng ngoại tiêu chuẩn, dành tưởng thưởng cho các xã viên lao động tiên tiến.

Lựu mở to đôi mắt nhìn Bảng:

– Lấy thế này nhỡ hụt của người ta thì sao?

Bảng cao giọng tự mãn:

– Hụt thế nào được mà hụt.

– Anh có tài kéo dãn vải ra à?

Bảng nghiêm sắc mặt giảng giải:

–  Không phải như thế. Có một hộ mới bị đưa đi tập trung cải tạo. Do đó, phần tiêu chuẩn của họ được chia đều cho người có công. Tuy nhiên, cái hay của ta là vẫn làm báo cáo đầy đủ. Trên không xét đến, cá nhân họ đang lo trắng mắt, biết đâu mà khiếu nại.

Nghe lời Bảng giải thích, Lựu bỗng mỉm cười. Bởi lẽ, Lựu cũng là người có… công! Nhưng lại vờ hỏi:

– Sao không mang về cho chị ấy?

– Của… ấy à? Có mặc thứ này cũng giống như xẩm làm hề, đẹp đẽ gì.

Lựu ném xấp vải xuống trên mặt giường:

– Giỏi chê nhỉ? Mai mốt… được rồi lại đi chê cả người ta. Nếu vậy, đây không cần. Muốn đem cho ai thì cho. Tôi đi ra ngoài làm việc đây.

Lựu bước đi, Bảng vội cầm xấp vải đặt vào tay Lựu giải thích:

– Ơ hay, nào tôi có dám chê… mình đâu? Tôi chỉ nói sự thật. Hơn thế, mắt nhân dân như mắt khóm. Nếu nhà tôi mặc những thứ này, rất dễ bị dị nghị, nghi ngờ là xén bớt của công.

Nghe Bảng giải thích, tự nhiên Lựu cho lời của Bảng là lời nói thực tình, đáng tin như nhời bác. Y thị nâng niu xấp vải trên tay bảo Bảng:

– Nếu anh… nhất định cho em, em không dám từ chối. Nhưng lúc đem về chỉ sợ người ngoài dòm ngó, nói ra nói vào thì khổ.

Bảng nghĩ ngay đến cái giường ở nhà Lựu:

– Chuyện ấy đồng chí không cần phải lo. Để tôi mang đến tận nhà.

Lựu gật đầu, đưa xấp vải lại cho Bảng cất giữ. Đến khi bước ra khỏi căn buồng nhỏ, Lựu sợ Bảng nuốt nhời, y thị vội hỏi:

– Tối nay đồng chí đến à?

Bảng quay ra, gã chưa kịp trả lời đã nghe rõ những tiếng ồn ào vọng vào từ cửa văn phòng. Biết có thêm nhân viên đến để phân phối hàng tiêu chuẩn cho nhân dân, Bảng nhanh tay dấu khúc vài vào trong gầm giường, nói vọng ra:

– Nào mời các đồng chí vào cả trong văn phòng cho, tôi có vài điểm cần sinh hoạt trước khi ta bước vào công tác.

Nghe lệnh, từ Lựu cho đến vài ba nhân viên đầu ngành lục tục kéo nhau vào ngồi trên hai cái chế băng trong văn phòng. Bảng trịnh trọng ôm một xấp giấy tờ, chả biết là những loại giấy gì, chỉ thấy hắn làm ra vẻ như là quan hệ lắm. Gã nói:

– Tôi sinh hoạt vắn tắt để các đồng chí nắm. Vì chủ tịch ủy ban đi bồi dưỡng, tôi phải kiêm nhiệm công tác của ủy ban một thời gian nên không thể trực tiếp chỉ đạo các đồng chí trong công tác phân phối hàng nhu yếu cho nhân dân đợt này được. Tuy nhiên, tôi có hội ý với dồng chí thư ký và xắp xếp công tác chung với đồng chí ấy rồi. Đề nghị các đồng chí nghiêm chỉnh công tác cho. Đặt trường hợp có những khó khăn đột biến, ta sẽ có hội ý và giải quyết sau. Các đồng chí nắm được toàn bộ chủ trương rồi chứ? Vậy thôi nhá, nếu không còn thắc mắc nào, đề nghị đồng chí thư ký phân công cho các tổ công tác, kẻo muộn.

Cuộc hội ý không đầu không đuôi cũng chấm dứt một cách rất đột biến. Tuy nhiên, Bảng không rời nhà kho như lời gã nói, trái lại, mãi đến khi nắng chiều đã khuất trên đê, Bảng mới khóa cửa rời nhiệm sở.

Rồi đêm ấy, Bảng không còn nhớ nó là đêm gì. Sau vài câu chuyện phân phối hàng tiêu chuẩn làm qùa. Bàn tay chai cứng của Bảng đưa qua, nhẹ nhàng đặt trên bờ vai Lựu như để bác nhịp cầu cảm thông. Sau khi đã có đầu cầu, Bảng theo kế hoạch vết dầu loang của đảng áp dụng trong cuộc chiến tranh với thằng tây. Bàn tay Bảng từ từ lần xuống ngang thắt lưng Lựu. Nó tạm nằm yên trên vị trí nhô cao, mềm mại của cái mông để nghe động tĩnh. Lát sau, từng ngón tay Bảng giống như những cán bộ khinh binh vào Điện Biên, bắt đầu thay phiên nhau gõ nhịp, và xoa nắn lan dần đều trên vùng đất mới làm quen.

Theo như sách vở của đảng, trong giai đoạn khởi đầu, chủ nhiệm Bảng rất thận trọng. Gã bước từng bước để nhử địch quân vào bẫy. Sau khi đoàn khinh binh đã đổ bộ lên vùng đất địch an toàn. Bảng quyết định xoay người, tung nốt lực lượng hậu cần còn lại sang phía Lựu để chờ lệnh. Bảng tính, nếu lực lượng hậu cần sang đất địch không gặp một phản ứng nào, Bảng vẫn không thể khinh xuất trước khi cầm cờ đảng tiến vào mục tiêu.

Kết qủa, sau những đợt tấn công thăm dò, Bảng thấy người nữ đồng chí không một phản kháng. Hơn thế, y thị còn hớ hênh, ngồi như dựa người vào trong ngực Bảng. Riêng đôi chân đặt trên cái ghế dài, nó không ngừng chuyển động, co duỗi, ngả nghiêng theo thế cài răng lược của bàn tay đảng. .

Đến khi tình thế khẩn trương, Bảng nghe rõ hiệu lệnh tiến quân của bác… Hồ vĩ đại. Bảng quên mọi gian nguy, hai bàn tay gã vùng lên mở đường. Chúng một lòng từ bỏ vị trí bên ngoài, cùng đồng khởi, chui tuột vào trong. Như thế, dưới ngọn cờ chỉ đạo quang minh của đảng, một cuộc xung phong vũ bão, mạnh như nước vỡ bờ, tiến như thế chẻ tre đã nổ ra. Nó nổ ra và được đồng chí Bảng tiến hành không một sai xót, không một trở ngại.

Nhớ lại, từ ngày Bảng nhận cái mã tấu của đảng trao để làm lẽ sống. Nhận lấy linh hồn của đảng là đôi dép râu và cái mũ cối làm ngọn đuốc soi đường. Bảng đã anh dũng tuyên thệ trước bàn thờ đảng Vẹm rằng:

– ”Đời Bảng từ đây trở đi, thuộc về đảng thuộc về bác. Qủa… cật của chủ nhiệm Bảng đã được hiến dâng để phục vụ cho lý tưởng đảng cộng sản. Mọi hành động, dù to dù bé, Bảng đều làm vì đảng, vì bác, Bảng không làm vì ích lợi cá nhân!”

Nghe xong lời tuyên thệ của Bảng, các đồng chí nhớn nở mặt nở mày. Chúng không ngờ, giữa thời buổi nhiễu nhương, đảng lại tìm ra được một đứa con đáng yêu và trung kiên như Bảng. Từ đó, Bảng trở thành một công cụ để thực hiện kế hoạch của nhà nước. Đảng bảo tiến, Bảng dục người khác tiến! Đảng bảo lùi, Bảng gỡ gạc thêm một tý rồi rút lui.

Dĩ nhiên, Lựu không dại khờ. Theo dự kiến lúc ban đầu, Lựu chỉ cho phép người chủ nhiệm của Lựu tiến binh có giới hạn thôi. Lựu không để cho đồng chí Bảng được tự do tung hoành giữa chốn vườn hoang, cỏ mọc không thẳng hàng. Nghĩa là, Lựu sẽ phản ứng có lệ khi bàn tay của đồng chí chủ nhiệm còn ở vùng ven biên, ngoại thành. Và đồng chí Lựu sẽ liều chết để chống giữ, bảo vệ phần đất cần bảo vệ trong nội thành. Rồi vì sự nghiệp chống giữ và bảo vệ phần nội thành ấy, chủ nhiệm Bảng có giận thì Lựu cũng đành chịu.

Không ngờ, tính toán khôn ngoan cẩn thận là thế, đến phút cuối, đồng chí Lựu lại không kiểm soát được chính mình. Bàn tay bạo dạn, chai lỳ của Bảng đã bắt đầu thành công trong việc kiến tạo những thèm muốn, cũng như tạo ra những rạo rực nóng bỏng trên khắp người Lựu. Lựu đành thụ động, duỗi thẳng đôi chân ra cho vẹn tình với đảng, và cho trọn nghĩa đồng chí, Lựu tự  nhủ:

– ”Cũng liều nhắm mắt dạng… chân!

Để xem chủ nhiệm, đánh… vần ra sao?”

Đến khi cái quần dây thung bị dãn nở và tụt xuống ngang đầu gối. Nó để lộ ra vùng rừng thiêng và hang… Pác Pó, là nơi Bác thâu đêm viết sử đảng, khởi đầu cho cuộc chiến tắm máu, bán nước hại dân của Việt cộng thì Lựu giật mình, tròn vo đôi mắt nhìn Bảng:

– Sao lại ở đây? Cái đèn sáng qúa!

Bảng cúi xuống:

– Tôi sơ ý qúa.

Nói xong, Bảng dừng tay. Gã toan đứng dậy vặn nhỏ cái tim đèn và tìm lối đi vào trong buồng thì Lựu tỉnh giấc. Khi tỉnh, Lựu nhớ ngay đến những mặt hàng mới. Thị lặng lẽ túm chặt lấy cái cạp quần, kéo ngược trở lên, rồi thay vì trách cứ cái bàn tay bất kính của chủ nhiệm Bảng,  Lựu nhỏ nhẹ bên tai gã:

– Mà thôi đồng chí ạ, ta dừng lại thôi. Sự thật, em chả tiếc gì đồng chí. Chỉ ngại làm mất tác phong, mất đạo đức của người đảng viên, và nhất là làm bác buồn thôi.

Bảng ú ớ:

– Ơ hay, ăn nói hay nhỉ? Bàn tay này làm mất quan điểm và đạo đức cách mạng à?

Lựu không gỉa nhời, ngồi co đôi chân lên trên mặt ghế. Bảng loay hoay gỡ gạc, lòng hậm hực:

Mở mồm ra mà không biết xấu hổ? Từ thằng to đến thằng bé, từ trung ương đến địa phương, có một thằng đảng ũy viên nào không hủ hóa cán bộ, không cậy thế hiếp nhân dân?

Nói thế là Bảng có đầy đủ lý do để biện minh cho hành động của mình. Tuy nhiên, Bảng không thể nói thẳng cho Lựu nghe. Phần Lựu, Lựu quyết không đổi thế ngồi cho đến khi Bảng ra về.

Trong những ngày kế, Lựu rất vui vẻ nhận thêm nhiều mặt hàng ngoài tiêu chuẩn, nhưng vẫn quyết liệt từ chối nhận… người. Nghĩa là, Bảng không thể đưa bác vào hang. Sự kiện này làm Bảng kém vui. Lựu biết, nhưng cứ lờ đi. Đến sau khi người cuối cùng được gọi tên đến nhận hàng, Lựu vội vàng đội nón ra về, quên cả lời chào Bảng. Bảng nhìn theo, cơn tức giận, nỗi bực mình như muốn nổ tung ra theo từng làn sóng chuyển động phía sau lưng Lựu. Lát sau, gã hậm hực quay vào, đạp hất tung cái ghế dài Lựu vẫn nằm ngủ lăn kềnh ra trên mặt đất. Chưa hả dạ, Bảng còn nắm tay đấm mạnh vào trong không, thề độc:

– Thà chết còn hơn đi lại với quân vong tình như thế.

Thề xong, Bảng vẫn không nguôi giận. Nhưng đành phải tự an ủi mình bằng một lý luận khác:

– Mà thôi, đã là cán bộ thì phải vì dân vì đảng, có ai lại vì cái… hang bao giờ?

Lời thề sắt son là thế, không ngờ, sau bữa cơm chiều, Bảng đổi ý. Phần Lựu, khi ra mở cửa, Lựu thoáng ngạc nhiên nhìn Bảng. Lựu ngạc nhiên không phải vì sự hiện diện của Bảng, nhưng chính là do sự kiện Bảng đến tay không. Sự việc đến không mang theo quà biếu đã làm câu chuyện bên bóng đèn mờ tối nay nhạt hẳn đi. Nó đã không tạo ra được đầu cầu cảm thông, lại cũng không làm cho người nữ đồng chí hứng khởi nghe theo những câu chuyện hiêu cuội trong đời chiến đấu gian truân của Bảng. Thay vào đó là những câu chuyện nhạt như nước ốc, và Lựu không cần che đạy những cái ngáp nom rất bất lịch sự.

– Như vậy cũng xong! Ai có thân người ấy lo. Hơi đâu mình phải lo cho nó.

Lựu có suy nghĩ ấy cũng là phải. Bởi lẽ, giữa Bảng và Lựu không có tình cảm quan hệ riêng. Sự liên hệ giữa hai người chẳng qua là cái tình đồng chí trong sinh hoạt đảng. Và nếu chỉ vì tình đồng chí, Lựu cho Bảng như thế đã hơi… nhiều, Bảng chả nên trách Lựu keo kiệt.

Lý luận sắc bén là thế, nào ngờ khi nhìn qua phên cửa, Lựu thấy toàn bóng đen. Khi nghĩ đến những thực tiễn của xã hội chủ nghĩa, Lựu lại giật mình đánh thót người. Lý do, cái xã hội quanh Lựu không còn đơn giản như Lựu tưởng. Bởi vì từ khi có bác, nó đã chất đầy những ám toán, lường gạt, đê tiện. Nay còn tình mai cạn máng. Không ai có thể dự phòng được sự tráo trở nhau sẽ xảy ra sao và vào lúc nào.

Đến kựu nhìn vào trong, y thị bỗng rùng mình. Những mặt hàng ở trong nhà Lựu, tuy Bảng biếu tặng vì hảo ý, nhưng không một giấy tờ chứng minh. Trót lọt thì chả nói làm gì, chỉ sợ cảnh trâu buộc ghét trâu ăn, nó vỡ lở ra thì ai đứng ra gánh lấy phần trách nhiệm cho Lựu? Bảng nhận, hay sẽ đổ tội cho thị gian trá trong sổ sách để chiếm công vi tư. Phần oan ức ấy ai sẽ hóa giải, minh oan cho thị?

Sau khi có suy nghĩ ấy. Lựu bạo dạn đứng dậy đi vào trong buồng, thị trèo lên giường kiểm tra lại sợi giây báo động với con Mực. Kiểm tra xong, thị thay chiếc áo cánh sát nách, hở cổ, trở ra ngồi chung trên một cái ghế dài với Bảng thay vì giữ thế đối diện như trước. Bảng quay sang. Dưới ánh đèn mờ, cái thân hình đẩy đà của Lựu thực sự làm cho Bảng mất tự chủ. Tiếng thị ngọt ngào bên tai Bảng:

– Đồng chí có đau yếu gì không mà cứ ngồi yên như ông tượng vậy?

Bảng nhìn sang, không trả lời, Lựu tiếp:

– Chị nhà…. đau hay là giận đồng chí?

– Nào có phải vì chuyện ấy.

Lựu đưa hẳn cánh tay trần ra trước ánh đèn:

– Thế thì lạ nhỉ, em chịu thua không đoán được cái lý do làm đồng chí buồn. Chẳng lẽ là tại em? Có phải anh trach em chăng?

Bảng vẫn yên lặng, Nếu ở trong trường hợp khác, có lẽ câu chuyện sẽ chấm dút ở đây. Nhưng lúc này, Lựu lại hiền ngoan, ngoan trong dự tính của chính Lựu.

– Khuya rồi… anh ở lại hay về mà ngồi yên mãi?

Nói xong, Lựu nghiêng hẳn người về phía Bảng và vặn nhỏ tìm đèn xuống. Bảng không bỏ lở, gã vòng một cánh tay ra phía sau lưng ôm choàng qua người Lựu. Lựu lặng lẽ duỗi chân  ra trên cái ghế dài. Bất ngờ, Bảng đứng bật dậy, bế bổng Lựu trên tay đi về phía buồng ngủ. Lựu lúng túng đưa tay ôm lấy cổ Bảng:

– Từ từ đã… á!

Nhờ ánh đèn từ ngoài hắt vào, căn buồng không tối lắm, Bảng đặt Lựu nằm gọn trên giường. Lựu làm gan, một tay ghì lấy cổ Bảng, một tay mở tung hàng nút áo trước ngực ra. Bảng mở to đôi mắt nhìn trân trối vào bẹ  sữa để trần trước mặt. Gã cúi xuống thật nhanh, Lựu không kịp khép lại tà áo, không kịp lăn vào phía trong để tránh Bảng, cũng chưa tìm được sợi giây báo động cột sẵn bên bức vách. Bảng trèo thốc lên giường. Lựu rướn người lên, và không thể né tránh được cái mồm tham lam của chủ tịch Bảng úp  xuống trên ngực Lựu, tham lam thành tiếng:

– Gừ..  ư.. Gâu… ! gâu… ! gâu…!

 

 

 

Chương mười hai   *********************************************************

*************************************************************************

 

–         Gâu!… Gâu!… Gâu!…

– Chết có người đến!

Lựu hốt hoảng, đẩy Bảng vào phía trong rồi vội vàng chồm dậy, tụt xuống khỏi giường. Chân chưa chạm đất Y thị luống cuống vuốt mái tóc, cài lại hàng nút áo, kéo cái quần lên. Sự kiện hốt hoảng này phải được coi là một việc rất bất thường trong sinh hoạt cá nhân của Lựu. Bởi lẽ, đây không phải là lần đầu tiên Lựu tiếp người lạ trên cái giường riêng của Lựu. Nhưng lần này, nó hoàn toàn đi ra ngoài sự chủ động của Lựu. Do đó, trong lúc đứng cài lại hàng nút áo, mắt Lựu không rời vị trí sợi giây cột bên bức vách, sát ngay đầu giường.

Đây là một sợi giây an toàn, Lựu bảo thế, bởi vì chính Lựu đã bỏ công nghiên cứu hệ thống chuông báo động này rất kỹ lưỡng trước khi đem vào áp dụng. Người ta thường cho rằng, thói đời có khi mất trộm rồi mới lo làm hàng rào. Lựu lại khác, vì sống đơn chiếc trong một xã hội quan, cán bác đảng là những bất lương, nên Lựu quyết làm hàng rào cho kỹ trước khi tai họa có thể sảy ra. Từ sự tính toán này, Lựu đẻ ra được một phát minh có năng tính báo động cao. Trước tiên, Lựu lấy hai cái ống loong sữa bò, tự đục lỗ và cột chung lại với nhau. Sau đó, Lựu đập cong cái đinh tám và cột cái đinh vào giữa ống loong. Nhìn qua nó có hình thức giống như một cái chuông nhỏ. Lựu cầm lắc thử, cái chuông tự biên tự diễn này phát ra một loạt tiếng động leng keng. Lựu mỉm cười, đem đặt nó xát vào bên bức vách đầu nhà, nơi con Mực thường nằm. Người thường đi qua lại, nếu không chú ý tìm kiếm sẽ không phát hiện được.

Vì cái chuông không thể tự chuyển động, Lựu cột chuyền một sợi giây từ cái chuông, chạy dọc theo bức vách, ăn thông vào đến đầu giường. Mỗi khi cần sự tiếp cứu của con Mực, Lựu nắm sợi giây, giật mạnh mấy cái. Chuông báo động sẽ phát ra một chuỗi những âm thanh leng keng, nghe không đến nỗi chói tai, điếc óc, nhưng vừa đủ làm cho con Mực giật mình tỉnh giấc. Khi tỉnh giấc, dù ban ngày hay ban đêm, con Mực thường sủa tru tréo lên. Lựu chỉ cần có thế. Mấy tiếng sủa vu vơ ấy không đủ sức giúp Lựu thoát vòng tay bác,  nhưng cũng có khả năng làm cho quan cán nhất thời phải rụt vòi! Tuy nhiên, sự việc đêm nay đã diễn ra một cách bất thường, không nằm trong sự kiểm soát của Lựu. Lý do, cuộc chiến chưa bắt đầu, Lựu tư6 nguyện trao đổi,  Lựu  không lâm nguy, và  y thị không gịật giây báo động nhưng con Mực đã sủa tru tréo lên. Tại sao có đột biến này? Chẳng lẽ Bảng sơ ý chạm tay vào sợi giây để tự hại mình. Nếu đúng như thế thì Bảng chả nên trách Lựu, mà nên trách cái số của gã thiếu hẳn đường may mắn.

Tự nghĩ thế, Lựu mỉm cười, nhưng tiếng con Mực không dứt. Hay có kẻ lạ mặt vào nhà? Lựu tắt tiếng cười, mồ hôi vã ra trong lúc Bảng lại bình chân như vại. Gã thản nhiên nằm chỏng gọng, mở to đôi mắt nhìn tiếc nuối vào thân hình đẫy đà của Lựu. Lựu bực mình gắt nhẹ:

– Còn không đi ra!

Nói xong, Lựu bỏ đi ra ngoài. Phần Bảng, nửa vì tiếc khu vườn hoang cỏ mọc không thẳng hàng, nửa lại giận con mực đã gây ra náo động vào đúng lúc cần sự yên tĩnh. Lúc đầu, gã tính bài nằm lỳ chờ sung rụng rồi muốn đến đâu thì đến! Nhưng sau khi bóng Lựu khuất ngoài cửa buồng, và tiếng con Mực vẻ gấp rút hơn, Bảng đâm hoảng. Gã nhớ đến bài học hôm nào, nên đành nhổm người dậy, bò ra khỏi giường:

– Đúng là đồ phá đám! Ông chỉ cho mày củ riềng là yên chuyện!

Mắng xong, Bảng đi như nện chân xuống trên nền nhà. Mặc cho Bảng giận dỗi con Mực, Lựu khoái chí đứng tựa cửa mỉm cười. Cùng lúc đó, con mực chạy xô vào cửa, ý như muốn cầu cứu chủ nhà. Trống ngực Lựu đập loạn như tiếng trống cứu đê. Thị qủa quyết có kẻ lạ mặt vào trong khuôn viên nhà thị hơn là sự kiện nghi con Mực ngủ mơ, gặp bác Hồ đến thăm. Tuy thế, Lựu vẫn bình tĩnh chờ đến khi chủ nhiệm Bảng gân cổ lên rít thuốc, Lựu mới lên tiếng gọi hỏi ra bên ngoài. Sự chậm chạp lên tiếng này không phải là không có nguyên do:

– Thứ nhất: Khả tính báo động chính xác của con Mực không cao. Lựu đã có nhiều kinh nghiệm về chuyện con chó mực cô đơn, không bạn bè. Lúc ngủ, nó thường mê sảng vì gặp nhiều ác mộng! Đặc biệt, từ khi bác đảng về, hầu như chả đêm nào nó được một giấc ngủ yên. Nó luôn luôn phập phồng lo sợ bác và đồng chí của bác, lợi dụng lúc nó ngủ say, nấu nồi nước sôi, đào củ riềng và cho nó ăn rựa mận. Từ lo sợ, hệ thần kinh bị căng thẳng, con Mực đã vướng vào một căn bệnh không tài nào chữa được. Nó thường hay sủa bậy, hoặc tru tréo lên như hú ma, dù chẳng có ma dại nào đến. Có lần trong lúc bực mình, Lựu tính đem con Mực tặng cho ủy ban, để các đồng chí lấy huyết lưu… tình, nhưng lại thôi.

– Thứ hai, con Mực của Lựu thuộc giai cấp bị đảng và nhà nước Việt cộng đánh gía là những kẻ nguy hiểm, chuyên phá hoại những kế hoạch rình mò bất chính của các đảng ủy viên về đêm. Nhưng thật ra, con mực này chưa bao gìơ lập được đại công cho Lựu. Hôm nay, hy vọng là một ngoại lệ. Ngoại lệ vì nhờ tiếng sủa của nó, trước tiên, chủ nhiệm Bảng sẽ tỉnh cơn mê, không vi phạm pháp lệnh hủ hóa, làm mất cung cách của nhà cách mạng nhớn. Trường hợp Bảng ngoan cố, nhất định muốn đánh chiếm mục tiêu, hoặc thấy sôi đòi ăn thì việc ấy đêm nay cũng không thể thực hiện được nữa.

– Thứ ba quan trọng hơn, chủ thuyết Lựu vẫn không mất gì, lại có dịp chứng minh và kể công với Bảng. Anh chả nên trách em. Không phải là em không muốn cho, chỉ tại con… mực.

Từ những lý luận cơ sở đó, Lựu bó buộc phải chậm chạp trong việc lên tiếng gọi hỏi ra bên ngoài. Phần Bảng, gã đau tức giữa lồng ngực nhưng không thể lên tiếng phản đối Lựu vì cái kế độc này. Tuy nhiên, chẳng may cho cả hai, khi âm thanh lanh lảnh của Lựu vừa vọng ra trong đêm tối:

-Ai đó? Ai vào nhà tôi đấy?

Đã nghe tiếng trả lời rành mạch:

– Tôi đây! Bí thư Thọ đây.

Khi nghe được giọng nói quen thuộc, Bảng, Lựu đánh thót người nhìn nhau. Rồi thật nhanh, người nữ đồng chí kính yêu của bác đã hăm hở đôi chân, giang rộng cánh tay, mở toang cánh cửa và bước ra. Y thị bước ra không một chút ngượng ngùng, e thẹn, trong lúc Bảng vã mồ hôi hột, sửa lại thế ngồi.

Phải công bình mà nói, lúc này chủ nhiệm Bảng nom tử tế hơn. Gã ngồi nghiêm chỉnh trong thế nước lụt với hai tay đưa ra phía trước ôm chặt lấy cái đầu gối. Riêng đôi mắt thì không ngừng đảo qua khung cửa, nửa như chờ đợi người khách vào, nửa lại muốn nhìn cho rõ mặt … đồng chí tốt vừa lên tiếng báo động, cứu gã thoát khỏi một tai họa nhớn. Cùng lúc ấy, từ phía ngoài sân, người khách vẻ tự nhiên nhắc bổng cái xe đạp lên bậc thềm, bảo Lựu:

– Mới có mấy ngày, nó đã quên hơi!

Nghe thế, Lựu vội đánh trống lảng:

– Mời đồng chí vào uống bát nước. Có đồng chí chủ nhiệm mới lại kiểm điểm công tác.

Thọ khựng lại một chút, rồi dõng dạc hỏi:

– Sao, công việc ở nhà tiến hành tốt đẹp cả chứ?

Lựu đứng chờ bên cửa không trả lời. Thọ bước vào, Bảng vờ niềm nở:

– Đồng chí về sớm thế? Khóa học kết thúc rồi à?

Thọ nghiến răng nhìn Bảng, ngồi vào ghế:

– Chính ra còn một ngày đi tham quan nữa, nhưng mấy hôm ở trên ấy tôi xốt ruột lắm, nên nghe đọc đúc kết xong là tranh thủ về ngay. Về đến nhà chưa kịp tắm rửa là chạy lại tìm đồng chí. Khi đến nơi, nghe vợ đồng chí bảo là đồng chí mới đi khỏi. Tôi đoán chừng đồng chí sang đây kiểm điểm công tác, nên lại phải đạp xe thêm một đoạn đường nữa. Thật vã cả mồ hôi ra. Mà công việc ở nhà tiến hành tốt đẹp cả chứ đồng chí, có trở ngại nào không?

Lựu bấm bụng cười, Bảng nói:

– Báo cáo đồng chí không. Mọi việc đều tiến hành tốt, riêng hàng tiêu chuẩn ta đã phân phối xong trước hạn định.

Thọ thở phào hơi thuốc trước mặt:

– Như vậy là tốt rồi, nay mai cấp ủy có xuống tham quan, xã ta lại tăng điểm thôi.

Nghe tin có cấp ủy xuống tham quan công tác, Lựu bỗng nhiên vui:

– Cấp ủy bao gìơ xuống hả đồng chí?

Thọ chậm rãi trả lời:

– Cứ theo tình hình được báo cáo, lần này có lẽ là căng lắm đồng chí ạ. Tôi sẽ có thảo luận thực tiễn kế hoạch đón tiếp với ủy ban và đồng chí sau. Tuy nhiên, may mắn gặp đồng chí chủ nhiệm ở đây, tôi phổ biến luôn công tác mới. Đảng ủy vừa ra chỉ thị, xã ta phải mở ngay những khóa bình dân học vụ kiểu mẫu cho cán bộ và nhân dân.

Bảng nghệt mặt ra, gã không hiểu chữ bình dân học vụ có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, không thể để cho Lựu chê Bảng dốt, gã vội lên tiếng:

– Lại học tập lý thuyết mới hả đồng chí? Không chờ Thọ trả lời, Bảng tiếp: Tôi biết ngay mà! Xã hội chủ nghĩa của ta thì có rất nhiều lý thuyết, có học đến cả đời cũng không hết. Phải thế không đồng chí?

Một người hút thuốc lào sành sỏi như Thọ cũng phải sặc khói thuốc vì câu nói của Bảng. Sau khi ho lụ khụ mấy tiếng, Thọ uống hớp nước cho khỏi chết nghẹn, trả lời:

– Nào có lý thuyết mới lý thuyết cũ gì đâu. Cấp trên ra yêu cầu, xã ta phải gấp rút tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa cho toàn thể cán bộ, cũng như quần chúng nhân dân trong xã dự khán.

Bảng bật ngửa người ra ghế:

– Tưởng gì, lại học bổ túc văn hóa à? Không biết nhà nước muốn tổ chức những lớp ấy để làm gì? Liệu nó có mang đến mối lợi thực tiễn nào cho quần chúng nhân dân là những người cả đời chỉ biết cầm cái cuốc đi lao động hay không?

Lúc mới bước vào nhìn thấy mặt Bảng, Thọ đã kém vui. Lúc này thêm cảnh câm hay ngóng, ngọng hay nói của Bảng, Thọ thêm bực mình. Nhưng vì có Lựu ngồi trước mặt, bó buộc Thọ phải từ tốn:

– Trước tiên, yêu cầu của nhà nước cho rằng, muốn cho quần chúng nhân dân hồ hởi, phấn khởi và tích cực phấn đấu để đưa cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa, ta phải làm cho quần chúng thông hiểu những chính sách, những đường lối của đảng và nhà nước đề ra. Muốn làm cho quần chúng thông xuốt các sách lược của nhà nước, không có kế nào hay hơn là việc ta phải nâng cao dân trí. Nâng cao dân trí ở đây cũng giống như việc nâng cao một cái… nhà. Nếu cái nhà thấp, ta có thể lấy gạch kê dưới chân cột cho nó cao hơn. Ngưng lại một chút, Thọ tiếp:

–         Cùng một phương án, muốn nâng cao dân trí trong các làng, xã hoặc xóm thôn, đảng đã ra quyết nghị phá nạn mù chữ. Nói nôm na cho đồng chí dễ hiểu, bác đã ra chỉ thị và đảng làm thành nghị quyết. Buộc tất cả mọi tầng lớp, từ nam phụ lão ấu, đến cán bộ các cấp, các ngành, đều phải phá bỏ cái ngu đi, rồi thay vào đó là tư tưởng đầy thông minh và sáng tạo. Việc phá bỏ cái ngu đi đã được đảng quyết nghị, áp dụng cùng lúc trên hai trận tuyến. Trận tuyến nhân dân và trận tuyến trong hàng ngũ cán bộ.

Đang nói, Thọ bỗng đưa tay khoa trước mặt:

– Đồng chí để tôi giải thích hết đã. Trong mặt tuyến nhân nhân, đảng lý luận rằng: Sau khi đã phá nạn mù chữ, phá cái ngu đi, quần chúng nhân dân sẽ sáng mắt ra. Họ sẽ biết cách đọc, cách viết và cách thông hiểu các truyền đơn, khẩu hiệu của nhà nước đề ra. Khi ấy, nhân dân không thể viện dẫn lý do không biết đọc, không biết viết, để làm sai hoặc hiểu nhầm các chỉ thị đã được ban hành. Riêng về mặt cán bộ. Đảng muốn từ đây, đảng viên các cấp, các ban ngành phải biết đọc, biết viết thông thạo các chữ dễ. Để ít nhất, có thể tự đọc được các bản văn viết sẵn. Nhờ đó, cán bộ có thể nắm được ý chính các kế hoạch, đường lối của đảng trong việc khai triển, thực hiện với quần chúng nhân dân. Đảng còn nhấn mạnh, nhờ biết đọc biết viết, ta không phạm sai nhầm. Do đó, yêu cầu của cấp ủy đặt ra là tất cả các đảng viên sinh hoạt trong chi bộ Xuân Thủy phải đăng ký, theo học các lớp bình dân học vụ vào buổi tối.

Bảng há mồm, vã mồ hôi nghe Thọ nói một hơi dài. Gã không thể ngờ, Thọ mới đi học bồi dưỡng có mấy ngày, nhưng không hiểu chữ nghĩa lấy ở đâu ra mà gã ăn nói văn hoa, trôi chảy như thế. Rồi khi nói, Thọ lại dùng nhiều chữ rất lạ tai, Bảng chỉ hiểu lờ mờ cái nghĩa của nó. Tuy nhiên, đầu óc bén nhậy của Bảng sớm hình dung ra bài tính kém đạo đức của đảng và nhà nước. Có lẽ chúng muốn bỏ những cán bộ khung, không văn hóa như Bảng chăng?

Tự nghĩ thế, hơi thuốc làm Bảng đắng cổ họng. Lý do, nay mai gã phải bỏ cái mã tấu xuống mà đi ghi tên theo học lớp bổ túc văn hoá. Nói đúng ra là đi học đánh vần A,B,C, cùng với những người chưa bao giờ nhìn thấy mặt chữ. Việc đi học tập đề quyết là không có khó khăn gì, chỉ ngại trong khóa học tập có nhiều cán bộ dưới tay, hoặc có nhiều học viên là những xã viên trong hợp tác xã Xuân Thủy, mà gã đang nắm chủ nhiệm thì thật là không còn gì chướng hơn. Khi ấy, không cần phải ai nói, tự Bảng biết cái oai phong lẫy lừng của một chủ nhiệm sẽ không còn, và rồi đời gã cũng sẽ tăm tối hẳn đi theo cái kế phá ngu này.

Khi đời gã tàn trong ngõ hẹp thì cơ nghiệp nhớn, nói trắng ra là con đường tiến lên xã hội chủ nghĩa của nhà nước chắc chắn sẽ thêm mù mịt, thêm chông gai, hoặc không còn cơ hội để mà thực hiện nữa. Sở dĩ Bảng có cái nhìn chủ quan như thế là vì, xã hội chủ nghĩa có được một ngày lẫy lừng như hôm nay, và còn lưu danh lại mai sau là do sức mạnh của cây mã tấu trong tay người đảng viên tạo ra, chứ đâu có phải là do công lao của mấy người cầm bút. Nói thế là Bảng không cần khoe, không cần đánh bóng, đầu làng cuối xóm ai mà không biết, nhờ có cây mã tấu trong tay những người như Bảng, như Thọ như Hồ, mà xã hội chủ nghĩa của Việt cộng chưa đổ. Nhưng lúc này, nếu chúng toan tính chuyện lọc lừa, bỏ Bảng, bỏ thành phần cốt cán vô văn hóa này thì chúng tìm đâu ra những người biết đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân nương nhờ?

Than xong, Bảng ngửa mặt lên nóc nhà thở dài. Tiếng thở dài của gã giống như tiếng than thở của Quận Huy vào lúc thị Huệ cùng đường. Thở xong, Bảng buồn lòng, cúi gập người xuống trên cái điếu. Tiếng kêu của cái điếu cày rất thuận tai nhưng không thể tạo cho Bảng sự hứng khởi cần thiết. Bởi lẽ, khi nhìn lớp khói đang mờ tan trước mặt, gã cho rằng công lao hãn mã của gã và của các đảng ủy viên rồi cũng tan theo bọt khói vì cái kế chọn việc cầm bút thay vì cầm mã tấu của nhà nước mà thôi. Càng nghĩ, gã càng thấy uất:

– Thật chả ai như những ông ấy, đã làm lãnh đạo mà chẳng biết gì đến lời dạy dỗ của người xưa. Nhất nghệ tinh nhất thân vinh. Nghề cầm dao của các đảng ủy viên đã thành thục, đã thành danh rồi thì còn thay đổi sang nghề cầm bút làm gì cho nó chướng? Đã tốn thời gìơ học tập mà chắc gì đảm bảo được cái kết qủa tốt?

Nói xong, Bảng giận dỗi dằn mạnh cái điếu cày xuống trên mặt bàn và nhìn cái bóng bất động trên vách. Lát sau gã e dè đặt câu hỏi:

– Ta sẽ tổ chức những lớp học ấy ra sao hả đồng chí?

Nghe hỏi, Thọ sung sướng nhìn bạn tâm giao của bác đang dở khóc dở cười vì cái lệnh phá ngu của nhà nước. Gã bình tĩnh làm những động tác cần thiết cho việc hút một điếu thuốc. Hút xong, Thọ bưng bát nước lên thấm giọng:

– Nhất thời tôi chưa có phương án chính. Nhưng hướng đi là ta sẽ cho tổ chức những lớp học bổ túc theo từng cấp bộ một.

Nghe Thọ trả lời, Bảng bỗng nhiên mừng đến rơi nước mắt. Gã mừng vì, nếu nhà nước biết tổ chức những lớp học như thế, nhà nước vẫn chưa đến nổi đổ ngay. Lý do, cán bộ vô văn hóa có ngồi học chung với nhau, sẽ chẳng ai cười ai. Riêng nhân dân, không thể biết được cái ngu dốt của các cán bộ đảng viên. Họ vẫn phải cúi đầu trước những cái thùng rỗng kêu to. Theo đó, Bảng vẫn có quyền rước cái mã tấu đi đầu trong công tác của đảng đề ra. Tự nghĩ thế, Bảng nghiêm chỉnh góp ý:

– Về điểm này nhà nước ta khá sáng xuốt và tôi nhất trí theo nhời đồng chí vừa phát biểu. Ta phải cho tổ chức những lớp học riêng rẽ, và quyết không cho phép nhân nhân ngồi học chung với cán bộ đảng viên. Vì ngồi như thế là tự làm mất hết cái uy nghiêm của người lãnh đạo. Phải thế không đồng chí?

Những tưởng Thọ và Lựu sẽ cùng gật đầu tán thành sáng kiến của mình. Không ngờ, khi Bảng vừa dứt tiếng, Thọ bảo:

– Không phải như thế. Nhà nước chỉ có dự kiến mở những lớp học tùy theo trình độ nhận thức của các học viên. Không có yêu cầu tổ chức lớp học riêng cho cán bộ và nhân dân.

Đồng chí Nguyễn văn Bảng mất bình tĩnh:

ti ếp b ài k ế

– Sao lại tổ chức ngu như thế?

Câu hỏi đã chui tuột ra khỏi mồm Bảng lúc nào, chính Bảng cũng không hay biết. Gã chỉ thấy người run lên khi bắt gặp ánh mắt nghiêm khắc của bí thư chi bộ. Qua ánh mắt ấy, Bảng tự biết cái tội phạm thượng của gã là không thể tha thứ được. Gã vội nhìn Lựu cầu cứu:

– Xin lỗi các đồng chí, tôi nhỡ mồm. Ý tôi chỉ muốn hỏi là tại sao ta không tổ chức lớp học riêng cho quần chúng và cán bộ đảng viên?

Thọ nhìn gã thay cho tiếng trả lời. Đã từ lâu, Thọ biết còn để Bảng trong ủy ban ngày nào là còn di mối họa thêm ngày đó. Tuy nhiên, kế hoạch đưa Bảng đi chưa thể thực hiện ngay được, bởi vì, còn một vài công tác hệ trọng, đang cần đến bàn tay của Bảng. Thọ đành ngậm qủa bồ hòn làm vui:

– Như đồng chí biết đấy. Đất nước ta mới được giải phóng, và vào bước đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa, còn nhiều khó khăn. Riêng bác có muôn nghìn việc phải làm. Lớn là việc lãnh đạo đảng và nhà nước, nhỏ thì lo chăm xóc đến đời sống của cán bộ đảng viên. Đồng chí vì lười không chịu đọc sách, đọc báo. Đồng chí không biết đến việc báo nhân nhân, ngày nào cũng viết bài, đăng hình bác liên quan đến những công tác nhớn như: Hôm nay đi thăm góa phụ trẻ, mai lại đến nhà cô nhi chưa chồng.

Nghe thế, Lựu cắt ngang lời Thọ:

– Đến làm gì?

Thọ rất thành thật:

– Đến làm gì thì bố ai mà biết được. Chỉ biết không ngày nào bác không phải đi.

Lựu cười mỉm chi, Thọ tiếp:

– Đồng chí không mở mắt ra mà nom. Dù muôn vàn cực khổ như thế, Bác vẫn không có nửa lời than khổ hoặc từ chối công tác. Trái lại, bác luôn ngậm sâm và mong cho có đủ sức khỏe để phục vụ quần… chúng hơn nữa. Kết qủa, sức người có giới hạn. Sau những ngày đêm đi thăm cô nhi nhớn, góa phụ trẻ, Bác đã nhược đi nom thấy, nhưng vẫn không được nghỉ ngơi. Lý do, các cán bộ ta tuy trung kiên, nhưng phần đông là những người vô văn hóa. Về mặt ngữ nghĩa ta gọi là vô văn hóa, nhưng thực chất là thiếu giáo dục. Sự kiện thiếu xót này trong lúc chiến tranh thì còn tạm chấp nhận được. Nay nước ta đã có độc lập, tự chủ, thì ta phải biến chất để trở nên những con người mới của xã hội mới. Có tích cực phấn đấu như thế, ta mới có thể tiến lên xã hội chủ nghĩa được. Trái lại, ta sẽ bước vào con đường qúa độ, tuột dốc. Riêng việc đồng chí vừa phát biểu. Thực tình là tôi không cố ý phiền trách đồng chí nông cạn, thiếu suy nghĩ. Vì có trách cũng bằng thừa. Tôi chỉ buồn. Buồn vì lúc các cán bộ đảng viên ta chưa phá ngu, bác vì suy nhược qúa độ, bị… thượng mã phong lăn ra mà thác thì biết lấy ai thay thế người?

Thọ hùng hổ, đem toàn lực, dốc trọn những lời hay lẽ phải của đảng ra giảng giải cho Bảng nghe. Dĩ nhiên, bài diễn văn của Thọ thuộc diện chẳng có đầu cũng không có đuôi, nhưng không ai nỡ trách Thọ. Không trách, vì Thọ cũng là một loại cán bộ thuộc hàng bề tôi lương đống như Bảng, và mất Thọ nhà nước sẽ lâm nguy. Bảng nói:

– Thật tình, đồng chí có trách mắng tôi vì câu nhỡ mồm ấy, tôi cũng phải chịu và tôi đã nhận khuyết điểm. Nhưng nếu được đồng chí cho phát biểu, tôi xin có vài lời góp ý.

Thọ hả dạ, nhìn Lựu:

– Đồng chí cứ tự nhiên đóng góp.

– Trước hết về mặt tư tưởng và tổ chức các lớp bổ túc văn hóa, tôi không phản đối. Lý do, tôi đã được đồng chí đả thông những ưu tư của bác và của đảng đối với các cán bộ đảng viên. Tuy nhiên, tôi có một nhận xét cá nhân. Trước hết, nếu ta cho phép nhân dân ngồi học chung với cán bộ, nhìn mặt nổi thì hợp tình họp lý, hơn thế, còn nói lên cái thống nhất ý tưởng giữa quần chúng nhân dân và cán bộ. Tuy nhiên, qua sự kiện ngồi chung ấy, nhân dân biết rõ cán bộ chưa phá ngu giống như họ. Khi ấy, làm sao ta có thể lãnh đạo được tầng lớp nhân dân? Kế đến, sau khi học, nếu ta có ra sức nói nhăng nói cuội, cắt nghĩa giảng giải những đường lối chính sách của nhà nước cho họ nghe, họ cũng không muốn nghe. Bởi vì, ta đi hướng chủ quan còn quần chúng thì khách quan. Mà việc khách quan lại thường thường hợp tình hợp lý hơn là chủ quan. Ở trong thì quáng, ngoài thì sáng là thế. Do đó, tôi sợ vì điểm xơ xuất này sẽ làm hỏng kế hoạch lớn, giống như một cái lỗ nhỏ làm đắm thuyền. Trong trường hợp ta cho tổ chức những lớp học riêng rẽ, có nghĩa ta dùng hình thức trong nhà đóng cửa bảo nhau. Việc cán bộ chưa phá ngu không đồn ra ngoài, không tạo ảnh hưởng tâm lý quần chúng. Nhân dân chỉ nhìn trên thực tế, cán bộ là những người được tuyển chọn để lãnh đạo. Nếu ta lỡ nói sai, họ cũng phải nghe. Có phải như thế không hả đồng chí thư ký?

Thọ không ngờ Bảng nhạy bén thế. Điều Bảng vừa nói rất có lý, nhưng chính Thọ chưa bao gìơ nghĩ đến. Lúc này nghe Bảng trình bày, Thọ mới có dịp nhìn xem một hoạt cảnh trong đó có Thọ có Bảng, có các cán bộ ủy viên ngồi tập đánh vần A,B,C với nhân dân thì mất mặt thật. Đã mất mặt với nhân nhân, lại thêm xấu hổ với lớp cán bộ dưới tay nữa. Sự thể là thế, trách chi Bảng cứ khư khư bảo vệ ý kiến là phải tổ chức những lớp học riêng. Tuy nghĩ thế, Thọ lại bảo:

– Ý kiến của đồng chí vừa nêu rất hợp tình hợp lý, tuy nhiên, yêu cầu ấy không thể đạt vì một nguyên do cơ bản. Ta không có đủ cán bộ giảng huấn đứng lớp. Nói cách khác, các địa phương phải tự quản, huyện không thể chi viện thêm cán bộ đứng lớp.

Bảng ngồi chết cứng vì lý luận của Thọ. Lát sau, gã gượng hỏi cho qua chuyện:

– Đồng chí dự trù phương án tổ chức các lớp học ấy ra sao?

– Nhất thời thì chưa có phương án, tôi mới chỉ có vài dự kiến. Trước tiên, tôi sẽ cho tổ chức vài lớp học thí điểm trong hợp tác xã cho các xã viên. Sau đó, sẽ chia theo từng tổ, từng khu xóm cho nhân dân học tập. Phần cán bộ, tùy theo công tác cơ sở, sẽ theo học với khu xóm hay khu vực sản xuất.

Từ nãy, Lựu cứ ngồi ngáp vặt để theo dõi cuộc thảo luận căng thẳng giữa hai cán bộ nhớn của Xuân Thủy, y thị không có hứng khởi chen vào câu chuyện. Lý do, có lớp học hay không có lớp học, đối với Lựu không thành vấn đề. Người ta đi được, Lựu cũng đi được. Nhưng lúc này, nếu không vào giường, bó buộc Lựu phải lên tiếng cho tỉnh ngủ:

– Chừng nào ta bắt đầu và việc phân bổ cán bộ đứng lớp ra sao hả đồng chí?

– Hiện tình là chưa đề quyết được ngày khai trường. Tôi mới về chưa hội ý được với chi bộ và ủy ban. Nhưng trễ lắm là một vài tháng nữa là ta sẽ bắt đầu. Phần cán bộ đứng lớp là căng lắm. Hiện nay trong toàn xã chỉ có năm giáo viên giảng dạy cho hơn mười lớp học. Họ đã đóng góp sức lao động qúa nhiều, ta không thể điều họ đứng thêm các lớp bình dân về đêm. Trường hợp có yêu cầu đòi hỏi, ta sẽ trực tiếp thảo luận với họ về các lớp học có trình độ nhận thức cao. Riêng với quần chúng và cán bộ học các lớp thấp hoặc vỡ lòng, tôi đang nghĩ đến những người có văn hóa tốt có hộ khẩu ở trong xã. Tôi dự kiến ủy ban sẽ đến động viên, mời họ ra làm cán bộ giảng huấn đứng lớp.

Bảng  hỏi chen vào:

– Những ai thế đồng chí?

Thọ nhìn qua Lựu, đáp không cần suy nghĩ:

– Thí dụ như đồng chí ủy viên thư ký của hợp tác xã là một yêu cầu tốt, kế đến là vợ đồng chí. Chị ta lúc trước đã gần tốt nghiệp tiểu học. Những người văn hay chữ tốt thuộc gia đình… cách mạng như chị ta ở Xuân Thủy không có nhiều. Sau cùng, vì yêu cầu gỉai quyết cho các tổ, các khu xóm. Ta phải đến động viên một số con cháu lý trưởng hay các điền chủ trước kia ra đảm nhận công tác phá ngu.

Nghe thế, Lựu im lặng sung sướng vì bản tin được Thọ đề bạt cái tên vào danh sách ứng viên đứng lớp. Phần Bảng, gã bất bình ra mặt:

– Việc đồng chí đề cử ủy viên thư ký, tôi không có ý kiến. Riêng… vợ tôi và con cháu các tên cường hào ác bá trước kia thì quyết không thể được.

– Tại sao đồng chí bảo không thể được. Họ dám phản đối, không nhận lời?

Bảng khoa tay trước mặt:

– Không phải tôi sợ họ không nhận lời, nhưng mặt mũi nào ta ngồi để nghe những thành phần ấy dậy dỗ. Nếu họ đứng lớp, có… chết tôi cũng không đi.

Biết Bảng không ai hơn Thọ, gã tìm lời giải thích:

– Tôi cũng biết làm như thế là khó nghĩ cho nhà nước ta lắm, nhưng khổ nỗi không động viên, không mời họ, ta không thể tìm được người giảng huấn. Đồng chí nên hiểu, đây là chuyện cực chẳng đã ta phải làm thôi. Hơn nữa, ta thường lý luận, tội cha không bắt đến đời con cháu. Do đó, ta nên tạo cơ hội cho họ giác ngộ và tham gia vào công tác xây dựng đất nước.

Bảng lắc đầu quầy quậy, gã cương quyết cho lời nói của Thọ là sai lầm, không thể chấp nhận được. Lý do, trước đây đảng, nhà nước rồi chi bộ Xuân Thủy đã từng hò hét, dơ cái mã tấu lên cao. Kết án thân nhân của những người có văn hóa kia là thành phần phản cách mạng, là bọn xấu, bọn cường hào ác bá, là tay sai của đế quốc. Sau khi kết án, đảng đã không thương tiếc, tặng cho họ mỗi người một đường dao giải phóng. Ta đã dứt khoát với thành phần ấy, lẽ nào lại phải mời con cháu của những kẻ tội lỗi ấy ra dạy dỗ cho cán bộ và nhân dân phá ngu?

Việc đi mời này, có khác gì sự kiện chính thức xác nhận cái ngu dốt của nhà nước, và xác minh sự độc ác của đảng trong việc giết… nhầm người tốt trước kia? Rồi khi đến động viên, cái lưỡi của đảng ta sẽ uốn ra sao đây? Liệu nó có giống như cái đuôi bò, đuôi trâu hoặc cái đuôi con heo ngoe nguẩy theo phản ứng đuổi ruồi bu đống phân hay không?

Đó là lý luận của tập thể. Đến diện cá nhân, nếu chẳng may Bảng bị chia vào lớp mà vợ gã là cán bộ đứng lớp thì có… chết, có mất thẻ đảng, Bảng cũng nhất định không đi. Bảng không đi bởi vì, chính Bảng đã nhiều lần mở mồm ra chửi vợ gã là đồ ngu, đồ tối dạ không biết sự gì. Nếu không nhờ Bảng đi làm cách mạng thì cơm độn không có mà ăn. Nhưng lúc này, vợ gã được đánh gía là người có văn hóa tốt, được tuyển chọn làm cán bộ đứng lớp phá ngu. Riêng cán bộ Bảng, một cán bộ rường cột, người lãnh đạo đảng và nhà nước mai sau, là chồng của thị, lại chỉ là một học viên của lớp phá ngu. Sự kiện này, nhà nước sẽ giải quyết ra sao đây? Càng nghĩ, Bảng càng chóng mặt. Bất ngờ, gã đập mạnh tay xuống trên mặt bàn, vẻ đầy khích động:

– Như thế sẽ hỏng. Nhất định là hỏng!

Cùng với tiếng nói của Bảng, mặt bàn rúng động và cái tim đèn dầu xã hội chủ nghĩa, tự động tụt dốc theo cánh tay Bảng. Trước mặt Bảng chỉ còn một ánh lửa sắp tàn. Cũng may, Lựu có nhiều kinh nghiệm trong việc trồi sụt không đều của cái tim đèn, y thị đã nhanh tay vặn ngược cứu nguy. Riêng cái điếu cày thì không còn phương cách giải cứu. Do sức dội khá mạnh, nó bật tung lên rồi đổ kềnh xuống trên mặt bàn. Khi đổ, nước trong ống điếu tuôn ra giữa bàn một vũng xền xệt màu đen đậm với một mùi khai khó ngửi. Lựu nhìn thấy, vội xuống bếp lấy miếng dẻ rách nhúng vào thau nước, đem lên lau chùi. Bảng ái ngại chống chế:

– Xin lỗi đồng chí, tôi sơ ý qúa.

Lựu nhỏ nhẹ:

– Có gì đâu mà lỗi với phải, nhưng hồi nãy tôi nghe đồng chí bảo hỏng, không biết là hỏng cái gì?

Bảng đáp như có sẵn chủ đích:

– Thì cái lớp phá ngu gì đó sẽ làm hỏng cơ nghiệp lớn của đảng, và sự an ninh của tổ quốc cũng theo đó mà lâm nguy.

Lựu giật mình ngừng tay nhìn Bảng, trong lúc Thọ bậm môi, nghiến răng vì cung cách phát biểu không có chỉ đạo của chủ nhiệm Bảng. Phần Bảng, gã lại tự tin vào cái lý luận độc đáo của mình:

– Các đồng chí hãy bình tĩnh nghĩ thử xem. Cái lớp học phá ngu ấy tuyệt đối không có lợi, chỉ có hại. Thứ nhất, như tôi đã nói lúc nãy. Khi quần chúng nhân dân được phá ngu, họ sẽ biết hết cái ngu của nhà nước ta. Kế hoạch ta chưa thi hành, họ đã biết trước là đúng hay sai. Do đó, ta không thể dùng con dao để lừa bịp được nữa.

– Thứ hai, khi quần chúng nhân dân, gìa trẻ lớn bé đều biết đọc biết viết thì đó là một tai họa lớn cho nền an ninh của tổ quốc. Thời gian gần đây, truyền đơn chống phá cách mạng của thằng địch đã rải cùng khắp mọi xóm thôn. Quần chúng nhân dân không biết đọc, không biết viết, họ có nhặt được những loại truyền đơn phản tuyên truyền ấy cũng như không. Kết qủa, thằng địch gian ác viết bậy viết bạ, hoặc muốn vạch trần tội lỗi của đảng, của nhà nước cho nhân dân biết, nhân dân cũng không thèm biết. Từ đó, nhân dân vẫn hết lòng hết dạ vững tin theo lời đảng lời bác. Và thằng địch thì phí công phí của, thêm tốn sức lao động mà không thu được kết qủa nhỏ nào. Nhưng…

Bảng vờ ngưng lại một chút để quan sát người đối diện, tiếp:

– Nhưng nếu nhà nước ta mở những lớp phá ngu, dạy cho quần chúng nhân dân khắp cả nước biết đọc biết viết, tôi nghĩ, trên cơ bản văn hóa là một điều tốt. Nhưng tuyệt dối không phải là một điểm có lợi, nếu như ta không muốn nói là tự rước họa vào mình. Là họa vì khi nhân dân nhặt, và đọc được những truyền đơn của thằng địch viết. Nhân dân sẽ hiểu hết những tội lỗi ghê gớm của bác của đảng đã gây ra cho nhân dân. Tôi hỏi đồng chí, khi ấy còn ai muốn tin vào nhời giáo huấn của bác?

Nghe thế, Thọ tằng hắng định lên tiếng cắt lời Bảng. Bảng nhanh mồm bảo:

– Đồng chí cho tôi phát hết đã. Đúng thế. Nhân dân sẽ so sánh những lời dụ hoặc đường mật của địch với những hành động cụ thể do nhà nước gây ra. Kết qủa của việc so sánh ra sao chắc đồng chí đã biết trước. Như thế, ta muốn phá ngu cho nhân dân là một chủ đích tốt, nhưng lại không thể áp dụng được. Lý do, thằng địch không bỏ lỡ cơ hội, vồ lấy điểm nhược của ta để biến thành lợi khí tuyên truyền cho chúng. Nói cách khác, khi mở sách phá ngu là chính ta đã dại dột, tiếp tay cho địch có cơ sở để chống phá nhà nước, và lật đổ ghế ngồi của xã hội chủ nghĩa. Từ lý luận cơ sở này, tôi đề quyết phá ngu không phải là chính sách tốt. Trái lại, muốn cai trị lâu dài, muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa, ta phải dẹp bỏ cái sách phá ngu ngay. Bởi vì nhân dân càng ngu, đảng ta càng dễ cai trị.

Sau khi phát biểu ý kiến, Bảng hứng khởi đưa ra lời cố vấn chí tình cho chi bộ Xuân Thủy trước khi Thọ lên tiếng:

– Trường hợp đảng không thể rút lại kế sách ấy. Tôi đề nghị với đồng chí nên áp dụng phương án cứu nguy cho Xuân Thủy ta bằng cách, nại ra một vài khó khăn cụ thể như thiếu phòng học, chưa đủ cán bộ đứng lớp để thư thả hãy mở lớp phá ngu cho nhân dân. Nếu bị ép thúc qúa, ta có mở vài ba lớp cũng chả muộn.

Sắc diện Thọ biến đổi theo từng lời Bảng lý luận. Khởi đầu, Thọ bất bình vì cái thói hay phát biểu linh tinh của Bảng. Đến khi nghe rõ những lý luận, những nhận định, đánh gía có cơ sở của Bảng. Thọ đã mở bừng đôi mắt ra để chiêm ngưỡng một lý thuyết gia lỗi lạc của đảng ở Xuân Thủy là chủ nhiệm Nguyễn văn Bảng.

Lúc ấy, Thọ không thể không khâm phục Bảng. Bởi vì, ngay trong khóa học bồi dưỡng có cấp ủy tham dự, cũng không một người nào có đủ trí khôn để đưa vấn đề an ninh của tổ quốc ra bàn thảo đúc kết. Cũng không có ai biết nhận định, đánh gía được sự tác hại về nguyên tắc lãnh đạo lâu dài do chính sách phá ngu gây ra. Nhưng riêng Bảng, chỉ vừa nghe Thọ nói qua việc phá ngu. Bảng đã có so sánh, đã đánh gía đúng tầm mức quan trọng của toàn bộ vấn đề. Điều đó cho thấy, Bảng là người có trí khôn trổi vượt hơn cả những đồng chí lãnh đạo đảng. Nên chuyện một ngày nào đó, Bảng sẽ lên thay bác cũng không có gì là lạ. Thọ nói:

– Không một người nào sống trên qủa địa cầu này dám phản đối, hoặc phủ nhận cái lý thuyết sáng xuốt, đầy gía trị của đồng chí vừa phát biểu. Tuy nhiên, bác và đảng đã có sẵn dự kiến. Bên cạnh chính sách phá ngu, đảng sẽ cho tăng cường về vấn đề an ninh của tổ quốc. Rồi nhờ chính sách phá ngu, nhờ sự kiện biết đọc biết viết, ta sẽ tóm được toàn bộ những thành phần chống đối, muốn phá hoại thành qủa cách mạng. Đồng chí đã nghe câu: Câm hay ngóng, ngọng hay…viết. Những kẻ mới học viết, thế nào cũng ngứa tay ngứa chân, muốn chứng tỏ ta đây biết đọc biết viết hơn người. Chúng sẽ có khuynh hướng viết bậy viết bạ lên giấy, lên tường. Khi viết, chúng không ngờ sẽ để lại mẫu tự, dấu tay. Ta cứ theo đó truy cứu, chúng có mọc cánh bay lên trời cũng không thoát được bàn tay an ninh của đảng. Do đó, chính sách phá ngu của nhà nước ta giống một mũi tên chữa bá bệnh. Một phía là giải được cái ngu trong đảng và trong quần chúng nhân dân. Một phía là làm cho kẻ địch phải chừa ngay cái thói viết truyền đơn tuyên truyền, chống phá nhà nước. Có phải như thế không hả đồng chí thư lý?

Lựu bình chân trả lời, một câu trả lời hoàn toàn có lợi cho Lựu:

– Sách lược của đảng đã đề ra, tôi quyết là không sai nhầm.

Bảng ngẩn người nhìn Lựu nghiêng hẳn về phía Thọ, gã không còn gì để nói ngoài việc nuốt hết những nỗi uẩn ức kia xuống tận đáy dạ dày. Sau đó, đưa tay với lấy cái điếu, làm thêm bi thuốc rồi đứng dậy trả cái giường của Lựu lại cho Thọ:

– Có lẽ giời đã khuya rồi, xin kiếu đồng chí tôi về trước nhá.

Thọ vờ bảo:

– Chờ tôi hút xong điếu thuốc rồi tôi đưa đồng chí về.

– Chả dám làm phiền đồng chí, vì giời đã tối lại thêm đồng chí chưa ăn cơm chiều.

Nói xong, Bảng bước ra cửa:

– Xin chào đồng chí thư ký nhá.

Lựu làm như có ý lưu khách:

– Đồng chí ngồi chơi thong thả đã!

Miệng nói, chân bước ra cửa tiễn khách. Ra khỏi cửa, Bảng đi thẳng ra ngõ, thay vì vờ vịt vài câu gỡ gạc với Lựu theo thông lệ. Rồi mặt đất không tội tình gì, bỗng nhiên phải nằm trơ ra đón nhận cơn thịnh nộ với gót chân nện mạnh của chủ nhiệm Bảng. Con Mực đang nằm trong góc sân, lại giật mình tru tréo lên. Tuy nhiên, nó không tru tréo lâu, bởi vì nó rất thông cảm với nguyên do giận giữ của Bảng. Thọ đã về phá đám. Tệ hơn thế, Thọ còn mang về bản tin giết người của nhà nước.

 

 

 

Chương mười ba  ******************************************************************

*******************************************************************

Mùa hạ năm 1957, chiến dịch phá ngu được phát động rầm rộ khắp vùng Xuân Thủy. Nhưng phải chờ gần hai tháng sau, khóa học đầu tiên dành cho cán bộ đảng viên Xuân Thủy mới bắt đầu. Khóa học này có hơn hai mươi mái đầu, bạc chưa bạc, xanh chẳng xanh, lần đầu tiên cắp sách đến trường. Người học viên có chức vụ cao nhất là phó chủ tịch ủy ban, kiêm chủ nhiệm hợp tác xã, kiêm chủ tịch ủy ban phá ngu Xuân Thủy, Nguyễn văn Bảng. Kế đến là các cán bộ đầu ngành, giữ các chức vụ từ trọng yếu đến không trọng yếu trong xã.

Sự thật, chiến dịch phá ngu đã tạo ra nhiều xôn sao, tranh luận sôi nổi tại Xuân Thủy. Có người sớm nhận định rằng: Nếu hôm nay cán bộ nhà nước biết bỏ cây mã tấu xuống, chắc không bao lâu nữa, tâm địa họ sẽ thành… phật. Và rồi, khi cán bộ biết cầm cái bút, họ sẽ học được cái đạo trị nước an dân của thánh nhân. Như thế, đời sống của nhân dân bó buộc phải trở lại thời đại Nghiêu Thuấn.

Trái với lý luận trên, một số đông đáng kể lại ngoan cố, nghi ngờ rằng: Chuột vẫn hoàn chuột. Anh cán, chị cán cầm cái bút hoặc con dao đều giống nhau. Biện minh cho trường phái này là một suy nghĩ cơ bản. Người xưa học cả đời, sách đọc hàng bồ, rồi tu thân tích đức, đến khi ra làm quan vẫn còn nhầm lỡ. Còn anh cán, chị cán của nhà nước, chỉ học được dăm ba chữ ê a đánh vần thì lấy tài, kiếm đức ở đâu ra mà trị nước? Ấy là chưa kể đến cái tâm của cán biộ làm việc gì thì cũng luôn luôn hướng về cây mã tấu đi đầu.

Nói thì như thế, nhưng thật ra, người dân dầu không muốn cũng  vẫn phải chào đón dịch phá ngu của nhà nước một cách khá hồ hởi. Bởi vì, mỗi khi chiều xuống, họ đã dám nhìn nhau, đã tạm quên, tạm xa rời những hình ảnh, những bài học kinh hoàng của những ngày dài đấu tố. Và thay vào đó là những tiếng cười bỡ ngỡ của ông gìa bà cả bên cái điếu, bên miếng trầu, bên tiếng ê a của lũ bé thơ lần đầu tiên nhìn thấy những vòng chữ A,B,C, to bằng con gà mái trên tấm bảng.

Hơn thế, nhân dân lại có dịp được nom thấy những người trẻ, mà nhà nước trước kia, lúc khai dao mở hội đã anh dũng tặng thân nhân, cha mẹ của họ một đường dao giải phóng, rồi gạt họ ra ngoài mọi sinh hoạt của xã hội. Nay vì tình thế, họ được nhà nước đánh bóng, mời trở ra, góp công góp sức vào chiến dịch phá ngu của nhà nước! Trước cảnh dở khóc dở cười này, nhân dân đã lặng thinh và cầu mong có được một ngày mai khá hơn là cái bi đát hiện tại. Về phía cán bộ nhà nước, cũng có những ưu tư riêng. Tuy nhiên, không một kẻ nào dám nói ra điều suy nghĩ của mình.

Riêng Bảng, mấy hôm trước ngày khai trường, theo lệnh của Thọ, gã điều năm xã viên đến thu dọn sạch sẽ căn nhà bỏ hoang bên cạnh nhà kho, để làm lớp học phá ngu cho cán bộ. Căn nhà nhỏ này, trước đây được dùng làm văn phòng của hợp tác xã. Nhưng vì ít người qua lại, cũng không người chăm sóc, Bảng quyết định dời văn phòng lên khu nhà kho cho tiện, còn căn nhà này, giao cho nhện giăng màn làm tổ, và cho cỏ dại, bìm bịp ngự trị. Nay nếu nó được dùng như là một nơi để phá ngu cho cán bộ ở Xuân Thủy thì cán bộ Xuân Thủy phải biết đây là cái công lao tranh đấu của riêng Bảng. Không ngờ, đến trước ngày khai trường, Thọ đổi ý, gã mượn một lớp học của trường tiểu học Xuân Thủy để làm nơi học tập cho cán bộ thay vì dùng căn nhà tồi tàn kia. Việc thay đổi này, theo Thọ, có hai dự kiến:

– Thứ nhất, Thọ sẽ trịnh trọng báo cáo cho cấp ủy biết, chi bộ Xuân Thủy rất tích cực trong chính sách phá nạn mù chữ của nhà nước.

– Thứ hai, cho nhân dân toàn xã hiểu được tầm mức quan trọng trong chính sách phá ngu. Bằng chứng là các cán bộ đảng viên, xuốt đời chỉ biết cầm con dao mã tấu đi đấu tố nhân dân, một công tác vô cùng nặng nề, buộc cán bộ phải làm cả ngày lẫn đêm. Nhưng nay họ đã cải tà đến lớp, để được khai tâm mở trí và đọc sách thánh hiền.

Quyết định của Thọ là một quyết định sáng xuốt, chỉ tiếc công của Bảng. Gã đang lưng trần cùng với mấy ngươi xã viên quần lăn qua đầu gối, hùng hục dọn dẹp nhà cửa cho kịp thời hạn, bất ngờ phải dừng tay:

– Anh bảo cái gì?

Người đưa tin kính cẩn đáp:

– Báo cáo ông chủ nhiệm, đồng chí bí thư bảo tôi đến đây, báo cáo với ông chủ nhiệm là chi bộ đã quyết định đổi địa điểm của lớp học. Không tổ chức tại văn phòng hợp tác xã nữa.

Bảng bực mình, xỏ tay vào cái áo màu cứt ngựa đã bạc:

– Lệnh với lạc gì mà cứ thay như thay áo thì bố thằng nào mà thi với hành được! Được anh cứ về trước đi, để tôi di gaặp đồng chí ấy.

– Bẩm ông chủ nhiệm, việc ấy thì chả phải gặp nữa. Đồng chí ấy bảo thế!

Mắt Bảng như rách toạc ra.

Đến ngày khai trường, khi trời vừa chập choạng tối, chung quanh khu vực trường tiểu học đã có lác đác năm ba cán bộ đảng viên tắm rửa sạch sẽ, áo quần tươm tất đứng ngơ ngác nhìn nhau. Họ nhìn nhau mà lòng ngại ngùng không nói nên câu. Chả ai nỡ trách các đồng chí lạnh nhạt với nhau. Bởi lẽ, họ đã không ngờ có một ngày phải gặp mặt nhau ở một nơi, mà suốt đời họ, không một lần dự trù sẽ đặt chân đến. Từ đó, họ đã giao cho nhau ánh mắt hoàn toàn xa lạ và mất niềm tin. Xa lạ, không phải vì không quen biết nhau, giống như trường hợp đứa bé con, lần đầu tiên trong tay mẹ bước đến trường, thấy toàn người lạ cảnh lạ. Nhưng xa lạ, vì hiện trường công tác không giống những khung cảnh quen thuộc trong đôi mắt người cán bộ, đảng viên. Đã thế, trong tay lại không có lấy một tấc sắt để phòng thân. Đến khi ngửa mặt nhìn lên, chỉ thấy một nóc nhà u tịch nổi lên giữa khoảng trời đen thẳm. Lúc ngó xuống lại thấy đôi tay chai cứng dạn dày gío mưa, vốn dĩ chỉ quen với cái cuốc cái cày, với con dao mã tấu, với khẩu súng. Làm sao họ có thể thân quen được với cái bút, cuốn vở?

Tệ hơn thế, có kẻ xuống sắc, mất niềm tin. Từ ngày vào đảng, cán bộ đảng viên, được bác rồi đảng tặng cho mỗi người một con dao mã tấu để làm lẽ sống. Chẳng nói ra, ai cũng biết con dao và người đảng viên tuy hai mà một, không thể tách rời, xa nhau. Lúc này, bỏ con dao xuống, coi như cuộc đời của họ đã chết đứt một nửa, còn một nửa kia biết phải làm gì để tồn tại? Dăm ba cái chữ ê a đánh vần kia, liệu có đảm bảo được cơm no, quyền lực và bước đường hoạn lộ của người đảng viên hay không? Họ tự hõi thế là bởi vì. Nói về chữ nghĩa thì con cái  những tên phú hộ kia bụng chúng đầy chữ, cần gì đến lớp đảng viên này?  Khéo mà chỉ dùng lớp này chém lớp kia thôi!

Từ muôn vàn những hoang mang ấy, khi trời mờ tối là chỗ tụm năm, nơi túm ba những mái đầu đồng chí, bò sát lại bên nhau than thở. Than thở cho cuộc đời làm cán bộ. Ôi! Những tưởng có cây mã tấu là tự động đi vào vinh quang với lá cờ đỏ. Ai ngờ, đường đời lại thêm nỗi gian truân với cơn ác mộng lớn là cây bút.

Đến khoảng 7 giờ tối, một vệt sáng xuất hiện và lớn dần từ một con đường làng. Càng lúc, người ta càng nhìn rõ những bóng đen chập chờn như bóng ma trơi dưới ánh đèn. Dẫn đầu là chủ nhiệm Bảng với cái đèn ”măng sông” trong tay. Kế đến, bí thư Lê Thọ rồi thư ký Lựu. Đi đoạn hậu là hai anh cán trong đội ngũ sản xuất.

Đến nơi, Bảng không rằng không nói, gã đi thẳng vào trong và treo đèn lên cái móc đã làm sẵn ở giữa lớp học. Trong khi đó, bí thư Thọ, vồn vã đứng trước cửa lớp, dùng hai tay vỗ vào nhau kêu bôm bốp:

– Nào, mời các đồng chí. Ta tranh thủ vào lớp khai mạc, kẻo trễ.

Theo lời mời của bí thư Thọ, các anh chị cán, đảng viên thoáng ngượng ngùng rồi khẩn trương vào lớp tìm chỗ ngồi. Một điều rất lạ, làm bác nở mày nở mặt trong đêm nay. Đó chính là hiện tượng, các cán bộ không một người nào lên tiếng, nhưng tất cả đều muốn tranh nhau ngồi vào hàng ghế cuối, và quyết dành chỗ hạng… nhất cho người anh em chậm chân vào sau. Đây là một điểm son, một nghĩa cử cao đẹp và đầy can đảm của các cán bộ đảng viên. Nó hoàn toàn khác với cung cách sẵn có của cán bộ, là những người, tuy thuộc giai cấp ngắn trí khôn, nhưng chả bao gìơ muốn ngồi hàng ghế sau.

Sau khi các học viên ổn định chỗ ngồi, Lê Thọ đảo mắt nhìn quanh căn phòng một vòng, trịnh trọng lên đứng trước tấm bảng đen. Gã mở lời chào mừng, nói dăm ba câu khích lệ, động viên tinh thần các học viên hăng say học tập để hoàn thành kế hoạch phá ngu của nhà nước. Trong lời khích lệ ấy, Thọ không quên giảng giải và nhấn mạnh đến tầm mức quan trọng của chính sách cho các học viên nắm. Sau cùng, Thọ trịnh trọng giới thiệu người nữ cán bộ đứng lớp Lê thị Lựu đến các học viên.

Vừa dứt lời giới thiệu, Thọ tự động vỗ tay. Các học viên thấy bí thư đã vỗ tay, họ khẩn trương vỗ theo không một thắc mắc. Sau tràng vỗ tay, không khí lớp học tự nhiên ngột ngạt. Cũng may, đồng chí thư ký nhanh chân bước lên và nhoẻn miệng cười. Nhờ nụ cười xã hội chủ nghĩa, và nhờ những đường nét đẫy đà của Lựu sau bộ áo cánh hở cổ đã lấy lại phần nào hứng khởi cho các học viên

– Chào… chào các đồng chí!

Rõ chán! Giữa lúc các đồng chí của Lựu hoa mắt. Kẻ bận ngắm khúc trên, người dí đôi mắt vào phần dưới thắt lưng của Lựu, Lựu lại mở lời chào nhạt như nước… ốc, nên chẳng ai đáp lại lời chào của Lựu. Lựu không buồn, không trách những đôi mắt bất kính kia. Hơn thế, Lựu cũng không muốn mất thì giờ trong việc giải thích cho các học viên biết, việc thân thể người ta được chia ra làm ba bốn phần nẩy nở, kích thích không đều nhau là chuyện thường tình, các học viên của Lựu chả nên thắc mắc. Thay vào đó, Lựu bắt đầu triển khai công tác.

Nhớ lại, từ khi được Thọ chính thức báo tin, Lựu được tuyển chọn đứng lớp dạy phá ngu cho các cán bộ đảng viên trong xã, Lựu đã nửa mừng nửa lo. Lựu mừng vì đảng đã đánh gía đúng đắn được cái khả năng ngoại hạng của mình. Nhưng cũng thêm lo vì không biết phải thuyết phục các học viên của thị như thế nào, để họ khả dĩ tin rằng thị là người, ngoài mặt được nhìn như là một thứ hộ lý cơ bản, không thể thiếu trong công tác đảng. Nhưng trên thực tế, thị lại là một người có đủ khả năng đứng lớp, khai tâm mở trí cho các bạn bè của bác hết ngu. Qủa là mọt công tác nhớn. Nói thì như thế, nhưng thật ra, Lựu phải vã mồ hôi nhiều lần mới nắm được cái chức vụ cán bộ đứng lớp tối nay. Chả cần phải nói đâu xa, ngay tôi hôm qua, đã qúa nửa đêm rồi mà còn phải đưa Thọ vào giường bàn công tác cho việc đứng lớp này.

Chính vì có những nỗi ưu tư riêng đó, lúc đứng trước những khuôn mặt sầu đời của các học viên, Lựu mới thấy mình khó ăn khó nói. Sự thật thì Lựu khá thạo tay nghề, nhưng lại bị lúng túng trước những đôi mắt đục, đỏ của các đảng ủy viên, là những người hầu như không có ý nhìn vào những mặt chữ. Trái lại, họ luôn có khuynh hướng đặt nhầm đôi mắt lên những khúc lồi lõm khác nhau trên thân thể Lựu ở giữa đám đông. Sự kiện này làm Lựu khó chịu ra mặt. Phải mất một lúc sau, Lựu mới lấy lại được bình tĩnh.

– Thưa các đồng chí, đúng như nhời đồng chí bí thư vừa báo cáo. Chính sách phá ngu là một chính sách vô cùng quan trọng và khẩn thiết do nhà nước đề ra. Đề ra với một yêu cầu rõ rệt là mọi người, mọi nhà, phải biết đọc, biết viết, biết bỏ cái ngu đi và thay vào đó là những tư tưởng ưu việt đầy sáng tạo của xã hội chủ nghĩa. Cách đây mấy tháng, chi bộ đã thực hiện công tác này tại khắp xóm thôn cho quần chúng nhân dân dự khán. Và hôm nay, ngày cao điểm của việc phát động, đảng đã mời các đồng chí đến đây để phá ngu.

Lựu ngưng lại sau câu nhập đề khá trôi chảy, y thị tự tin nhìn các học viên, tiếp:

– Như các đồng chí biết đấy, công tác này không thể một sớm, một chiều, ta có thể hoàn thành được. Tuy nhiên, chính sách của đảng đã đề ra, nó có kéo dài hàng trăm năm, hơn thế, hàng nghìn năm thì ta vẫn phải kiên trì thực thi. Do đó, ngay từ lúc khởi đầu, tôi đề nghị các đồng chí hãy nêu quyết tâm cao để chúng ta cùng đạt yêu cầu…

Nếu bảo các đồng chí của bác là những người ngắn trí khôn, thật không oan một tý nào. Lý do, trong lúc Lựu chỉ muốn xác định lại vị trí của người đến dạy phá ngu cho bạn bè, anh em của bác trong chi bộ thì những người đã nửa đời đi làm cách mạng lại nhỏ nhen nổi giận. Có kẻ xếch ngược đôi mắt lên như muốn ăn tươi nuốt sống người nữ đồng chí. Lại có kẻ lạnh lùng ném ánh mắt qua khung cửa, hoặc nghiến răng ken két:

– Đẹp tốt gì cái thứ cán bộ dạng… chân mà lên mặt!

Từ trên ngó xuống những ánh mắt nặng, buồn, những khuôn mặt méo mó đổi sắc, Lựu hài lòng lắm. Thị hài lòng vì sự thua thiệt trong công tác trao đổi với lãnh đạo, ngày nay đã được trả bằng một vinh dự to nhớn. Như thế, từ đây chả còn ai dám nhỏ to bình phê về công tác riêng của thị với lãnh đạo nữa. Qủa đã ứng nghiệm nhời của Thọ bảo Lựu khi xưa:

– Đôi chân khép mở của người nữ đồng chí, sẽ trở thành những bước vĩ đại trong lòng đảng.

Khi nghe câu nói ấy lần đầu, Lựu không dám tin. Lúc này Lựu không muốn tin, vẫn phải tin! Thị tiếp:

– Báo cáo các đồng chí, vừa rồi tôi chỉ trình bày sơ qua cái khung của chính sách phá ngu. Riêng việc thành bại của chính sách này, nó hoàn toàn tùy thuộc vào sự tích cực đóng góp của các đồng chí. Phần tôi, tuy là cán bộ đứng lớp, nhưng thật ra, chỉ là người chỉ điểm cho các đồng chí trong bước đầu thôi. Sau này sẽ có người khác đến thay thế, nâng cao sự nhận thức của các đồng chí. Vậy đề nghị các đồng chí đừng ngại khi cần phải đặt câu hỏi nhá. Các đồng chí nắm rõ rồi chứ?

Nói xong, Lựu rồi Thọ, mỗi người ôm một chồng tập vở, đến phát cho các học viên theo tiêu chuẩn mỗi người một cuốn và một cây bút chì. Đây chính là phần thưởng đặc biệt, dùng để khích lệ, động viên tinh thần cho các cán bộ hăng say học tập, được gởi xuống từ Xuân Trường.

Phần Bảng, từ khi Lựu bước lên trước tấm bảng đen, đôi mắt Bảng chả lúc nào rời xa ngọn núi nhấp nhô trước ngực Lựu. Bảng nhìn và không màng chi đến những lời khiếm nhã của Lựu. Trái lại, Bảng mơ màng nhớ đến chuyện dở dang hôm nào. Càng nhớ, Bảng càng tiếc. Rồi giữa lúc gã xây giấc mộng vàng cho một ngày tái chiến, Lựu đến trước mặt Bảng. Y thị mỉm cười, ân cần trao vào tay Bảng cái bút và cuốn sách. Bảng ngỡ ngàng, nhìn Lựu và tưởng chừng như trong một giấc chiêm bao.

Khi Lựu vừa bước sang dãy bàn khác, Bảng âm thầm cúi xuống cầm thử cây bút chì lên tay. Cái màu nửa xanh nửa đỏ của cây bút không làm Bảng gợi hứng. Trái lại, Bảng thấy những ngón tay gã cứng đờ, va chạm vào nhau. Bảng cố gắng, vẫn không thể nào cầm được cái bút một cách gọn nhẹ. Lúc Bảng đặt thử giữa hai ngón tay, cây bút lắc qua lắc lại, không nằm im theo ý muốn của Bảng. Nó vuột ra ngoài và rơi xuống đất. Bảng cúi xuống nhặt lên, gã đưa ra trước mặt nhìn ngắm, nỗi thất vọng hiện lên mặt:

– Nhầm! Thật là một sai nhầm lớn!

Cùng lúc ấy, Lựu trở lại vị trí trước tấm bảng đen, thị quay mặt nhìn các học viên:

– Còn đồng chí nào chưa nhận bút và sách cho biết?

Khi biết chắc các học viên của mình đã có đầy đủ khí giới trong tay, Lựu để vài cuốn vở còn dư xuống trên mặt bàn. Sau đó, Lựu cầm lấy cục phấn, đứng xoay cái mông nhô lên cao trước mặt các học viên, y thị viết đủ hai mươi ba chữ cái trên tấm bảng đen. Rồi ngay phía dưới hàng chữ cái, Lựu viết hai câu  thơ để kính bác:

Bác Hồ sống ở trong quần,

Chúng em phụ nữ ân cần cới cu ( thiếu dấu nặng)!

Đây là  hai câu mà Lựu cho rằng nó có gía trị văn hóa cao của đảng. Viết xong, Lựu quay về phía các học viên, mỉm cười cầu hiền:

– Báo cáo các đồng chí, trên đây tôi vừa viết 23 chữ cái của tiếng mình. Những chữ này, nếu đem ghép lại với nhau nó biến thành tiếng nói của đảng ta. Và phía dưới hàng chữ cái, tôi cũng viết sẵn một hàng chữ ngắn. Yêu cầu của buổi học đầu tiên tối nay là phân chia trình độ và xếp lớp. Nếu đồng chí nào kinh qua 23 chữ cái, có thể đánh vần hoặc đọc thông thạo hàng chữ bên dưới thì sẽ theo một lớp học khác. Riêng các đồng chí chưa qua được phần chữ cơ bản này, ta sẽ học lại từ đầu. Các đồng chí nắm rõ cả chứ?

Không một tiếng trả lời, Lựu vẫn bình thản đưa tay ra mời:

– Nếu các đồng chí không có thắc mắc gì, mời các đồng chí tranh thủ đánh vần đi cho. Đồng chí nào đọc được hết, xin mời sang ngồi bên phía tay trái của lớp học. Đồng chí nào chưa kinh qua cơ bản, ta ngồi lại bên tay phải.

Lựu dứt lời từ lâu, lớp học vẫn yên lặng như tờ và không có một học viên nào đủ can đảm dơ tay xin thi. Những ngừời  biết đọc biết viết thì da phần bất mãn, những kẻ khác thì chữ nặn không ra nên không dám dơ tay lên. Trước tình thế nan giải, Thọ bó buộc phải đứng lên động viên:

– Nào mời các đồng chí, ta tranh thủ đi cho.

Thọ nhìn quanh chờ đợi, chỉ có những đôi mắt nhường nhịn nhau, không một người lên tiếng. Thọ quyết định đi trước, làm gương cho các cán bộ đảng viên noi theo. Gã đứng thẳng, dõng dạc đọc to 23 chữ cái trước mặt mọi người theo dấu chỉ của cái que tre trong tay của  Lựu.. Khi nghe Thọ đọc rõ ràng từng chữ một, nhiều học viên kinh ngạc đến vã mồ hôi. Riêng Bảng cúi gầm mặt xuống còn Lựu thì đứng ưỡn ngực vỗ tay tán thưởng. Sau tràng pháo tay mừng Thọ kinh qua 23 chữ cái, một học viên ngồi giữa lớp hiên ngang dơ cao cánh tay:

– Báo cáo đồng chí giảng viên, tôi xin thử.

Lựu ngỡ ngàng, ngẩn ngơ và mừng đến rơi nước mắt vì tiếng gọi đồng chí giảng viên vừa phát ra từ một người học viên của Lựu. Lựu không ngờ, đời Lựu, lại có lúc được gắn liền với hai cái chữ ngọt ngào đầy trí thức, tột cùng danh vọng ấy. Y thị cười híp mắt, đẩy đưa:

– Xin mời đồng chí!

Chị học viên được mời phấn khởi đứng thẳng người dậy. Chị bắt đầu uốn cong lưỡi, đọc lớn tiếng từ A, B, cho đến chữ cuối cùng khá trôi chảy. Rồi thị ngẩn người để nhận một tràng pháo tay tưởng thưởng. Tiếng vỗ tay vừa dứt, Lựu hỏi dại:

– Đồng chí có thể đánh vần và đọc nổi hàng chữ phía dưới không?

Chị học viên anh dũng trả lời:

– Báo cáo đồng chí, tôi đọc được!

Lựu lại đưa cánh tay trần ra mời. Lúc này, chị học viên vẻ lúng túng trước những đôi mắt đang hướng về mình. Lựu trấn an thị:

– Đồng chí cứ bình tĩnh, đọc từng chữ một cho rõ ràng nhá.

– Tôi rõ.

Trả lời xong, y thị tròn vo cái miệng và bắt đầu đánh vần:

– Bờ a ba… cê… bác sắc… bác. Hò…ô hô…ô hô huyền Hồ. sờ ơ…sơ huyền… sờ, không phải, chữ ấy là sờ ô… sô…

Cả lớp học kinh ngạc, trố mắt nhìn chị học viên như nhìn một quái nhân. Nhưng thật ra, chị ta không phải là một quái nhân. Chị ta là một cán bộ sản xuất, kiêm chủ tịch hội phụ nữ đã được giải phóng ở Xuân Thủy. Chị ta có một cái tên khá đẹp: Hồ thị Thanh Tú.

Nữ đồng chí Hồ thị Thanh Tú không phải là người sinh trưởng ở Xuân Thủy. Quê quán riêng của thị ở đâu, ít nghe nhắc đến. Thị Tú được điều về Xuân Thủy để nắm giữ chức vụ này sau ngày chia đôi đất nước, và ngay sau khi bác bỏ hang Pắc Pó mò về Hà Nội. Theo đó, đồng chí Hồ thị Thanh Tú, có một dĩ vãng không tầm thường, chỉ tiếc con đường công danh hoạn lộ, con đường xây dựng gia đình của chị kém may mắn.

Nghe đồn trong thời kháng chiến, Hồ thị xuất hiện như một ánh sao băng ngang hàng với bác ở hang Pắc Pó. Hồ thị là một người duy nhất có quyền ra vào trong hang mà không cần phải có lệnh mời của hang trưởng. Lý do, Hồ thị làm thư ký đánh máy… tay cho bác. Từ đó, tuy tên tuổi Hồ thị không bay cao, bay xa ra ngoài như tên bác. Nhưng trong hang, ngoài động, không mấy tay không nể vì Hồ thị.

Lúc ấy, ai cũng tưởng con đường hoạn lộ của Hồ thị sẽ mỗi ngày nở hoa, thăng tiến với bác. Không ngờ, sau một đêm “ khó ở” trước khi rời hang… rắc rối. Thị Tú bỗng nhiên bị hạ tầng công tác, rồi tiến thụt lùi trên đường cách mạng. Bước thụt lùi đầu tiên đến với Hồ thị khi thị nhận được lệnh điều về Xuân Trường, nắm giữ chức vụ chủ tịch hội phụ nữ đã được giải phóng. Gọi là hội phụ nữ đã được giải phóng là vì, nghe tin đồn, các chị em ta ở trong hội này chả còn gì để mất. Nhiều khi có cho  không cũng chẳng ma nào muốn rờ đến, có chăng là để thưởng công các con măt đảng!

Lúc ở Xuân Trường, thị Tú tuy nắm chức vụ chủ tịch của hội phụ nữ, nhưng thị luôn thấy đời hẩm hẩm hiu, lạnh lẽo. Từ đó, thị giận cảnh dậu đổ bìm bịp leo, và giận luôn kẻ đã gạt gẫm thị. Rồi thị chán đời, thị coi thường các cán bộ cơ sở, và thị không chịu ép mình vào khuôn khổ đảng. Kết qủa, thị tiến thêm một bước bi đát khác. Xuân Trường chê thị Tú, gởi thị chi viện cho Xuân Thủy. Biết lúc đường cùng, thị Tú tự nhủ:

Thôi thì chết đuối vớt lấy nước bọt!

 

Theo kế này, thị Tú đành ngậm qủa bồ hòn, nhận cái chức vụ chủ tịch hội phụ nữ đã được giải phóng Xuân Thủy, nhận lấy cái tiếng là bà chủ tịch để đi ra đi vào với đời.

Nói như thế là chỉ xét đến cái bề ngoài của thị, và không để ý đến cõi lòng đau thương của thị. Thật ra, trong xuốt thời gian bị hạ tầng, thị Tú rất đau. Thị đau không phải vì chỉ được chia cho cái chức nhỏ, nhưng vì phải chịu cảnh gối chăn lạnh và thiếu hơi của… người. Tuy thế, không bao gìơ thị Tú oán than nửa lời. Y thị vẫn có ý chờ đợi một ngày đẹp giời, bác nhớ lại chuyện xưa, đem xe cáng về Xuân Thủy, đón thị về… phủ cho ấm cả đôi bên. Thị chờ mãi mà ngày sáng sủa kia vẫn chưa đến. Nay gặp lúc nhà nước phát động chính sách phá ngu, Hồ thị quyết trổ tái ba cho bác sáng mắt ra.

Bởi thế, nếu nhìn người qua lý lịch và thành tích căn bản cá nhân, ít người ở Xuân Thủy dám coi thường thị Tú. Đặc biệt, trong lớp học bổ túc văn hóa này, các cán bộ Xuân Thủy đều coi thị Tú như là một cây cột trụ dẫn đường. Do đó, dù thị có kinh qua, hoặc không kinh qua hàng chữ kia, thị Tú vẫn là một cán bộ đáng nể vì. Riêng Lựu, là người chung nghiệp, nên khi thấy thị ngập ngừng, Lựu liền mách nước:

– Sờ ô… sô… ô sô…

– Phải, tôi nhớ ra rồi: Chữ ấy là: Sờ ô… sô en rê… sông… sắc… sống.  Ở hỏi ở. Trờ o tro… en rê… trong. Quờ u… qu ấ quấ… en quân…. en quân… huyền… quần.

Vần đến đây, thị Tú bỗng ngưng lại. Rồi với một khuôn mặt đầy khích động, thị vỗ đét đôi tay vào nhau:

– Báo cáo đồng chí giảng viên, đây là ca dao của đảng ta. Hàng chữ ấy là: Bác Hồ… sống  ở trong quần, chúng em phụ nữ rất cần có cu!

Lựu đỏ mặt, đánh thót người lên:

– Xin… xin mời đồng chí ngồi xuống!

Có đến quá một nửa lớp học, không hiểu vì lý do gì người nữ đồng chí giảng viên tự nhiên tỏ ý giận dỗi như thế, nhưng không ai lên tiếng hỏi.

Trở lại vụ thi xếp lớp. Có thể nói, các học viên trong lớp học phá ngu đêm nay đều rất dễ tánh. Kẻ đọc được nửa vời, kẻ chưa đọc chữ nào đã tự động xin đổi chỗ ngồi cho tiện việc sắp xếp. Sau gần một tiếng đồng hồ thi xếp lớp, nhìn lại chỉ còn vài ba người chưa xin thi và cũng chưa tự động đổi chỗ. Một trong những người ngồi lỳ ấy, có chủ nhiệm Nguyễn văn Bảng. Không may cho Bảng, vị trí Bảng đang ngồi thuộc diện những người đã kinh qua 23 chữ cái và hàng chữ cuối. Sự kiện này khiến Lựu thắc mắc. Có lẽ nào trong những ngày gần đây Bảng đã được thị Nụ, vợ gã khai tâm mở trí rồi? Nếu như vậy càng hay. Đây chính là dịp tốt để Bảng trổ kỳ tài trước mặt các cán bộ đảng viên trong chi bộ.

Nghĩ như thế là Lựu không nể tình Bảng. Vì thật ra, Bảng ngồi bình chân như vại, không phải vì Bảng đã được khai tâm mở trí. Nhưng Bảng ngồi lỳ vì hai dự kiến:

– Thứ nhất, Bảng không thể tự động đổi chỗ.

– Thứ hai, vuốt mặt phải nể mũi. Lựu là một thư ký dưới tay Bảng, Lựu không dám tự quyền kêu tên chủ nhiệm Bảng đọc mấy cái chữ luẩn quẩn kia trước mặt các học viên.

Do đó, trong lúc các học viên thay phiên nhau đổi chỗ, Bảng vẫn chiêm ngưỡng Lựu và mỉm cười. Bất ngờ, tiếng Lựu vang lên nghe rất chói tai:

– Xin mời đồng chí chủ nhiệm!

Bảng giật bắn người lên như một tử tội nghe lệnh hành quyết. Gã bàng hoàng trợn ngược đôi mắt trong lúc cái mồm mở toác ra. Cùng lúc ấy, những đôi mắt học viên không quên đổ dồn lên người Bảng. Họ đơn giản chờ đợi chủ nhiệm Bảng oanh liệt, kinh qua vài chục chữ cái, cho con mẹ ấy khỏi lên nước mặt.

Sở dĩ có chuyện chờ đợi sự kiện lớn này là vì, hầu hết các cán bộ trong chi bộ đã từng hãnh diện, và bái phục Bảng khi người chủ nhiệm này hạ bút, ký một chữ B khá bay bướm đi chung với cái gạch đít dài như dãy núi Hoàng Liên Sơn trong các giấy tờ xuất, nhập kho của hợp tác xã. Từ đó, cán bộ Xuân Thủy đều cho rằng, chủ nhiệm đến lớp với họ là vì công tác của chủ tịch ủy ban phá ngu, hơn là do sự kiện cá nhân không biết đọc không biết viết. Trong khi đó, thị Lựu lại nghĩ khác, y thị nghiêm túc mời Bảng lần nữa:

– Nào mời đồng chí chủ nhiệm cho nghe lời vàng.

Mặt Bảng hằm hằm, hai tay chai cứng của gã bóp nhàu cuốn vở và cái bút chì trong tay:

– Báo cáo các đồng chí, cả đời tôi chỉ biết cầm cái mã tấu đi theo bác, theo đảng làm cách mạng. Tôi có học với hành gì mà đánh với lại vần. Xin đồng chí thư ký dẫn lối, mở… cửa cho.

Nói xong, tự Bảng bước sang ngồi bên phía chưa kinh qua hàng chữ dự thi, trước những đôi mắt đầy kinh ngạc. Có kẻ tin rằng Bảng không biết chữ thật, lại có người cho rằng Bảng chơi khăm Lựu. Đến đây, cuộc thi xếp lớp cho các học viên cũng kéo màn. Theo kết qủa dự thí, có đến hai phần ba số học viên ngồi phía tay trái, chỉ lác đác dăm bảy người ngồi bên tay phải lớp học. Lúc này, các học viên không phải vì việc được xếp ngồi phía tay trái, hay tay phải mà lên chân lẫn nhau. Trái lại, sau vài giây ngượng ngùng, họ bắt đầu cười nói ồn ào, và chuyền tay nhau cái điếu cày trong lúc Lựu đến hội kiến với Lê Thọ.

Sau cuộc hội ý, Thọ đích thân đến chỗ Bảng ngồi. Gã kéo tay Bảng đến ngồi ngay hàng ghế đầu lối ra vào. Bảng biết Thọ muốn cứu nguy cho mình, tuy nhiên, trước nhiều đôi mắt thắc mắc, Bảng vờ nói lớn tiếng:

– Không, đồng chí không nên làm thế. Cứ để tôi ngồi phía bên đây. Sách lược của nhà nước đã đề ra, cán bộ ta phải tiên phong đi đầu chứ.

Tiếng Thọ rất thành khẩn:

– Ai không biết đồng chí tận lực, tận tâm với công tác của nhà nước. Việc đồng chí can đảm, không ngại khó sẵn sàng học lại từ đầu để làm gương cho các cán bộ noi theo đã là một điều qúy hóa rồi. Xin mời đồng chí sang bên kia với tôi. Nhân tiện có vài việc tôi cần trao đổi với đồng chí.

Bảng vờ vịt lần nữa rồi đứng dậy theo Thọ:

– Tôi ngồi đâu chả thế.

Cùng lúc, Lựu trở lại trước tấm bảng đen. Tiếng nói chen lẫn giữa những ồn ào của học viên:

– Xin các đồng chí giữ yên lặng cho.

Tiếng ồn ào không dứt, Lựu vỗ hai tay vào nhau:

– Báo cáo các đồng chí.

Vừa nghe hai chữ báo cáo, cả lớp đều im lặng. Những đôi mắt đảng lại đổ dồn lên người giảng viên chờ đợi.

– Báo cáo các đồng chí, tôi vừa có trao đổi với đồng chí bí thư. Theo lẽ, ta phải tổ chức hai lớp học riêng rẽ cho các đồng chí. Tuy nhiên, số cán bộ đứng lớp không đủ, chúng tôi tạm thời quyết định mời các đồng chí ngồi dãy bên tay phải, về nhà nghỉ và không phải đến lớp trong hai tháng đầu. Sau đó, sẽ có thông báo để mời các đồng chí đến lớp học bổ túc sau. Riêng các đồng chí ngồi bên cánh tay trái của tôi, ta sẽ tranh thủ bắt đầu ngay.

Lựu vừa dứt tiếng, những người ngồi phía tay phải vội cầm lấy cuốn vở, đứng lên chuồn ra ngoài. Họ đi rồi, tay Lựu bắt đầu chỉ vào hàng chữ đầu và cất cao giọng: A… Bê… Cê… Dê….

Tiếng Lựu nhắc cầm canh:

– Các đồng chí nhớ đọc theo dấu tay tôi chỉ nhá.    Chữ này là chữ A, chữ này là chữ B nom cho kỹ nhá, kẻo nhầm,…

Từ những tiếng rụt rè, bẽn lẽn. Các học viên dần mạnh dạn mở miệng lớn hơn. Tuy thế, họ không khỏi bịt mồm nhìn nhau cười. Cười vì những âm thanh đục khàn, trầm buồn hoặc lanh lảnh theo nhau ê…ế…ề đã làm huyên náo, làm khuấy động một vùng yên tĩnh. Hơn thế, nó còn có khả năng thay thế cho những bài ca nỉ non của lũ côn trùng ở sân trường trong đêm nay.

Phần Bảng, khi vừa nghe lệnh của người nữ giảng viên ban ra, gã vội cuộn tròn cuốn vở trong tay và chuồn ra ngoài. Thoát ra khỏi cửa, gã cắm đầu đi ngay ra cổng. Thọ vội vàng đuổi theo, nắm lấy tay Bảng:

– Đồng chí chủ nhiệm, thong thả đã!

Bảng đứng khựng lại, Thọ tiếp:

– Đồng chí về vội thế? Tôi có việc hệ trọng cần thương lượng với đồng chí đây.

Bảng không một chút hứng khởi:

– Có việc gì hệ trọng mà đồng chí lại phải nhờ đến tay tôi?

Biết Bảng bực mình vì chuyện không thông báo cho Bảng biết trước về việc tổ chức thi xếp lớp, để Bảng có thể tránh bằng cách đến trễ với đôi ba lời cáo lỗi. Nhưng Thọ vẫn đẩy Bảng theo kế hoạch sẵn có:

– Ấy, sao đồng chí lại nóng nảy phát biểu như thế? Ở cái xã này, việc to việc bé, không nhờ tay đồng chí thì nhờ tay ai?

Thấy Bảng im lặng, Thọ tiếp:

– Tối nay đồng chí không bận chứ? Ta về nhà đồng chí thư ký làm cốc nước, tôi có sẵn chìa khóa đây! Nếu không, về bên đồng chí thảo luận cũng được.

Bảng gỉa như không biết chuyện:

– Có công tác đột xuất à?

– Nào có công tác đột xuất đột xuyét gì đâu. Tôi chỉ muốn kiểm tra cụ thể lại việc đón tiếp, và bồi dưỡng nhân chuyến tham quan của cấp ủy xuống xã mình thôi.

Bảng vờ quên phần vụ, đẩy sang người khác:

– Hay nhờ đồng chí thư ký!

Thọ đáp không cần suy nghĩ:

– Đã hẳn nhiên là ta sẽ nhờ đồng chí ấy về mặt bồi dưỡng cho bữa cơm ngon. Nhưng sau tuần rượu, thế nào cũng phải nhờ đồng chí sắp xếp cho việc của… bác!

Bảng tính nói toạc móng heo:

– Thì nhờ luôn đồng chí ấy trong cái khâu giải quyết. Như thế vừa tiện lợi vừa kín đáo, nhưng lại hỏi:

– Đồng chí ấy không thuận à?

Bảng hỏi chỉ để mà hỏi. Vì thật ra, Bảng còn lạ gì tâm tính của người nữ thư ký. Việc nhờ Lựu bồi dưỡng cho cấp ủy một bữa cơm ngon và một nửa cái giường, chẳng khi nào Lựu phản đối. Trái lại, Lựu còn sẵn sàng bồi dưỡng hàng đêm. Tuy nhiên, theo sự sắp đặt của Thọ. Lần này, Lựu chịu trách nhiệm một nửa là bữa cơm, còn một nửa cái giường thì cậy nhờ vào tài của Bảng. Phần Lựu thì đã có Thọ. Cơm no bò cỡi mà lỵ. Tự nghĩ thế, Thọ mềm mỏng với Bảng:

– Như đồng chí biết đấy, tuy nói là chi bộ cho có tiếng với người ta. Nhưng thật ra, nhìn đi nhìn lại chỉ có tôi và đồng chí, ngoài ra không ai giúp được công việc gì. Nếu việc đón tiếp, bồi dưỡng có kết qủa tốt, phần công ai vào đấy mà lãnh? Khi nhắc đến thành tích của chi bộ, có đâu không ghi công cho đồng chí? Trái lại, nếu bị khiển trách, đồng chí nghĩ là thoát phần trách nhiệm hay sao?

Qua vài câu đẩy đưa của Thọ, chẳng hiểu nghĩ gì, chủ nhiệm Bảng quên hết mọi giận hờn. Lòng sôi nổi trong công tác phục vụ đảng, điếu đóm cho cấp trên lại cuồn cuồn luân lưu trong dòng máu của Bảng. Gã sớm nghĩ đến một công dân hạng ba nào đó, sẽ được dùng làm mồi cho dê của huyện ủy trong dịp gã về tham quan. Rồi sau đó, Bảng sẽ mở to đôi mắt, tự ngắm nhìn cái lỗ mũi của gã nở to bằng mũi trâu trước mặt viên huyện ủy, nhận lời ban thưởng:

– Công tác này, chả ai hơn đồng chí.

Thế là đủ! Trong đảng Vẹm có nhiều loại công tác. Một đảng viên, chỉ cần thi hành xuất sắc một công tác là nên danh nên phận đến nghìn đời. Không tin, cứ nhìn gương của đồng chí thư ký thứ nhất Đặng văn Khu, đấu tố cha mẹ đẻ của mình, để đi vào lịch sử của đảng thì hiểu rõ về cơ nguyên của Vẹm. Rồi lại nhìn Vũ Kỳ, chuyên viên dắt mối cho Hố chí Minh, đủ  biết danh phận của Vũ Kỳ  vững chắc ra sao

Rồi Bảng cũng thế. Thành tích của Bảng là cái chết của ông bố vợ đã một lần được đảng tuyên công. Kế đến, Bảng còn lẫy lừng hơn trong công tác dắt mối cho cấp trên giải quyết. Làm thế là Bảng đã khôn ngoan, chọn lựa cho gã một hướng đi vững chắc trong lòng đảng. Nói cách khác, Bảng đã biết dùng xi măng cốt sắt, xây chân móng cho cái chức chủ nhiệm hợp tác xã của Bảng, chú không phải là xi măng cốt chuối! Từ đó, dù có nghìn phong ba bão táp, vẫn không thể thổi bay cái chức chủ nhiệm ra khỏi bàn tay Bảng. Và rồi, Bảng còn tiến xa, tiến cao hơn nữa trên con đường hoạn lộ với đảng.

Từ suy nghĩ đó, kế hoạch của Bảng đã sẵn sàng như tờ giấy đặt trước mặt. Nó không thiếu một chi tiết nhỏ, và có thể đem ra thực hiện bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, khi tự cho mình là một cán bộ nhớn ngang hàng với Thọ, Bảng thấy cần phải cho Thọ biết tầm mức quan trọng ấy, hơo là một sự kiện bị sai vặt:

– Đồng chí nói thì tôi biết vậy. Tuy nhiên, công tác lần này tôi e kham không nổi. Bởi vì, thời oanh liệt, thời tự do vung cái mã tấu lên đã bị xét lại. Ta không còn thủa vàng son, mặc tình làm mưa làm gío mỗi đêm đêm được nữa. Khéo ta phải chừa hẳn cái… tật bò cỡi sau cơm no thôi đồng chí ạ.

Thọ mỉm cười, gã cười vì cái luận điệu gỉa tạo của Bảng. Bởi vì, hơn ai hết, cả Bảng và Thọ đều biết rõ. Nhà nước muốn xét lại thì cứ xét. Việc các đảng viên đua nhau đi làm ăn trong đêm tối cứ làm, hai sự kiện này chả có quan hệ gì với nhau. Nếu nhân dân nghe nhà nước nói và tin đó là sự thật rồi không phòng bị thì tùy ý nhân dân. Phần cán bộ, cán bộ có lý luận chủ quan của mình. Cho đến đời đời, nếu trên đất bắc còn bác đảng, còn nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt cộng thì việc nhân dân hàng đêm bị mời đi vì việc riêng của cán bộ vẫn còn.

Kế đến, Thọ cười vì, sinh ra Bảng là bố mẹ Bảng. Dạy dỗ Bảng là bác và đảng, nhưng người biết Bảng lại là Thọ. Lần nào Bảng cũng muốn nại ra lý do để kể công với Thọ, hoặc buộc Thọ phải tả oán đôi câu. Lần này khác với thông lệ, Thọ nghiến răng nhìn chủ nhiệm Bảng và tìm phương cách khác. Gã bước đi vài bước, vẻ tính toán:

– Căng nhỉ? Nếu đồng chí làm không nổi, chắc tôi phải đến động viên và nhờ Mão giúp một tay.

Vừa nghe đến tên Mão, Bảng nhảy dựng người lên. Gã nhảy dựng người lên vì Bảng không lạ gì Mão. Xét về thành tích cá nhân, Bảng và Mão chưa biết ai hơn ai. Lúc trước, khi chính sách cải cách ruộng đất và đấu tố vừa ra đời, Đặng văn Mão đã nhanh tay nắm được chức đội trưởng đội đấu tố Hành Thiện. Gã trở thành đội trưởng không do qúa trình tranh đấu vào sinh ra tử giống như Bảng, nhưng vì cái lý lịch có liên hệ máu mủ với thư ký Đặng văn Khu.

Nghe đồn, khi chính sách đấu tố nổ ra, Khu đã gặp Mão và tính toán rất cẩn thận. Nhưng không may cho Khu, gã tính nhầm. Nhầm vì bố mẹ Khu đã gần đất xa giời, không dại dột nghe Khu thêm một lần nữa. Họ muốn được chôn xác ở cái kim tĩnh đã làm sẵn ở Hành Thiện hơn là chạy trốn theo kế hoạch. Và nhầm vì sự kiện lộng giả thành chân của Mão. Kết qủa, bố mẹ Khu phẫn uất lìa đời, riêng Đặng văn Khu anh dũng đi vào lịch sử đảng bằng một thành tích lẫy lừng:

“Hành Thiện nghênh ngang cầu tướng ấn!

Trường Chinh tố bố ước vinh hoa!”

Sau cái chết ấy, tên Đặng văn Mão trở thành một cái tên đầy lẫy lừng ở Xuân Trường. Người đân Hành Thiện đi đường lỡ nom thấy Mão không dám ngửa mặt lên. Riêng cán bộ, nom thấy Mão là nổi da gà. Chẳng bao lâu sau, Hành Thiện không dám chứa Mão nên vận động gửi Mão lên Xuân Trường. Về Xuân Trường một thời gian, Mão được chi viện cho Xuân Thủy để Bảng có bạn. Khi Mão về Xuân Thủy, Thọ rồi Bảng tự ý xích lại gần nhau và coi nhau như anh em… ruột. Và chi bộ Xuân Thủy quyết mời Mão ngồi mát ăn bát vàng. Lúc này, Thọ nhắc đến Mão, có khác gì Thọ muốn giết Bảng?

– Sao lại đi giao cho cái… thằng ấy?

Thọ buông xuôi:

– Việc thì gấp, đồng chí kém khả năng, tôi biết nhờ cậy ai đây?

Bảng bực mình bảo Thọ:

– Tôi… tôi nói như thế không phải là tôi từ chối công tác. Tôi chỉ muốn báo cho đồng chí nắm những khó khăn của công tác ấy trong hiện tình thôi.

Thọ bước đi:

– Thì cũng chính vì những khó khăn ấy, tôi buộc lòng phải đến động viên đồng chí Mão một phen.

Bảng đau tức giữa lồng ngực khi nghe rõ tiếng đồng chí Mão phát ra từ cửa miệng của Thọ, gã liền vung mạnh cánh tay trước mặt:

– Đồng chí cứ để đấy cho tôi. Có khó mấy, tôi cũng thực hiện được.

Thọ kém nhiệt tình:

– Nếu đồng chí đã tình nguyện thì tôi giao cho đồng chí. Tuy nhiên, vì tính chất quan trọng của cuộc tham quan, tôi không thể không yêu cầu đồng chí báo cáo rõ những chi tiết của kế hoạch.

Bảng mạnh dạn trả lời:

– Tôi đã có sẵn kế hoạch đây.

Thọ nhìn Bảng nửa tin nửa ngờ:

– Đồng chí có nhiệt tình vì đảng, vì cách mạng như thế, tôi rất hồ hởi và hãnh diện có được đồng chí trong ủy ban. Nhưng việc lần này sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt của chi bộ. Đồng chí có bảo đảm chất lượng hay không?

Bảng không ngần ngại đưa cao cánh tay lên giời:

– Tôi đảm bảo.

Thề xong, Bảng ghé xát bên tai nói nhỏ với Thọ vài câu. Thọ xửng xốt nhìn Bảng:

– Tao bạo lắm! Táo bạo lắm!

Bảng hãnh diện cắt ngang lời Thọ:

– Thế mới là kế hoạch chứ.

Thọ lạnh người, gã tự nhiên sợ cái giọng cười vung tay qúa trớn của Bảng:

– Bé mồm một tý. Cẩn thận vào. Nhỡ ra là chết cả lũ đấy.

Tuy dặn Bảng phải cẩn thận, nhưng Thọ biết câu dặn ấy là thừa. Thừa vì Bảng, một người Thọ luôn cho rằng thô lỗ, nông nổi, không tính toán. Lúc này nghe Bảng nói rõ ràng từng chi tiết trong việc thực hiện kế hoạch bồi dưỡng cho cấp ủy, Thọ không khỏi kinh ngạc và lạnh người. Gã lạnh vì những cơn gío xã hội chủ nghĩa luôn thổi vòng quanh, không biết đâu là đầu, đâu là cuối. Chỉ thấy từng đợt đua nhàu ào ào kéo tới. Hết đợt này đến đợt khác để những người đảng viên như Thọ, như Bảng mỗi ngày một thêm hốc hác vì công tác phục vụ cho đảng, cho những đẳng cấp cao hơn. Và lạnh vì đây là lần đầu tiên Thọ nghĩ đến vợ con, nghĩ đến những con người là nạn nhân của xã hội. Tuy thế, Thọ vẫn không thể ra lệnh cho Bảng ngưng lại kế hoạch. Gã xoay người, vỗ tay trên vai Bảng:

– Cứ thế mà tiến hành nhá. Nếu có trở ngại gì, hãy thông báo cho tôi ngay.

– Nhất trí!

Nói xong, hai đảng viên ưu tú của Vẹm ở Xuân Thủy bước đi ngược chiều nhau. Dù chúng đi trong đêm tối, nhưng vẵn có ánh sáng của cây mã tấu và ngọn cờ máu chỉ đường.

 

 

 

Chương mười bốn       *****************************

*******************************************************************************

 

Hồi giật mình, buông rơi cái lược đang chải hong khô mái tóc ướt xuống trên vỉa hè. Đôi mắt chăm chăm nhìn người đối diện:

– Thưa ông chủ nhiệm, ông tìm mẹ cháu có việc gì cần dạy bảo không ạ?

Bảng kín đáo nhìn vào trong:

– Thật ra cũng chẳng có gì gọi là quan trọng, chỉ nhân dịp có đồng chí huyện ủy về tham quan công tác tại xã nhà. Tôi nhớ đến hoàn cảnh khó khăn của hai mẹ con chị, nên ghé lại mách nước cho bà và chị đến gặp ông ấy, may ra xin được chữ ký thuận cho tờ thăm nuôi ông nhà thôi, ngoài ra chẳng có việc gì khác. Bà có nhà không cô?

– Bẩm ông chủ nhiệm, thật là tiếc qúa, mẹ cháu vừa đi khỏi thì ông đến.

Bảng hỏi lại cho có chuyện:

– Bà ấy đi vắng rồi à?

– Thưa vâng!

– Vậy thôi chào chị, tôi về nhá.

Nói xong, gã xoay lưng, dợm chân bước đi. Hồi vội đứng lên theo:

– Thưa ông chủ nhiệm, việc có kíp lắm không ạ?

Bảng hững hờ:

– Thật ra chả có gì là kíp lắm. Nhưng nếu bà ấy có ở nhà thì nên tranh thủ lên ngay ủy ban, may ra thì gặp được ông ấy thôi.

Hồi đưa mắt nhìn ra đầu ngõ:

– Thưa ông, mẹ cháu vừa đi có nhẽ một lúc nữa sẽ về. Nhưng sợ khi ấy đã qúa trễ, vậy để đến sáng mai có được không hả ông chủ nhiệm?

– Thì như tôi đã bảo chị đấy, nếu tiện thì đi còn không thì thôi. Bởi lẽ ông ta về đây là tham quan công tác, nào có phải là về vì chuyện của gia đình ta đâu. Thật là tiếc qúa, khéo mà mất cái dịp may. Thôi chào chị nhá.

Nói xong, Bảng xăm xăm đi ra đầu ngõ. Hồi nhìn theo, chẳng hiểu nghĩ gì, nàng vụt nhanh chân mời giật Bảng trở lại:

– Thưa ông chủ nhiệm, chẳng mấy khi ông lại nhà. Cháu mời ông vào nhà uống bát nước, chờ mẹ cháu một tý có được không ạ?

Bảng dừng lại, thành thật bảo Hồi:

– Tôi bận lắm, chẳng có thì giờ đâu mà nước với non. Hay là chị có muốn đi với tôi lên trên ấy thì đi.

Hồi nhìn trời chiều, lưỡng lự không quyết. Bảng bước đến, lời lẽ chân tình giống như nhời bác:

– Phải đấy, dịp may chả mấy khi có, chị muốn đi với tôi lên ủy ban gặp ông ta thì đi. Biết đâu vì cái thành tích cá nhân tiên tiến của chị, và có nhời của chi bộ bảo chứng, ông ta sẽ đặc xét cho. Trường hợp không được, chị cũng chẳng mất vốn mất lãi gì.

Khi nghe Bảng nói có cả bí thư chi bộ hiện diện, Hồi thay đổi thái độ:

– Nếu vậy, ông làm ơn chờ cháu một tý nhá.

Nói xong, Hồi quay bước vào trong, chọn lấy một cái áo vừa mắt mặc lên người. Mặc xong, nàng không quên nghiêng mình trên cái gương nhỏ kiểm soát lại khuôn mặt và mái tóc. Sau đó, Hồi khép lại cánh cửa, tự tin bước ra sân.

–         Cháu mặc thế này có tiện không ông chủ nhiệm?

Bảng nhìn thoáng qua và không trả lời. Nhớ lại, cách đây vài tuần. Hồi đã tự làm đơn, rồi đến xin chữ ký từ tổ sản xuất đến khu xóm. Sau cùng Hồi bỏ nửa buổi lao động, đích thân lên ủy ban xin Thọ cứu xét. Sau vài câu chào hỏi theo thông lệ, Thọ mở to đôi mắt nhận ra Hồi chính là người xã viên tiên tiến mới được bình bầu trong vụ đông xuân trước đây. Từ đó, Thọ đã niềm nở, ân cần động viên, vấn an mẹ con Hồi hãy yên tâm sản xuất. Phần Thọ, Thọ hứa quan tâm tích cực đến gia cảnh của Hồi. Lúc ấy, Hồi đã mừng ra nước mắt khi nghe Thọ bảo:

– Thật tiếc qúa, xã chả biết một tý gì về chuyện không may xảy ra cho gia đình chị. Bởi vì, tất cả mọi chi tiết liên hệ đến vụ việc này đều do huyện và trung ương nắm giữ. Tuy nhiên, chị cứ an tâm về sản xuất, thế nào tôi cũng có cách giúp cho.

Nghe xong lời vấn an của Thọ, Hồi ngưng ngay dòng nước mắt, yên tâm ra về. Từ đó, Hồi như quên đi những lời giáo huấn, mà ông bà Đăng trước kia thường bảo nàng:

– Cái đám đoàn đảng của nhà nước, chẳng có một đứa nào ra gì. Chúng là một phường du thủ du thực, đá cá lăn dưa giống nhau. Lớn đá cá lớn, nhỏ lăn dưa nhỏ. Càng gian ác lắm, càng cao danh vọng. Thật không thể nào mà tin được.

Lúc trước, Hồi vẫn tin thế, đến sau lần gặp gỡ bí thư Thọ, Hồi lại cho rằng. Có lẽ ông bà Đăng đã nhìn nhầm và qúa nặng thành kiến, hoặc là có những nhận xét, đánh gía sai lạc về tư cách, về đạo đức của các cán bộ đảng viên nhà nước. Nghĩ thế, không có nghĩa là Hồi phủ nhận sự kiện có nhiều những cá nhân đoàn đảng viên thuộc loại gian ác. Tuy nhiên theo Hồi, sự gian ác ấy có lẽ không phát xuất từ bản chất và phương cách giáo dục, đào tạo đảng viên của nhà nước. Nghĩa là, những lỗi lầm ấy hoàn toàn có tính cách cá nhân thôi. Bởi vì nếu bản chất của đảng xấu, bằng cách nào đảng có thể đào tạo được những cán bộ thật thà, thương dân thương nước như bí thư Thọ?

Vì có sẵn ý tưởng đó, Hồi dứt khoát ra đi và tin vào sự giúp đỡ tận tâm của Thọ hơn là nghi ngờ. Chả ai nỡ trách Hồi dại dột giao trứng cho ác. Bởi lẽ, đây là lần đầu tiên Hồi gặp gỡ Thọ. Có lẽ nào qua một lần gặp gỡ, Hồi đánh gía được toàn bộ con người của Thọ. Có thể nào một con cừu non là Hồi có thể nhận ra con cáo đóng vai kẻ chăn cừu là Thọ? Kế đến, từ khi nhận nhầm Thọ là kẻ chăn cừu, Hồi lại cho rằng mình rất đúng khi nhận xét về lớp cán bộ của nhà nước. Tệ hơn thế, Hồi đã tự cho mình là người trưởng thành, không cần phải có lời cố vấn của bà Đăng. Bởi vì, có nói cho bà Đăng nghe, bà ta cũng chẳng xét lại cái ý kiến sai nhầm của bà. Đã thế, bà còn mắng Hồi chỉ dại dột đi tin người ngoài, không nghe lời dạy dỗ của bố mẹ. Hoặc giả, Hồi cũng chỉ nghe được một câu đầy biếm nhẽ của bà Đăng:

– Cũng chỉ toàn là chuyện ốc đi bằng mồm!

Nhưng lúc ra đến đầu ngõ, Hồi ngửa mặt nhìn trời, thấy bóng hoàng hôn đã ngả về tây, lòng nàng bỗng do dự:

– Hay là ông chủ nhiệm đi trước đi, cháu chờ mẹ cháu về rồi cùng đi có được không ạ?

Bảng thẳng thắn trả lời:

– Việc có gặp ông ta hay không chả có liên hệ gì đến tôi, chỉ sợ gia đình ta lỡ mất một dịp may hiếm có thôi. Hơn thế, biết đâu ông ta lại có công tác đột xuất, bà và cô biết đâu mà tìm.

Hồi dùng dằng nửa ở nửa đi:

– Nhưng mẹ cháu chưa về, và cháu cũng chưa thổi cơm chiều.

Bảng dứt khoát:

– Đi hay không thì tùy chị quyết định lấy, tôi chỉ là người đến báo tin. Nếu chị không muốn thì… thôi. Tôi phải đi kẻo nhỡ công tác của dồng chí ấy.

Nghe Bảng nói thế, Hồi lại qủa quyết bước đi và tự làm một bài tính. Đi thì hơn, rồi lúc về nàng sẽ kể lại câu chuyện lên ủy ban cho bà Đăng nghe sau. Và biết đâu, nếu trời thương, bà Đăng lại mừng đến rơi lệ vì đơn xin thăm nuôi ông Đăng đã có chữ ký giới thiệu của huyện ủy. Chẳng nói ra thì ai cũng biết, có được lời giới thiệu ấy, việc đi qua công an huyện chỉ là một thủ tục không đáng lo ngại nữa. Tự nghĩ thế, Hồi nhanh chân đi lên trước Bảng. Cùng theo bước chân Hồi, ngọn gío chiều vờn vẽ thổi tung bay dòng tóc nàng. Nó vô tình phơi trần ra trước mặt Bảng một làn da đầy gợi cảm phía sau cổ Hồi. Bảng nhìn thấy, gã nuốt vội hớp nước bọt:

– Chị năm nay đã vào lao động chính rồi nhỉ?

Hồi liếc mắt nhìn Bảng, nàng tính bảo, ông chủ nhiệm đến hay quên. Chính ông là người đã chấm công bình bầu cho tôi trong vụ đông xuân vừa qua, tại sao ông lại hỏi tôi câu ấy. Nhưng lại nói:

– Thưa đã!

– Thế à? Nhìn chị tôi cứ tưởng là mới 15, 16.

Hồi e lệ:

– Ông chủ nhiệm nói thế.

– Tôi nói thật đấy, đời tôi chưa nom thấy ai đẹp như chị. Nếu không quen biết, chẳng ai dám bảo chị là một xã viên trong đội sản xuất.

Nói thế là Bảng tự tin vào cái tài chấm điểm của gã, dù gã chưa bao gìơ nghe biết về thể lệ chấm thi, cũng như chưa bao gìơ làm giám khảo trong các cuộc tuyển lựa hoa hậu thế giới. Tuy nhiên, dưới tầm mắt Bảng, gã cho rằng Hồi là một người đẹp hiếm có ở trên thế gian này. Từ trước, đôi mắt Bảng chỉ dành riêng cho việc chiêm ngưỡng và ca tụng dung nhan các cán bộ cái, hoặc xa hơn thế, nhìn trộm vợ của các đồng chí lãnh đạo với một chủ đích cố hữu trong đảng tính. Ngoài ra, gã không biết đến cái đẹp của nhân gian là gì. Đến khi đối diện với người nữ xã viên trong đội ngũ sản xuất, đôi mắt gã đâm ra lúng túng.

Phần Hồi, nàng ứ hự một tiếng rồi mau gót chân. Cùng lúc đó, Hồi nhớ lại những câu chuyện trong tổ sản xuất, các xã viên thường kể cho nhau nghe về Bảng. Người nói này, kẻ lại nói khác, nhưng tựu trung, chả bao giờ Hồi nghe được một câu nói hay cho chủ nhiệm Bảng. Trái lại, khi có mặt Bảng, các xã viên có khuynh hướng theo nhau nói dối vài câu cho Bảng nổ lỗ mũi. Rồi ngay khi Bảng bước đi, hàng trăm đôi mắt đỏ lửa nhìn theo với cái môi trề hẳn ra ngoài. Họ lườm họ ngúyt, họ cầu cho cán bộ nhà nước sống… dai trăm tuổi.

Chuyện người dân đất Bắc mắc vào chứng bệnh ngứa cổ, cứ nom thấy mặt mũi bạn bè của bác là họ muốn xắn… váy lên, cho những nhà cách mạng nhớn này muôn nhời nói không có trong sách vở ngoại giao là căn bệnh khó mà chữa trị tận căn. Bởi lẽ, nó có nhiều lý do. Một trong những nguyên do cơ bản là nhân dân đất bắc, không muốn nhìn thấy mặt mũi các cán bộ đảng viên của nhà nước sống trên cõi đời ô trọc, vốn dĩ lắm đau thương này. Họ không muốn sống chung với Hồ chí Minh và đảng Vẹm, không phải vì lòng ích kỷ, nhưng vì một lý do cơ bản. Họ không muốn bị lẫn lộn với miêu duệ của loài… khỉ đột. Nói ra thì bảo là lắm điều, bịa chuyện. Nhưng sự thật, con cháu của khỉ cũng khó sống chung với con cháu Rồng Tiên lắm.

Riêng Hồi, khi nghe những lời phê bình dành cho Bảng, Hồi không có ý kiến. Tuy nhiên, có lần nàng thắc mắc, tự làm bài tính so sánh về Bảng. Lạ thật, với vóc dáng và khuôn mặt thô kệch, lại thêm một cá tính gần như thô bạo, nhưng không biết tại sao, chủ nhiệm Bảng đã cưới được con gái của ông phú Bình? Chị ta nom cũng xinh đẹp, lại là con nhà phú hộ. Lúc đầu Hồi cho rằng, một là vì duyên số, hai là do trai tài gái sắc gặp nhau. Đến sau này, Hồi nghe người bạn chung tổ sản xuất bảo rằng:

– Chị ta đâu có ưng nó. Tại nó vác mã tấu đến nhà ông phú Bình làm dữ. Ông phú vì thất cơ nên phải gả con gái cho nó!

– Chuyện ấy có thật à?

Hồi bán tín bán nghi, bởi lẽ về mặt hình thức, Bảng có một cái hàm răng bồ cào, cái cao cái thấp, chỗ vàng chỗ đen, nó đưa ra phía trước như mái hiên nhà. Phải nói ngay, đây là một hàm răng khá đặc biệt. Nó được coi là nền tảng cho các bức tranh hí họa của miền nam vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa, mỗi khi họ muốn họa hình các… đồng chí ở phía bên kia bờ vĩ tuyến.

Về nội dung, khi đi trên con đường làng quen thuộc vào giữa hoàng hôn, Hồi thấy phảng phất trong gío chiều một cái mùi ngai ngái rất khó ngửi. Lúc đầu, Hồi không biết nó phát xuất từ đâu. Đến khi Bảng lại gần, Hồi nhìn sang. Nàng giật bắn người lên vì thấy những đường nét táo bạo màu vàng ngà, trắng đục, là kết qủa của những đợt mồ hôi muối tích tụ lại và nằm xếp lớp trên lưng áo Bảng. Có lẽ chúng đã ẩn cư ở đây qua suốt bốn mùa xuân hạ thu đông rồi, nên mới tạo ra được những tấm bản đồ dị kỳ như thế. Hồi rùng mình, quay mặt đi nơi khác khi trả lời lời khen của Bảng:

– Ông chủ nhiệm khéo khen qúa! Tôi đã 17, 18 rồi, còn nhỏ gì.

– Thật thế à?

Nói xong, Bảng thấy lòng hứng khởi, xoa đôi tay vào nhau:

– Gia đình ta khỏe cả đấy chứ?

Câu hỏi thăm tự nhiên chẹn ngang giữa ngực, Hồi thấy khó thở:

– Báo cáo ông chủ nhiệm khỏe.

Nói xong, Hồi tăng tốc độ trên đôi chân, trong lúc Bảng chậm rãi đếm từng bước một.

Khi đến nơi, ánh chiều vàng đã nghiêng hẳn về tây, riêng khu vực chung quanh văn phòng hợp tác xã không có một bóng người lai vãng. Hồi ái ngại quay lại phía sau lưng, chủ nhiệm Bảng cũng vừa tới. Gã bước lên bậc thềm, cho tay vào túi và lôi ra chùm chìa khóa. Bảng lách cách mở ống khóa. Mở xong, gã quay lại bảo Hồi:

– Mời chị vào văn phòng ngồi nghỉ chân tý đã, tôi độ chừng là các đồng chí ấy đang trên đường đến đây. Chứ chả có lý nào là họ đã bỏ đi nơi khác.

Hồi dợm chân rồi thay vì bước vào theo lời Bảng, nàng đứng trước sân, phóng tầm mắt nhìn về bên đông bên tây, phía trước phía sau, và dọc theo những con đường dẫn đến khu nhà kho. Hình như không có con đường nào đem đến cho Hồi niềm vui. Bởi vì, Hồi thấy những con đường vắng lặng như sầu thảm, nằm lạnh lùng trong chiều nắng úa. Tệ hơn thế, chiều về mà Hồi không nghe được một tiếng chim gọi nhau về tổ, cũng không nghe được một vài tiếng tiêu, hay tiếng sáo diều, là những âm thanh hầu như không bao giờ im tiếng ở miền quê. Cảnh lặng lẽ làm Hồi bối rối, nàng quay nhìn Bảng rồi lại đảo mắt nhìn quanh.

Dưới màu nắng tàn, nàng thấy đôi ngọn khói chiều vươn nhẹ lên từ những mái nhà tranh ở gần đó. Hình ảnh này làm nàng nhớ đến bà Đăng. Giờ này, chắc bà đã về. Gọi con không thấy, thế nào bà cũng lẩm bẩm một mình vài câu trước khi lấy gạo thổi nồi cơm chiều. Rồi lại thêm sốt ruột vì không biết lý do gì Hồi về trễ. Lúc ấy, bà không thể biết, Hồi đang  một mình giữa khoảng trống bơ vơ trước sân văn phòng hợp tác xã, thơ thẩn vài bước đi. Đôi sợi nắng còn sót lại của một buổi chiều ẩn mình trên cây soan gìa vội vã theo ngọn gío đong đưa thổi tung nắng vụn rơi xuống sân. Hồi ngửa mặt nhìn lên, sợi nắng tinh nghịch theo kẽ lá, rớt xuống trên tay, trên tóc nàng. Nàng mỉm cười đưa tay bắt nắng. Nắng long lanh theo màu mắt. Nhưng bỗng, Hồi giật mình quay lại:

– Thưa ông chủ nhiệm, liệu ông ấy có đến sớm  không?

Bảng ngồi trong buồng, quay mặt nhìn ra sân:

– Sớm chứ. Chính đồng chí ấy bảo tôi đến đây chờ. Chẳng có lẽ nào tôi chậm chân hơn ông ấy.

Nghe Bảng nói thế, hội nghĩ bụng:

– Hay là đi về? Chờ thế này biết đâu mà chờ?

Hồi lưỡng lự không quyết, nàng dợm gót, bước một vòng quanh sân với muôn nỗi ngổn ngang trong lòng. Về cũng dở mà ở lại cũng dở. Bởi nhẽ, về thì có thể bỏ lỡ một dịp may hiếm có, mà ở lại thì không biết phải chờ đến bao giờ? Riêng Bảng, sau câu trả lời lấp lửng, gã cũng có những nỗi băn khoăn. Một thứ băn khoăn không thể kiểm soát và cũng không thể giải thích.

Trong lúc đó tại nhà Lựu, những món ăn mang đặc tính miền bắc như thịt gà luộc, miến xào lòng, cá chép rán vàng đã làm khởi sắc cho câu chuyện tham quan của huyện lệnh. Vũ Đạo, nhân vật chính của bàn tiệc là một người có vóc dáng của một tay canh điền khoẻ mạnh. Gã thuộc diện mồm rộng, môi thâm, dầy, lỗ mũi trâu. Đạo về đây nào có phải là vì tham quan như Thọ nói. Gã về vì nhớ đám cỏ đồng nội đấy. Chính thế, Vũ Đạo, ngoài việc nâng ly, tận tình gỡ các món ăn. Bàn tay gã vẫn không quên đặt… nhầm lên trên cái đùi nặng ký của thị Lựu. Việc huyện lệnh Đạo hay nhầm lẫn như thế đã có từ lâu, và thường xảy ra.

Chuyện kể rằng, Vũ Đạo, quê ở làng Nhót ngoại biên Hà Nội. Trước khi Đạo đáp lời kêu gọi lên đường cứu nước, và trước khi có hồn cách mạng rực chiếu trong tim, Vũ Đạo đã từng vào sinh ra tử với nhiều nghề và với nhiều cái tên khác nhau. Một trong những nghề chính yếu của Đạo là nghề thiến heo và nuôi heo nọc. Nghề này ở miền quê hương của Đạo rất dễ kiếm ăn. Do đó, khi vừa mới lớn, Đạo theo gia phả đã được truyền nghề để nối lấy nghiệp nhà.

Người xưa thường nói: Sinh vi nghề tử vi nghiệp. Nhà cách mạng nhớn Vũ Đạo, cũng không có ngoại lệ. Tuy nhiên, có điểm khác với nhiều người là  khi vào nghề, ngoài vấn đề áo cơm, Đạo là một kẻ rất yêu nghề. Sự yêu nghề của Đạo được thể hiện qua những lần dắt heo từ nhà này đến nhà kia. Đặc biệt, Đạo không ngại cà kê, bàn luận với dân quê về những giống heo to, heo khoẻ, hoặc giống tốt, giống nhiều con. Khi chuyện trò, Đạo không quên giới thiệu giống heo của Đạo cho họ. Với tài khôn khéo mời chào, khách hàng của Đạo đã vồn vã bảo gã:

– Vậy mai cậu đến… rẩy hộ tôi một cái nhá.

– Đã đến… nước chưa bà?

– Chắc đã!

Nghe thế, Đạo mừng rỡ bảo thân chủ:

– Nếu thế để tôi đến… thử trước xem thế nào bà nhá. Lúc nào thì tiện cho bà?

Cứ thế, Đạo tiến lên đỉnh cao nghề nghiệp. Với vóc dáng to nhớn khoẻ mạnh. Đạo được nhiều người chiếu cố nhắn gọi đến rẩy hộ một cái. Nhưng bỗng, vào một buổi chiều mưa phùn lất phất bay, Vũ Đạo lặng lẽ bỏ nghề mà không có một lời báo trước. Mãi sau này dân làng mới biết lý do. Tại vì Đạo rẩy lộn… chuồng, và không kịp bỏ của chạy lấy người.

Vì nhẩy lộn chuồng và chưa biết theo gương bác để tháo chạy lấy thân, năm ấy, Cống chưa đầy 18 tuổi, y đã  phải lấy vợ. Mụ vợ cuả Đạo lớn hơn gã mấy tuổi. Sau khi lấy Đạo, mụ vợ răng đen hạt dẻ, đầu búi tó củ hành tên là Nhuần, liền bắt heo của gã ra thiến. Thiến heo xong, thị còn buộc gã phải tiếp tay với bên vợ làm nghề cạo lông. Lúc đầu, gã giận toan bỏ đi, nhưng vì nghe lời bà đậu Tiến khuyên nhủ, gã hân hoan với nhiệm vụ mới.

Phải công bình mà nói, cái số của Đạo khá may mắn. Người khác vào nghề thì trầy da xóc vẩy, gặp đủ mọi bước gian nan. Riêng Đạo, khi vào nghề thường gặp bước thang mây. Lúc trước, Đạo tuy bận rộn suốt ngày với con heo giống,và làm thợ thiến. Tuy nhiên phần tiền tiêu, tiền rượu chẳng mấy lúc khô cạn. Lúc sau, Đạo lại vã mồ hôi vì phải cạo ngày cạo đêm. Bù lại, sáng tiết canh, chiều lòng lợn, thêm bạn bè, thêm vây cánh.

Rồi trời đất nổi cơn sóng dữ. Vào một sáng mùa thu trước ngày 23, tên tuổi của Đạo lại biến mất khỏi danh sách những tay thợ cạo vùng ngoại thành . Đạo ra đi không một lời từ gĩa, cũng không để lại dấu vết, ngoại trừ một cái phản thịt trống còn nằm chổng chơ nơi đầu chợ. Khách hàng dáo dác hỏi thăm nhau, không ai tìm được câu trả lời.

Khoảng một tuần sau, toàn khu ngoại thành, đặc biệt trong làng cạo, vang dội một bản tin nhớn, Đạo đã bỏ của chạy lấy người. Bản tin như xét đánh ngang tai này đã do người bạn hành nghề chung với Đạo đưa ra. Và được đảng ta cho người đến gom góp, ghi chép vào hồ sơ cá nhân đảng tịch như sau:

”Vào buổi chiều hôm trước ngày Đạo ra đi theo tiếng gọi bác. Đạo và anh thợ phụ đã đến nhà bà Phủ Vĩnh ở ngoại thành để ngả giá và bắt heo về làm thịt như đã hẹn trước với bà. Bà Phủ Vĩnh là người không xa lạ gì với Đạo. Trước đây, khi còn độc thân và còn hành nghề dẫn heo nọc đi thả giống, Đạo vẫn thường đến đây nhẩy cho bà phủ. Theo đó gã rất rành rẽ về đường đi nước bước trong trang trại của bà.

Nhưng hôm ấy, đột biến xảy ra. Đột biến này khởi đầu bằng câu chuyện bà phủ Vĩnh, tên tục là Nguyễn thị Chiêu năm ấy mới ngoài ba mươi. Bà là vợ lẽ của một viên tri phủ rất giầu có và đầy thế lực trong vùng. Nhà bà thuộc diện kín cổng cao tường, ít ai lai vãng tới, ngoại trừ những người ăn kẻ ở của bà.

“ Vừa đến nơi, Đạo quen thói cũ, đăm đăm nhìn bà phủ đã trẻ đẹp, lại sửa soạn khác thường trong bộ áo cánh ngắn tay, quần lụa thâm. Thêm cho cái bề ngoài gợi hình ấy, đôi mắt bà phủ luôn dòm chừng trên cánh tay, bắp đùi rắn chắc khoẻ mạnh của Đạo. Tuy là tay thợ cạo, nhưng Vũ Đạo vốn đã mang sẵn dòng máu cách mạng trong người nên vừa nom thấy bà phủ hớ hênh là Đạo quyết đứng về phía bà phủ, đứng về phía những người bị cô đơn lẻ bóng, bị áp bức.

“ Trả gía xong, Đạo và anh thợ phụ cởi áo bước vào chuồng. Chỉ trong nháy mắt, con lợn gần một tạ bị Đạo hạ đo ván nằm kêu eng éc trên sàn. Sau khi trói và khiêng con heo ra giữa sân cho người bạn cạo trông chừng, phần Đạo trở lại bên chum nước, múc vài gáo nước rửa tay. Sau đó, Đạo đi lên cửa nhà bếp, nơi bà phủ đang đứng chờ. Gã tự nhiên tật cạp quần đùi, lấy tiền ra đếm và trả cho bà phủ. Không biết tài ăn nói, trả giá kỳ kèo bớt hai thêm một của Đạo ra sao. Chỉ thấy lát sau, bà phủ mỉm cười bước vào nhà trong, và Đạo bén gót theo sau.

“ Thật không may cho Đạo! Giữa lúc gã đang vui tay cạo… bà phủ, hai người phu cáng, khiêng ông phủ Vĩnh vào đến giữa sân. Tay thợ phụ nom thấy, gã cúi gập người xuống chào và cố tình lên tiếng trình bẩm thật lớn để báo động cho Đạo. Đang lúc hành nghề, Đạo nào hay biết cơ nguy đã kề bên cổ. Đến khi thấy hai người phu cáng đẩy cửa cho ông phủ bước vào nhà, Đạo mới hốt hoảng chụp lấy cái quần đùi theo gương bác chạy thoát ra ngoài. Gã nhanh chân trước khi bà phủ Vĩnh kịp túm lấy người gã ăn vạ, và trình bẩm nỗi oan tình với ông phủ. Phần ông Phủ gìa, thấy cảnh chướng tai gai mắt, ông liền cầm cái ô chỉ ra ngoài sân ra lệnh:

–         Bớ lính hầu, ra bắt lấy nó đem vào đây cho ông!

“ Nghe lệnh từ trong ban ra, tay thợ phụ chẳng hiểu ất giáp gì, lại nom thấy Đạo tay cầm cái quần đùi, tung cửa, cắm đầu chạy như ma đuổi. Nhưng nào có phải là ma, chỉ có hai người  phu cáng ông phủ đuổi theo sau thôi. Sợ cháy thành vạ lây, gã đành bỏ mặc con heo nằm kêu eng éc giữa sân, co cẳng chạy theo Đạo. Vừa chạy, gã vừa réo gọi gã trở lại khênh heo. Chẳng ngờ, tiếng gọi càng rát, Đạo càng tăng tốc độ.

“Khi không bắt được trộm, ông phủ giận mất khôn. Ông đến nhờ quan sở tại địa phương tróc nã Đạo. Kết qủa, ngay đêm ấy Đạo lẻn về nhà gom góp lại chút hành lý, nói dối vợ vài câu rồi cùng với bọn thằng Chân, đến tận  nhà, giết anh giáo Dư, là thày dạy học cho trẻ trong làng Nhót. Sau đó chúng thay tên đổi họ và di làm cách mạng!

Đến hôm nay, nếu nhẩm tính lại, cuộc đời của đồng chí Vũ Đạo đã kinh qua nhiều khúc sôi nổi, mà mỗi khúc đi qua là một thiên tình sử vã mồ hôi. Khúc đầu nhờ con heo, Đạo được cả người lẫn của. Khúc giữa, Đạo làm nghề cạo lông. Nhờ nghề này, Đạo nổi tiếng và đã tạo cho mình được cái vốn liếng để làm kinh tế cơ bản cho nhà nước. Tuy nhiên, cả hai nghề này đều không ổn cố. Do đó, gã đã dốc hết sức vào cái nghề cuối cùng. Nghề vác mã tấu đi vẽ lịch sử với Hồ chí Minh. Kết qủa, Đạo đã tìm ra chân lý. Tên nghề tuy có đổi, song tính thích cạo nhầm và rẩy lộn chuồng của Đạo chẳng đời nào thay đổi. Hơn thế, nhờ cách mạng, Đạo không còn sợ quan quân rượt đuổi nữa.

Tả thế, có thể là không nể tình đồng chí bí thư. Vì thật ra, việc Đạo hay đi tìm của lạ cho mình, một phần là do vợ đồng chí ấy xuí bẩy. Nghe đâu, vì qúa tích cực trong nghề vác dao mã tấu đi làm cách mạng nên mỗi khi đêm về, gã chỉ muốn tìm lấy một giấc ngủ yên. Nhưng mụ vợ răng đen búi tó củ hành lúc trước, gìơ này, nhân ba dòng thác cách mạng tiến lên, đã trở thành bà bí thư mập ú như cái cối xay, vẫn dựng gã ngồi dậy hạch hỏi:

– Tại sao, ăn cơm nhà lại đi vác vòi voi hàng tổng, để về đây nằm như chết rồi thế này?

Nghe lời chói tai, Đạo gỉa lả như trong cơn ngủ say, gã lại nằm xuống. Những khi ấy, vợ Vũ Đạo không quên mắng cho gã vài câu:

– Đúng là đồ ăn… hại. Có ngày bà thiến đi là xong!

Mụ mắng và doạ như thế là tội cho bí thư. Vì thật ra, không phải vì Đạo kiệt sức, không làm tròn bổn phận, nhưng vì gã chịu không thấu cái mùi hương thời trước. Một mùi hương mà Đạo luôn cho rằng, nó đã làm hại đời giai của gã.

Sở dĩ có chuyện tréo cẳng ngỗng này là vì Đạo và người đàn bà này đã bước vào đời nhau không do cửa ngõ tình yêu. Một cửa ngõ bình thường, và rất tự nhiên hơn là sự kiện được thêu dệt thêm ra bởi ngòi bút vờn vẻ của mấy ông văn thi sỹ tư sản. Trái lại, hai người này đã bước vào đời nhau vì tai nạn dắt heo đi thả giống. Lúc đó, vợ của gã vốn là một người đàn bà không nhan xắc, lại lớn tuổi hơn gã. Y thị có của, và nuôi nhiều heo đẻ. Trong khi đó, vốn liếng của Đạo chỉ vỏn vẹn có một con heo đực. Mụ đã đem kế góp vốn làm ăn chung bàn với gã. Khi nghe lời bàn, Đạo tự cho mình khôn ngoan, nên ậm ừ toan tính chuyện gỡ gạc, lọc lừa. Kết qủa, sau khi phá… rừng, Đạo hốt hoảng toan tìm đường tẩu vi thượng sách. Y thị đã nhẹ nhàng bảo gã:

– Anh muốn được… vàng bỏ ngãi à? Nói trắng ra là anh muốn bỏ của chạy lấy người ư? Nếu đúng, trước tiên tôi không trách anh vì ý định ấy. Nhưng anh đã nghe người đời thường nói: Một ngày nên nghĩa, một nửa cái giường nên duyên. Nếu anh thấy giữa tôi và anh không có nghĩa, và cũng không có duyên, anh cứ việc để con heo giống của anh lại đây rồi tự nhiên mà đi. Tôi hứa không bắt đền, cũng không trình báo quan quân đâu.

Nghe xong lời đề nghị êm ái của thị, Đạo tháo mồ hôi. Gã đổ mồ hôi vì mất heo là mất cả phần đời, mất cả cơ nghiệp. Kết qủa, Đạo đành ngậm qủa bồ hòn về nói chuyện với  bà đậu Tiến, chôn chân trong cuộc tình lắm đau thương với người đàn bà này. Những tưởng đó là đoạn kết trong cuộc đời thích nhẩy lộn, cạo nhầm của Đạo. Ai ngờ, nó chỉ là đoạn mở đầu. Và chiều nay, sau khi cưa hết nửa chai rượu nếp, Đạo lại mạnh tay xoa nắn trên phần đất lạ:

– Nóng thế này, ăn xong chắc phải có cái giường đỡ lưng!

Lựu giữ chặt bàn tay lãnh đạo trên phần đất nhà, giả lả:

– Khéo mà đồng chí qúa chén rồi!

Nói thế là Lựu hiểu và chẳng buồn trách bàn tay huyện lệnh làm việc không đúng gìơ. Trái lại, theo trào lưu cách mạng vươn cao, Lựu rất hồ hởi phấn khởi để đón tiếp những bàn tay mạnh bạo như bàn tay của Đạo, tấn công không có tổ chức trên phần đất riêng của Lựu. Đạo bảo:

– Có đâu lại qúa chén được. Sức to lớn khỏe mạnh như tôi, hai bình này cũng chưa thấm.

Lựu vờ trách móc rồi dứng dậy, rót nốt chai rượu dở vào trong hai cái cốc của Đạo, Thọ:

– Các đồng chí tự nhiên cho nhá, tôi phải ra đàng sau có tý việc riêng.

Nói xong, Lựu đi về phía nhà sau. Đạo nhanh nhẹn nâng ly rượu lên đổ hết vào trong cổ rồi đứng dậy, đi ra cùng một hướng với thị Lựu. Thấy Lựu đứng lom khom rửa chân bên chum nước, Đạo bước đến sau lưng. Gã tự nhiên như ruồi, đặt gọn bàn tay trên cái mông vĩ đại của Lựu. Lựu vờ giật mình nhìn lên, huyện lệnh Đạo giở giọng thợ cạo:

– Tối nay… tôi ở lại với đồng chí nhá.

Lựu quay lại:

– Không được đâu.

– Đồng chí… kẹt à?

Sợ Đạo hiểu nhầm thiện chí của mình, Lựu giải thích:

– Không phải thế. Em vẫn muốn đồng chí ở lại đây nghỉ đêm cho nó khỏe. Nhưng em được đồng chí bí thư thông báo là đồng chí có cuộc họp với chi bộ vào buổi tối.

Thoáng nghe qua, Vũ Đạo thất vọng vì lầm tưởng người nữ đồng chí kẹt… tháng. Khi hiểu ra câu chuyện, gã làm ra vẻ thân thiết:

– Thật à? Tiếc nhỉ? Tôi chỉ muốn nghỉ lại đây. Còn họp với hành thì lúc nào mà chả được.

Lựu nắm lấy câu nói của Đạo:

– Nếu đồng chí muốn thì cứ ở lại, chả ai cấm.

Đạo đứng im lặng, trong lúc bàn tay thợ cạo không ngừng hành nghề. Lựu dục:

– Anh lên bảo cho đồng chí ấy một tiếng, kẻo đồng chí ấy chờ.

Chẳng biết nghĩ gì, Đạo trả lời:

– Mà cũng chả nên thế đồng chí ạ. Tôi ở lại e nhỡ việc của xã. Thôi xin kiếu đồng chí đến lần khác nhá.

Nói xong, Đạo vỗ nhẹ trên mông Lựu vài cái rồi quay trở vào trong nhà đúng lúc Thọ đứng dậy:

– Ta đi thôi kẻo trễ.

Đạo không hỏi lại, bước theo Thọ ra khỏi nhà Lựu. Lát sau, cả hai dừng xe đạp lại trước cửa nhà kho hợp tác xã. Trước mặt gã là viên chủ nhiệm ngồi quay mặt ra sân. Phía đối diện với Bảng là một người nữ có chòm tóc bỏ ngang lưng. Đạo đứng lại, Thọ ghé xát bên tai gã:

– Con gái của thằng phản động vừa lĩnh án, đồng chí tùy nghi xử lý.

– Nó đã có chồng con gì chưa?

– Báo cáo chưa.

Nói xong, Thọ nhét vào túi áo Đạo một cái bao thơ. Không cần hỏi lại, Đạo hiểu cái phù phép của lá thơ này. Chính nó sẽ là chìa khóa để Đạo hành nghề cũ. Gã bước vào trong, vờ ôm chầm lấy chủ nhiệm Bảng:

– Lâu qúa không gặp, đồng chí khỏe chứ?

– Báo cáo đồng chí khỏe.

Nói xong, Đạo buông tay ra, đứng nhìn Bảng:

– Dạo này nom gầy lắm, đồng chí có đau yếu gì không? Nếu có, phải báo cho bên y tế chăm sóc ngay. Trường hợp không đau yếu gì, đồng chí phải tự bảo quản lấy sức khỏe cho mình, hãy để ý đến việc ăn uống và nghỉ ngơi nhá.

Bảng vờ cảm động trước thái độ như chân tình của Đạo. Gã chưa trả lời, Đạo quay sang Thọ, tiếp:

– Các đồng chí biết đấy, việc của nhà nước thì nhiều ngập đầu ngập cổ, ta không thể làm một buổi tối mà xong hết được. Hơn thế, sức khỏe của các cán bộ đảng viên là một vấn đề tối quan trọng, nó đứng hàng đầu trong mối quan tâm của nhà nước. Chính bác đã chỉ thị cho toàn đảng phải bảo vệ sức khỏe cho các đảng viên. Do đó, tôi đặc biệt lưu ý, và nhắc nhở đồng chí bí thư phải có sách lược đảm bảo vấn đề sức khỏe cho các cán bộ đảng viên trong chi bộ. Đồng chí nắm rõ yêu cầu chứ?

Thọ trả lời như một cái máy:

– Báo cáo đồng chí rõ. Tôi đã đưa yêu cầu cho bên y tế kiểm tra sức khỏe toàn chi bộ ngày hôm qua.

– Như thế là tốt rồi. Nào mời các đồng chí ngồi cả xuống đây, ta đi vào chương trình ngay đi. Mặt công tác, các đồng chí có gặp trở ngại nào không? Nếu có, cứ mạnh dạn phát biểu nhá.

Nói xong, Đạo đưa mắt nhìn sang Hồi:

– Nào mời đồng chí thư ký hợp tác chuẩn bị bút mực cho, ta tranh thủ làm việc ngay kẻo trễ.

Hồi mở to đôi mắt nhìn gã, Bảng xoa đôi tay:

– Báo cáo đồng chí, hiện tình công tác trong ủy ban và hợp tác xã không có trở ngại gì. Riêng tối nay, chúng tôi có một yêu cầu.

Bảng ngập ngừng, Đạo động viên gã:

– Yêu cầu gì thế? Đồng chí mạnh dạn phát biểu đi. Tôi đã đích thân về đây là để giải quyết trực tiếp những yêu cầu của xã nhà. Các đồng chí cứ tự nhiên phát nhá.

– Báo cáo với đồng chí, đây không phải là đồng chí thư ký hợp tác xã. Chị ta chỉ là một quần chúng nhân dân, nhưng vừa được bình bầu là người xã viên tiên tiến trong toàn xã.

Đạo ngắt lời Bảng:

– Có phải ý các đồng chí, muốn đề bạt chị ta vào trong ban lãnh đạo hợp tác xã vì thành tích xuất xắc của chị ta hay không? Nều đã là yêu cầu của hợp tác xã, tôi không phản đối, trái lại, đề nghị các đồng chí trực tiếp bồi dưỡng cho chị ta.

– Báo cáo đồng chí… trường hợp của chị ta còn một vài trở ngại.

Đạo tò ngạc nhiên:

– Thế các đồng chí đưa chị ta đến đây dự họp với chủ đích gì?

Thọ nói chen vào:

– Báo cáo đồng chí, đây là vấn đề trở ngại của gia đình chị ta, nhưng nó có ảnh hưởng đến sự việc phấn đấu cá nhân của chị ta. Xã không thể giải quyết yêu cầu của chị ta, đề nghị đồng chí cứu xét … thuận cho chị ta được đi thăm nuôi bố.

Đôi mắt Đạo quét ngang khuôn mặt Hồi:

– Chị ta muốn được đi thăm nuôi bố à?

– Phải, bố của chị ta là ông Phan văn Đăng đã được gởi đi tập trung từ hai tháng trước. Nếu là trường hợp quần chúng nhân dân thường, xã không có yêu cầu này. nhưng cô ta là một xã viên tiên tiến đã hai lần được bình bàu trong toàn xã.

Nghe thế, Đạo khoa tay trước mặt:

– Trường hợp này đề nghị các đồng chí liên hệ thẳng bên công an nhờ giải quyết thì hơn.

Thọ vẽ thêm chuyện:

– Báo cáo đồng chí, sự việc là như thế, chúng tôi có liên hệ với bên công an, nhưng không kết qủa. Tuy nhiên, xét vì chị ta là một xã viên tiên tiến, thể hiện lập trường và liên hệ công tác tốt, nên ủy ban đề nghị với đồng chí cho ý kiến.

Đạo chưa trả lời, Hồi vội đứng lên:

– Trình ông bí thư thương gia đình cháu.

Thọ đưa mắt, ngầm ra hiệu cho Bảng. Bảng đứng lên, mở rộng cách cửa phân chia giữa nhà kho và văn phòng hợp tác xã ra. Mở xong, gã đi về cuối căn phòng kín, mở thêm hai cái cửa sổ nữa. Ánh sáng yếu ớt của một buổi chiều tràn vào trong. Nhờ đó, khung cảnh trong nhà kho trông bớt đi phần â u, ma quái.

Trong lúc đó, Đạo nhìn lên. Gã giật mình vì cái nhan sắc mặn mà và nét ngây thơ không trang điểm của Hồi. Gã không thể ngờ, giữa chốn đồng hoang dã thảo này lại có được một bông hoa lạ như thế. Có thể nói, suốt con đường gian truân Đạo đã trải qua, chẳng mấy khi gã nom thấy người nào có cái nhan sắc nhu mì, xinh đẹp như Hồi. Đạo vội nuốt nước bọt, rồi nhìn xuống đôi tay. Gã biết, gã không thể từ chối lòng tốt của Thọ và Bảng và của đảng. Đạo thân mật hỏi:

– Gia cảnh chị thế nào?

Nghe hỏi, Hồi run giọng:

– Trình ông bí thư… cháu chỉ còn một mẹ gìa.

– Bà ấy còn đi lao động không?

– Trình ông là lao động phụ.

– Bố cô can phạm vào tội gì?

Đôi mắt Hồi lần đầu tiên mở lớn lên nhìn Đão:

– Trình ông bí thư thương… việc ấy cháu không biết.

– Bố chị bị bắt bao giờ?

– Thưa đã ngoài tháng nay.

– Hiện ông ta đang ở đâu?

– Thưa… nhà cháu không biết.

– Gia đình chị đã làm đơn thăm nuôi chưa?

– Thưa đã.

Hồi mừng đến run đôi tay khi nghe huyện lệnh hỏi đến lá đơn, nàng đưa mắt nhìn Thọ. Thọ hiểu ý, lấy lá đơn của Hồi đưa ra trước mặt:

– Báo cáo đồng chí, lá đơn chị ta đã gởi xin ủy ban cứu xét đây.

Đạo đưa tay ra, có ý như muốn cầm lấy lá đơn trong tay Thọ. Gã nói như thật:

– Nếu đã có chứng thị ở xã, tôi sẽ nghiên cứu và cho ý kiến sau. Chị cứ an tâm về sản xuất nhá.

Bị từ chối khéo, Hồi lấy hết can đảm đứng thẳng người lên trước mặt Đạo:

– Trình ông bí thư thương gia đình cháu. Cháu xin cắn cỏ làm tôi mọi cho ông bí thư.

Đạo nhìn xoáy mắt qua cổ áo Hồi :

– Chị không nên nói thế. Nói thế là chị trách cán bộ làm khó dễ nhân dân. Chị nên hiểu, cán bộ chẳng qua chỉ là người thi hành công tác của nhà nước, và chỉ là đầy tớ của nhân dân mà thôi. Tuy nhiên, trước những yêu cầu chính đáng của địa phương, tôi sẽ hội ý và có quyết định sau. Chị cứ về nghỉ ngơi cho sớm.

Hồi không dám tin vào những lời hứa xuông của Đạo, nàng cố gắng thêm lần nữa:

– Trình ông bí thư, không phải cháu không tin nhời ông. Nhưng sẵn có lá đơn ở đây, xin ông làm phúc cho cháu một lần.

Đạo làm như bị đặt vào trong tình trạng khó xử, gã im lặng một lát rồi bất ngờ cầm lấy lá đơn trong tay Thọ:

– Đồng chí ở ngoài này chờ tôi, ta sẽ hội ý sau. Còn chị… chị gì nhỉ?

– Dạ thưa cháu tên Hồi.

– Phải chị Hồi, mời chị và cả anh chủ nhiệm nữa, vào trong buồng làm việc. Tôi có vài chi tiết cần làm việc với chị ta.

Nói xong, Đạo bước thẳng vào trong. Bảng đứng mở rộng thêm cánh cửa như để nhường lối đi cho Hồi:

– Ở hiền gặp lành, thật là phúc đức qúa, chị vào ngay đi, kẻo ông ấy chờ.

Hồi vừa bước qua khung cửa, Bảng nối gót theo sau. Tuy thế, Hồi vẫn không thể nào kiểm soát được nhịp điệu của đôi chân. Sự do dự, thúc đẩy Hồi nhìn Bảng bằng đôi mắt cầu cứu. Bảng hiểu, gã tiến bước vấn an Hồi:

– Chị nhớ cẩn thận, đừng sơ xuất trong lúc gỉa nhời những câu hỏi nhá. Phúc đức một đời chỉ có một lần này thôi đấy.

– Vâng…

– Vậy thì tốt, chị cứ vào gặp ông ấy đi. Nhớ thành thật báo cho ông ấy nắm rõ gia cảnh của chị…

– Vâng….

Khi đến trước cánh cửa buồng, Hồi thấy Đạo ngồi sau cái bàn, nhìn ra cửa. Bảng lên tiếng:

– Báo cáo đồng chí.

Mười nói không ngửa mặt lên:

– Mà thôi, đồng chí bảo chị ta về trước đi. Còn các đồng chí thì mời vào cả trong này.

Hồi ngỡ là Đạo đổi ý, nàng vội lên tiếng:

– Trình ông bí thư…

Bảng liền dục:

– Chị vào đi. Nhớ lấy những điều tôi dặn và tranh thủ để về cho sớm. Tôi chờ chị ở ngoài.

– Vâng, xin cám ơn ông chủ nhiệm. Ông chờ cháu một tý nhá.

Nói xong, Hồi bước ngang cánh cửa buồng đúng lúc Đạo ngửa mặt lên:

– Mời chị ngồi tạm cái ghế này.

Hồi đứng như chôn chân xuống đất, bên cạnh cái bàn:

– Thưa ông cho cháu tự nhiên.

Nói xong, đôi mắt Hồi hoa lên, và trống ngực bỗng đập thác loạn.. Hồi hoàn toàn rối loạn khi thấy một cái bao thơ có tên người nhận là ông Phan văn Đăng để giữa bàn. Dù không thấy tên người gởi, Hồi đã nhận ra nét chữ quen thuộc của Thông. Cùng lúc ấy, Đạo đứng dậy, đi chậm chạp về phía cửa rồi trở lại, đẩy lá thư ra trước mặt Hồi:

– Chị có nhận ra là nét chữ của ai đây không?

Hồi cắn chặt hàm răng giữa đôi môi. Tay nàng vịn chặt vào thành cái bàn mà đôi chân như chống đỡ không nổi thân hình:

– Thưa ông…

Vũ Đạo vẫn bước từng bước rất chậm trong phòng:

– Chị không nhận ra tuồng chữ à?

– Thưa ông…

Tiếng Hồi bỗng ngưng bặt khi Vũ Đạo tiến sát lại bên nàng. Đôi mắt gã long lên và cái cằm bạnh ra, che khuất khung cửa trước mặt nàng:

– Thịt da em thơm qúa nhỉ. Em muốn trao đổi không?

Hồi thât kinh, chưa kịp nhận ra sự kiện thay đổi thái độ của Đạo, tiếng nói của gã đã làm cho Hồi lạnh người, nổi gai ốc. Bất giác, tay nàng bỏ thành bàn, nắm chặt lấy hai tà áo, và đôi chân riu ríu lùi dần vào phía bên trong:

– Ông… ông…!

– Ta làm cuộc trao đổi nhá?

Đạo vẫn tiến bước đẩy Hồi lùi dần vào phía bên trong. Khi chân vừa chạm vào thành cái giường, Hồi hoảng hốt giật nẩy người lên. Trong cơn hốt hoảng, Hồi tính gọi Bảng, nhưng cái lười tự nhiên cứng đơ trong cái miệng mở rộng, rồi tạo thành một âm thanh ú ớ, không thành lời:

– Á… A!… Ự, ự…!

Bàn tay trái của Đạo xoè rộng ra trước mặt, bịt kín lấy miệng Hồi. Còn một bàn tay khác, mạnh bạo hơn, đặt lên người và đẩy Hồi lên giường. Hồi như một con chiên non trước mồm sư tử, không phương chống cự. Đã thế, tiếng nói sắc lạnh như tiếng dao cạo, giật đứt tung hàng nút náo trước ngực nàng:

–        Câm mồm… ! Mẹ con mày muốn sống thì câm mồm…!

–        Á…chủ nhiệm… chủ nhiệm… cưu tôi…  Hồi muốn vùng vẫy, muốn gọi Bảng. Tất cả đã muộn.  Cái quàn của  Hồi bị kéo tụt xuống, mảnh  vải nhỏ bị giật đứt tung ra…, Số phận của nàng nghiệt ngã hơn khi tên thợ cạo đè hẳn lên trên ngưoi  …

 

 

 

 

Chương mười lăm    ***********************************************************

******************************************************************************

 

Sau bữa cơm chiều đầy phấn khởi, ông Lục bảo con đọc cho ông và vợ ông nghe lại lá đơn lần nữa trước khi nó đi sinh hoạt. Đây là loại đơn tự biên tự diễn, nó không có một kích thước, khuôn khổ nào rõ rệt. Về hình thức, lá đơn trên tay ông Lục dài hơn nửa trang giấy. Phần nội dung, chứa đựng toàn bộ ý kiến của ông Lục về việc xin tổ chức tuyên bố cho Dụng và Hồi. Nó cũng bao gồm việc xin phép nhà nước cho tổ chức bữa tiệc mừng tuyên bố có chừng vài chục người khách tham dự. Lá đơn khá ngắn gọn, những tưởng chỉ làm trong mươi lăm phút. Nhưng thực tế, nó là một sự ấp ủ chờ đợi lâu dài, khiến ông bà Lục phải suy tính, sửa soạn trong mấy tháng trời. Dụng đọc xong, ông Lục đưa tay ra trước mặt:

– Đưa đây cho bố, sáng mai bố lên ủy ban nộp cho họ!

Dụng không một thắc mắc, trả lá đơn lại cho ông Lục rồi ra khỏi nhà. Lúc nhìn trời đêm với những ngọn gío mát trên cao, lòng Dụng bỗng lâng lâng rạo rực một niềm vui khác lạ. Tuy thế, Dụng không thể định gía xem niềm vui ấy là niềm vui gì?

Nếu bảo đó là một niềm vui của một chàng trai sắp đi hỏi cưới người yêu có lẽ cũng không đúng lắm. Bởi lẽ, Dụng sắp đi hỏi vợ thật, nhưng thật ra cái quan hệ giữa Hồi và Dụng là một thứ quan hệ rất sơ đẳng và… nệ cổ. Nghĩa là, ngoài việc Hồi và Dụng biết mặt nhau từ nhỏ, rồi được cha mẹ đôi bên cho biết sự kiện cưới xin, họ chưa một lần nói chuyện tâm tình, chưa một lần ngồi bên nhau chỉ trời đất nắng mưa thề non hẹn biển. Và chưa có, dù chỉ một lần cầm tay nhau. Tuy nhiên, Dụng bằng lòng làm đơn, xin tổ chức lễ tuyên bố với Hồi là vì bà Lục. Mấy lúc gần đây, thấy Hồi rất được mắt, được lòng, bà Lục thường tìm cách bỏ nhỏ bên tai Dụng:

– Con lớn rồi thì phải lập thân, không thể ở mãi như vậy được. Hơn thế, nhà mình đơn chiếc lắm, mẹ muốn vào ra có vài ba đứa cháu cho vui cửa vui nhà lúc xế bóng. Con có ưng ý, hoặc phải lòng ai thì nói cho mẹ biết để thày mẹ lo thu xếp cho con.

Thấy Dụng im lặng bà tiếp:

– Mẹ đã để ý kỹ rồi. Cả cái thôn này chả có đứa nào nom được người được nết như cái Hồi bên ông bà Đăng. Nếu con bằng lòng, mẹ sẽ lựa lời nói cho bên ấy nghe câu chuyện.

Lúc đầu, Dụng bảo bà chả nên vội, vì sợ người ta không thuận nhời, nhưng sau khi nghe hoài, nghe mãi, Dụng xiêu lòng:

– Chuyện ấy thì tùy ý U.

Nghe thế, bà Lục phấn khởi hẳn lên. Bà phấn khởi vì thời gian gần đây, bà cứ lo bóng lo gío, lo con bà đi sinh hoạt với hội với đoàn, lo nó học được cái luân lý kiểu mới của xã hội chủ nghĩa, về nhà bắt cha bắt mẹ bỏ đi hết cái nền luân lý, đạo đức cơ bản của gia đình và xã hội theo truyền thống của cha ông xưa, để theo đòi cái tam vô của bác, và xây dựng gia đình theo kiểu của Việt cộng, chả cần gì phải giữ lễ nghĩa là gì. Có lúc bà  đã nghĩ, nếu nó đòi tổ chức theo  kiểu của nhà nước, để hình Hồ lên đầu như mấy đám vừa làm thì cứ gọi là đội… quần lên đầu mà đi. Làm thế thì nó muốn làm gì thì làm, bà không thèm hỏi han đến nữa. May thay, con bà chưa làm cách mạng kiểu ấy, nên ngay khi nghe được ý con, bà liền sang động viên ông bà Đăng và nói cho ông bà Đăng nghe hết mọi sự tình. Nếu như bên ấy không bị trở ngại về việc ông Đăng đi tập trung, có lẽ cái đám cưới của chúng nó đã tiến hành lâu rồi, có đâu còn chờ đến hôm nay.

Phần ông Lục, từ khi nghe nhời vợ sang hỏi cưới Hồi cho con đến nay cũng có nhiều điều khó nghĩ. Một trong những chuyện làm ông bận tâm là việc ông Đăng bị đi tập trung. Sự việc này chả ai bắt lỗi ông, nhưng ông cứ tự nhận rằng có một phần trách nhiệm trong đó. Ông đã mất ăn mất ngủ nhiều ngày. Mãi đến hôm nay, sau khi hoàn tất lá đơn ông mới cảm thấy gánh nặng như được trút bớt xuống, dù cái kết qủa của là đơn chưa biết sẽ ra sao. Nên ngay khi thằng Dụng ra khỏi cửa, ông ngồi xuống trên cái chõng, trịnh trọng đặt câu hỏi với  bà một lần nữa:

– Bà thấy lá đơn thế nào, có cần thêm bớt gì nữa hay không?

Bà Lục đang ngồi têm miếng trầu, đáp gọn:

– Còn thêm với bớt gì nữa. Để chờ xem chúng gỉa nhời ra sao.

Nói như thế là bà Lục không chắc ăn, bà có ý sợ nhà nước sẽ không nể bà vì cái lý lịch của ông Đăng. Tuy nhiên, bà ngại không muốn nhắc đến câu chuyện xúi quẩy trước khi ông Lục… khiêng lá đơn đi. Bà đành lặng lẽ nhổ bãi nước trầu vào trong ống phóng. Trong khi đó, sau khi đẩy hơi thuốc ra ngoài, ông buột miệng:

– Chóng thế!

Bà Lục ngưng nhai miếng trầu:

– Ông bảo chóng cái gì?

Giọng ông Lục khàn, đục:

– Ông ấy mới ngồi đây hôm nào, thế mà đã đi cả hai tháng ngoài rồi đấy!

Bà Lục chép miệng không nói, mắt bà chăm chú nhìn bóng hình ông in trên vách. Bà nhớ đến bữa cơm, nhớ đến ông Đăng, nhớ đến cơn sốt phản động do nhà nước tung tin, và tổ chức học tập trong suốt một tháng vừa qua. Bản tin không một ai tin là có thật, nhưng Xuân Thủy thêm một phen bơ phờ hốc hác, mất ăn mất ngủ. Lúc ra đường lỡ gặp mặt người quen mà cứ ngỡ kẻ đối diện kia là thằng địch, thằng gián điệp, nên chẳng ai buồn nói với ai một vài câu. Khi về nhà, lại nghi cả chồng con mình làm phản gián cho chúng. Thật, cái xã hội này chả còn lấy một tý vốn liếng căn bản đạo đức làm người. Cứ hở ra một câu là toàn những nghi vấn cho nhau.

Vừa nghĩ tới những hoạt cảnh của xã hội, miếng trầu trong miệng bà Lục bỗng đắng chát thay vì thơm ngon. Bà nhổ toẹt nó vào trong ống phóng, rồi kéo cao ống quần rộng lên lau miệng. Lau xong, bà đảo mắt ra ngoài sân, bà chỉ thấy một bóng đen dày đặc. Tự nhiên bà thấy mủi lòng, và xót xa cho số phận của bà Đăng và cái Hồi. Ông ấy đã bị bắt đi rồi thì mẹ con bà ấy làm gì có được ngày vui? Chợt có tiếng con Thạch Sùng tắt lưỡi trên cái xà nhà, bà Lục giật mình ngước mặt lên. Tự nhiên, bà rùng mình nhớ lại câu nói bóng gío xa gần của Bảng:

– Nếu đã bị tình nghi thì kẻ có công với nhà nước cũng không tránh được tai vạ!

Bà nhìn ông thêm lần nữa. Bà giật mình , và cho rằng câu nói của Bảng có y ám chỉ đến hoàn cảnh của bà. Bà vẻ nghi ngại, toan lên tiếng bảo ông:

– Hay thư thả rồi hãy lo ông ạ.

Nhưng lại bảo:

– Thật tội cho ông ấy, cả đời chỉ biết cầm cái cuốc cái cày kiếm miếng cơm manh áo cho vợ con. Đến lúc đã gần đất xa trời còn bị xa vào vòng lao lý với cái tội gớm ghê ấy.

Ông Lục thở mạnh một hơi trước mặt, vẻ không đồng ý:

– Ghê gớm à? Bà không mở mắt ra mà xem. Trước kia, hàng ngàn cái đầu người dân bị chặt rơi xuống đất. Tiếng những người ấy là bọn cường hào ác bá, cần phải tiêu diệt để xây dựng công bình xã hội. Nhưng thật ra, đó chính là một đường vẽ khác của cây mã tấu trong sách lược tự do cướp của giết người do nhà nước chủ trương, nên không một người nào dám phản đối. Rồi đến hôm nay, nhân dân cả nước đã phẫn uất đến tột độ, chúng sợ cảnh tức nước vỡ bờ, nên phải tung thêm bản tin làm gián điệp cho địch để chúng có cách giết người bịt miệng. Ngoài ra chả còn một lý do nào khác.

Theo lời ông Lục giảng giải, bà Lục đã mở mắt ra. Bà mở ra và thấy, đây là lần đầu tiên sau mấy chục năm trời chung sống với nhau, và sau hơn mười năm tính từ khi Vẹm mò về ven biên Xuân Thủy, ông Lục vẫn được tiếng là người nhịn nhục, ít khi mở miệng nói ra những chuyện bực mình của ông, nói chi đến việc lên án nhà nước, nhưng nay không hiểu vì lý do gì, ông đã phải lên tiếng.

Lúc đầu bà Lục hơi thắc mắc rồi ngạc nhiên về thái độ mới của ông đối với xã hội. Nhưng sau, bà lại cho rằng đến lúc chồng bà đã phải chấp nhận lý thuyết không chịu thua, không chịu lép vế nhà nước của bà là đúng. Nếu thế, bà sẽ mạnh tay với Bảng mà không sợ ông phản đối như trước nữa. Bà ứng tiếng:

– Thì đúng như nhời tôi đã bảo ông từ bấy lâu nay. Nếu chúng là cái giống người như mình, nhân dân ta đâu đến nỗi lo ngày lo đêm. Và rồi, thằng con ông đã chắc gì phải chết mất xác.

Ông Lục nhìn vợ, ông thấy nguy cơ bà Lục sẽ vin vào câu nói của ông, tạo thêm sự căng thẳng vô ích giữa gia đình ông và nhà nước vào đúng lúc cần nương nhau. Ông liếc mắt nhìn bà khi châm lửa vào đầu cái đóm:

– Bà bé miệng một tý có được hay không.

Nói xong, ông cúi xuống hút nốt điếu thuốc đang cháy dở. Phần bà Lục, bà cũng xụi lơ. Lý do, bà không thể nào hiểu nổi cái tâm lý của chồng bà vào lúc này ra sao. Ba hồi nóng, ba hồi lại lạnh. Nếu ở trong trường hợp khác, bà sẽ làm cho ra nhẽ. Bà sẽ hỏi thẳng ông là tại sao ông lại ăn nói tiền hậu bất nhất như thế? Nhưng lúc này, nhìn vẻ mặt đăm chiêu của ông, bà ái ngại, im lặng. Một lúc sau, bà hỏi ông:

– Liệu có xong không ông?

Ông Lục chậm rãi trả lời:

– Cũng chưa biết sẽ ra sao. Thích thì chúng thuận. Nếu không, thiếu gì lý do để từ chối. Nhưng dù chúng có thuận hay không thì vẫn phải làm.

– Chuyện ấy đã hẳn.

Nói thế là trong lòng bà Lục có sẵn hàng trăm mối thắt. Lúc này, thêm rối. Bởi lẽ,  nếu thôi, không làm đơn thì hóa ra người thất tín, bất nhân bất nghĩa theo phường đá cá lăn dưa và khó tránh được tiếng đời thị phi là ông Lục gài bẫy để nhà nước bắt ông Đăng. Mà làm đơn gởi đi cũng không tránh được điều lo lắng. Nếu chúng thuận thì chẳng nói làm gí. Trường hợp bị từ chối, liệu gia đình bà có tránh được đôi mắt nghi ngờ, soi mói của nhà nước hay không? Càng nghĩ bà càng đi vào con ngõ cụt. Cùng lúc ấy, ông Lục cuộn tròn tờ đơn cầm trên tay đứng dậy:

– Có lẽ tôi phải sang bên ấy một tý bà ạ. Nhân tiện hỏi thăm tin tức ông ta, rồi bảo cái Hồi nó đọc qua lá đơn cho bà ấy nghe, xem bà ấy có thêm ý kiến gì hay không?

Điều ông Lục nói hoàn toàn hợp lẽ phải. Bỗng nhiên, bà Lục kém nhiệt tình:

– Có lẽ giời đã tối rồi, để mai hãy đi.

Ông Lục quay mặt ra sân:

– Hãy còn sớm chán, giăng non vừa mới lên.

Bà Lục đành buông xuôi:

– Nếu thế, ông đi cho sớm rồi còn về.

Ông Lục khua chân trên đôi dép:

– Bà ở nhà trông chừng, tôi sẽ về ngay.

Bà Lục nhìn ra cửa:

– Thời buổi này bác đảng đi tuần tra suốt đêm, làm gì có trộm cướp mà phải trông chừng. Ông ra thì khép cái cánh cửa lại, còn tôi vào buồng nằm một tý cho nó thẳng cái lưng.

Nghe thế, ông Lục bước ra cửa. Tay ông cẩn thận khép lại cái phên tre làm cánh cửa ra vào, rồi bước xuống sân. Ngay lúc ấy, dưới ánh trăng non chênh chếch bên hàng cau, ông Lục nom thấy có bóng người đi vào trong con ngõ nhà ông. Ông giật mình, đứng lại. Giữa lúc ông chưa phân biệt được người gian hay kẻ ngay, khách vào đã lên tiếng:

– Ông hay bà đấy?

Nhận ra giọng nói quen thuộc, ông Lục bước ra:

– Tôi đây bà ạ!

Bà Đăng đứng trước sân, ngửa mặt nhìn vu vơ:

– Trời mát qúa ông nhỉ, ông đứng hóng gío hay định đi đâu? Bà có nhà không ông?

– Bà nhà tôi đang ở trong nhà. Còn tôi, đang tính sang bên ấy thăm bà và cháu. Nhân tiện có chút việc muốn thưa với bà. Không ngờ bà lại sang đây sớm hơn.

Bà Đăng hỏi lại:

– Có chuyện gì vậy hả ông?

Ông Lục đưa cuộn giấy trong tay ra trước mặt:

– Chả dấu gì bà, cái đơn xin tuyên bố đã làm xong rồi đây. Tôi tính đem sang bên ấy, nhờ con cháu nó đọc cho bà nghe, và xin bà cái ý kiến.

Bà Đăng vội trả lời:

– Thư thả đã ông ạ. Tôi cũng tính sang thưa chuyện với ông bà về việc ấy đây.

Ông Lục ngạc nhiên trước âu trả lời của bà Đăng. Tuy thế, không tiện đứng ở ngoài sân nói nốt câu chuyện dở, ông bảo:

– Vậy mời bà vào trong nhà uống bát nước đã!

Trong khi đó, sau khi ông Lục ra khỏi cửa, bà Lục đứng lên vặn nhỏ cái tim đèn xuống. Bà chưa kịp vào buồng nằm cho thẳng cái lưng như bà vừa nói đã nghe có tiếng xì xào to nhỏ trước sân. Bà bước nhanh đến bên phên cửa, nhướng cao đôi mắt nhìn qua khe hở. Bà giật mình, run bắn đôi chân khi thấy có hai bóng người đứng trên sân. Mặt bà mất thần sắc, một tay đưa lên chận ngang trước ngực, một tay vịn chặt trên khung cửa. Cùng lúc ấy, ông Lục trở lại, đẩy tay trên cái phên cửa. Bà Lục giọng thảng thốt, nói trong cổ:

– Ai thế? Có chuyện gì đấy ông?

Ông Lục xót xa cho cảnh gà phải cáo:

– Có bà Đăng lại chơi.

– Thế à?

Cùng với tiếng nói, bà Lục thở phào nhẹ nhõm. Nhẹ nhõm vì bà những tưởng có cán bộ của bác đến rình rập, đã nghe lén được câu chuyện giữa hai vợ chồng bà. Rồi nhân lúc ông Lục ra ngoài, chúng sẽ khôn ngoan sử dụng chung một phương án giống như đã làm với anh Bắc ngày nào. Nên ngay khi nghe ông trả lời là có bà Đăng đến, bà quên mọi âu lo, mở toang cánh cửa, đon đả mời khách vào. Bà rót nước, đưa cơi trầu ra mời khách. Sau vài câu thăm hỏi tin tức về ông Đăng, ông Lục đưa lá đơn ra trước mặt, nhắc lại câu chuyện dở trước sân:

– Chẳng dấu gì bà, đây là lá đơn xin làm lễ tuyên bố cho chúng, tôi đã đọc cho cháu viết sáng nay. Tôi định đem sang bên ấy, nhờ cháu nó đọc cho bà nghe, nhân tiện xin bà cái ý kiến trước khi tôi mang lên ủy ban.

Bà Đăng không một hứng khởi nhìn cuộn giấy để trên mặt bàn. Bà ngồi bất động. Thấy vậy, bà Lục lên tiếng:

– Không biết bà và cháu có muốn thêm bớt ý kiến gì không?

Hỏi xong, tự bà biết mình nhầm. Nhầm vì bà Đăng chưa biết trong tờ giấy ấy viết những gì. Bà Lục cười trừ chữa thẹn:

– Thật, chữ nghĩa không biết đến là khổ bà ạ. Tờ giấy để rành rành trước mặt có chữ cũng như không. Cũng may, cháu nó có đọc lại cho tôi nghe trước khi cháu đi sinh hoạt. Trong ấy, đại ý xin ủy ban tổ chức tuyên bố cho chúng vào cái ngày mà trước đây chúng tôi đã có nhời xin với bà. Kế đến, chúng tôi xin phép làm vài mâm cơm mừng đám cưới cho có đủ lệ với làng nước. Cái đơn, nghe cũng thuận tai lắm bà ạ.

Bà Đăng vẫn im lặng, bà hết nhìn cuộn giấy lại nhìn ông bà Lục. Hình như bà có điều gì muốn nói, nhưng chưa thể nói. Trong khi ấy, bà Lục không để ý đến sự im lặng bất ngờ của bà Đăng. Bà hạ thấp giọng xuống như phân trần:

– Chẳng nói ra, bà đã rõ. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, chúng tôi vẫn muốn, dù không tiệc tùng linh đình, có đôi bên tám họ tham dự thì cũng phải có năm bảy mâm cỗ, vài cơi trầu cho làng nước, xóm giếng. Trước là đáp hiếu với tổ tiên, cáo bẩm với ông bà và cầu phúc cho chúng trong ngày chúng thành gia thất. Sau là cho chúng một ngày vui với chị với em trước khi về gánh vác với nhau. Nhưng khổ một nỗi, phong tục lễ giáo, tập quán của cha ông để lại chúng đã bắt bỏ đi hết, rồi thay vào đó là cái lễ nghi lạ đời. Ngưng lại một chút, bà chép miệng:

– Thật, nghĩ đến vụ lễ nghi ấy là tôi ứa gan, lộn ruột nên không muốn bày vẽ tiệc tùng làm gì. Tuy nhiên, không làm thì không được. Do đó, như chúng tôi có nhời thưa trước với bà là không nên tổ chức rềng rang, chỉ xin làm vài ba mâm cơm thôi. Bên gia đình bà chừng mươi người, bên tôi cũng vậy. Riêng ủy ban và các ban ngành thì họ yêu cầu một mâm.

Vừa nhắc đến hàng ngũ… đầy tớ, công bộc của nhân dân là bà Lục giận run người. Bà ghé sát tai bên bà Đăng:

– Thật, nói ra thì bảo là lắm điều lắm nhời, hoặc là cố tình vạch áo cho người xem lưng. Nhưng không nói ra thì nó ấm ức ở trong lòng bà ạ. Cả như tôi, có cơm nước dư thừa thì đổ cho con gà con vịt, mình còn được miếng thịt về sau. Nhưng bà biết đấy, không mời chúng vào cái ghế hạng nhất, lá đơn sẽ hỏng nom thấy.

Sau khi báo cáo toàn bộ những sự kiện cơ bản cho bà Đăng nắm, bà Lục vẫn chưa mãn nguyện. Bà tiếp:

– Chả dấu gì bà, gần đây tôi sinh ra cái tính lạ. Nếu tôi ngủ quên đi thì thôi, nhưng khi thức và nhắc đến chúng là tôi thấy lộn ruột. Bà xem, nó khác gì một lũ đầu trâu mặt ngựa, một tay vác búa, một tay dao găm. Nhưng cứ mở mồm ra là cán bộ hết lòng vì dân vì nước. Hơn thế, còn là đày tớ, là nô bộc của nhân dân. Thật… nghe xong lời ấy là tôi muốn phát điên ngay.

Bà Đăng giật bắn người, tròn vo đôi mắt nhìn bà Lục. Bà không ngờ và cũng không hiểu nổi lý do tại sao bà Lục lên cơn bốc đồng ấy. Riêng bà Lục, người mẹ của cách mạng, người mẹ của chiến sỹ. Nó đồng nghĩa với sự kiện là mẹ của Hồ chí Minh lại không một ngượng ngùng khi vạch áo cho người xem lưng con mình. Trái lại, càng nói bà càng hăng, bà làm câu chuyện bàn về nội dung lá đơn mất hẳn chủ đề. Thấy vậy, ông Lục liếc bà một cái rồi lên tiếng:

– Bà ăn nói đến hay.

Chừng như biết mình đi qúa xa, bà Lục ngưng lại cười duyên:

– Bà nghĩ xem, tôi nói như thế có đúng không?

Hỏi thế, không có nghĩa bà Lục là người độc ác, thích làm công tác kể tội lũ con. Trái lại, sự kiện này nên được hiểu bà Lục là mẫu người lương thiện. Bà không thể im hơi lặng tiếng trước cái thói bố lếu bố láo của Hồ và Vẹm dược. Từ đó, nó buộc bà phải nói lên một sự thật. Chằc không ai nỡ trách cứ bà.

Phần bà Đăng, nếu được hỏi ở trong trường hợp khác. Có thể bà sẽ góp đôi ba lời. Riêng trong lúc này, ruột bà rối tợ tơ vò, gan bà nát như tương, bà còn thần trí đâu mà bàn về cách ăn ở của đám cán bộ nhà nước đối với dân chúng ra sao. Thấy bà ngậm tăm, bỏ thẻ, ông Lục chợt nhớ ra câu chuyện dở trước sân. Ông hỏi:

– Hồi nãy tôi có nghe bà nói thong thả, không biết ý bà muốn nhắc đến chuyện gì?

Tiếng bà Đăng rời rạc:

– Thật, tôi không biết phải thưa câu chuyện với ông bà thế nào cho phải phép…

Thấy bà Đăng bắt đầu bằng một câu nói rất lạ, không nằm trong sách vở ngoại giao giữa hai gia đình, ông bà Lục ngạc nhiên nhìn nhau. Rồi nhầm tưởng bà Đăng không đồng ý phần nào đó trong việc tổ chức tuyên bố, hoặc lo ngại về sự vắng mặt của ông Đăng trong buổi lễ, Bà Lục lên tiếng:

– Chuyện ông nhà không có mặt trong buổi lễ, dĩ nhiên là chuyện đáng buồn. Tuy nhiên, bà chả nên buồn nhiều. Càng buồn, càng có hại cho sức khỏe bà ạ. Hơn thế, bên cạnh bà còn con cháu. Nó thấy bà thường xuyên buồn rầu chán nản, nó buồn theo và sinh ra bệnh hoạn thì thật là rước thêm họa vào nhà. Bà đã từng nghe nói: Phúc bất trùng lai! Nên bà cứ nghe tôi, giải những nỗi buồn ấy đi thì hơn.

– Cám ơn bà có lời khuyên bảo. Nhưng lời tôi nói, nếu có gì làm phật ý ông bà, xin ông bà bỏ qua cho nhá.

Bà Lục xốt ruột:

– Bà cứ khách sáo, có gì mà lỗi với phải.

Bà Đăng thong thả trả lời:

– Nào tôi có khách sáo gì, chỉ vì câu chuyện hơi khó nói thôi. Ngưng lại một chút bà Đăng tiếp:

– Tôi biết ông bà thương đến cháu, và muốn lo cho chúng thành gia thất, để ông bà cũng như tôi được yên tâm trong tuổi gìa. Nhưng mấy hôm nay, không hiểu vì lý do gì, cháu nó cứ buộc tôi phải sang đây thưa lại câu chuyện với ông bà là cháu… cháu…

Ông bà Lục nhổm hẳn người lên:

– Bà bảo gì? Cháu nó làm sao hả bà?

– Nó muốn…

Cả hai người đều ngã bật ngửa ra phía sau, khi tiếng bà Đăng thật rõ ràng:

– Cháu… xin lỗi ông bà. Cháu không muốn lập gia đình.

Ông bà Lục kinh ngạc nhìn nhau. Lúc đầu, ông bà Lục tưởng rằng khi về gìa, lỗ tai thường nghễnh ngãng nên nghe không thủng câu chuyện. Đến khi bà Đăng nhắc lại ý định của Hồi lần nữa, ông bà Lục cùng im lặng nhìn nhau.

Nhớ lại, từ lúc bước chân vào trong nhà, bà Đăng đã có nét mặt đầy những ưu tư và hốt hoảng. Kế đến, sự im lặng gần như khác thường của bà cũng mang một ẩn ý khó giải. Ông bà Lục lại không để ý đến sự kiện im lặng đột xuất ấy, nên tiếp tục câu chuyện theo dự kiến. Đến lúc này, câu chuyện hoàn toàn trái ngược và đi ra ngoài sự dự trù, khiến ông bà Lục đâm ra lúng túng:

– Tại sao thế hả bà? Có phải vì những tin đồn thất thiệt hay không?

– Cháu có nói thế à?

Bà Đăng vẻ thất vọng:

– Sự thật, chính tôi cũng không hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao. Cả một tuần lễ nay, ngày nào cháu cũng yêu cầu tôi phải sang thưa lại câu chuyện với ông bà, cho cháu xin lỗi. Cháu không thể vâng lời mà lập gia đình được.

– Tại sao lại như thế. Cháu có nói cho bà nghe cái lý do không?

Bà Đăng kéo cao vạt áo lên ngang mặt, tiếp:

– Không bà ạ! Tôi gạn hỏi nhiều lần, cháu nhất định không nói gì đến cái lý do, đã thế, có khi còn gắt gỏng với tôi. Nói ra thì đúng là vạch áo cho người xem lưng. Vì kể từ khi còn nhỏ đến bây gìơ, chẳng có khi nào cháu dám dấu diếm, hoặc trả lời lớn tiếng với tôi nửa câu. Nhưng lúc này, nếu chắc đến chuyện lập gia đình của cháu là mẹ con tôi xích mích, lời qua tiếng lại với nhau. Tôi thật không biết xử trí ra sao…

Câu chuyện vốn không vui, kèm theo cái âm thanh trầm buồn của bà Đăng, làm ông bà Lục thêm thất vọng:

– Thế thì lạ nhỉ?

– Vâng, nó lạ lắm ông bà ạ!

Bà Lục nhắc lại câu hỏi một lần nữa:

– Bà đã tìm hiểu rõ cái nguyên do chưa?

Bà Đăng ngồi yên lặng một lúc, rồi quyết định thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho ông bà Lục nghe:

– Tôi đã cố công tìm hiểu, nhưng không biết gì hơn ngoài sự việc vào một buổi tối cách nay mấy hôm. Khi đi sinh hoạt về, cháu bỏ cơm chiều rồi vào trong giường nằm úp mặt xuống gối tức tưởi. Lúc đầu, tôi nghĩ cháu bị ức lòng vì những lời lẽ trong buổi sinh hoạt. Hoặc vì có kẻ ghen tức với cháu trong cuộc bình bầu vừa qua, nên nhân cơ hội bố cháu bị bắt, họ nặng lời với cháu. Tự nghĩ thế, tôi vào an ủi cháu đôi câu, cắt nghĩa cho cháu nghe chuyện thế nhân thường tình. Không ai nằm vắt tay trên trán từ tối đến sáng. Do đó, không nên vì thế mà bi lụy. Khuyên bảo cháu một lúc, tôi dục cháu đi ăn cơm rồi đi ngủ. Phần tôi, tưởng thế là xong, nên vào giường nằm. Ai ngờ đến nửa đêm, tôi giật mình thức dậy vì nghe rõ tiếng thút thít của cháu. Tôi lấy làm lạ, vội đi sang, thấy cháu khóc sưng cả mặt mũi. Khi nhìn ra nhà ngoài, bát canh, chén cơm chiều vẫn để yên trên bàn. Tôi lo lắng ngồi xuống hỏi han cháu, nó chẳng trả lời tôi nửa câu. Tôi giận qúa, bảo cháu:

– Vì cớ làm sao, và có chuyện gì mà ngay U con hỏi, con cũng không thèm trả lời?

Bà Đăng nhắc đi nhắc lại câu ấy đến mấy lần, Hồi vẫn yên lặng. Rồi đột nhiên, Hồi đập mạnh đôi bàn tay trên cái giường, tiếng nói như gào lên:

– Nhục thế này thì chết đi cho xong.

Bà Đăng choáng váng, lại tưởng nhầm Hồi  uất ức vì chuyện ông Đăng bị bắt. Bà mất bính tình, giận qúa mất khôn, vả vào mặt Hồi vài cái:

– Ăn càn nói gở như thế mà nói được à? Bố mày ở trong tù nghe được lời ấy thì cũng uất lên mà chết. Con với lại cái.

Hồi uất người, đấm thùm thụp xuống trên mặt giường:

– Trời ơi là trời. Tôi muốn chết, tôi muốn chết. U đi ra ngoài đi. U đi ra ngoài đi…hu…hu.

Bà Đăng ngỡ ngàng đứng dậy, mắng cho Hồi vài câu nữa rồi về gường nằm. Nằm mãi, bà vẫn không dỗ được giấc ngủ. Khi gà vừa gáy sáng, bà lại sang trông chừng Hồi. Từ ngoài khung cửa nhìn vào, thấy Hồi nằm im như ngủ say, bà yên tâm trở gót. Tuy thế, ngày hôm sau, bà không dấu nổi lo lắng. Hồi đã bỏ một ngày lao động, và không bước ra khỏi buồng. Chiều đến, bà Đăng đoán chắc là Hồi đã gặp chuyện bất thường. Bà nấu cơm, đem vào tận giường cho Hồi như là một cử chỉ làm lành và an ủi con. Thấy bà, Hồi ngồi dậy ôm choàng lấy bà:

– U, U có thương con không?

Bà Đăng ngỡ ngàng ngồi xuống trên mép giường. Một tay gỡ mái tóc rối buông xỏa trên vai con, một tay ôm con vào lòng:

– Con hỏi hay nhỉ, U không thương con thì thương ai?

Trả lời xong, bà Đăng nhớ lại câu chuyện hôm trước, bà tiếp:

– Con có giận U về chuyện hồi đêm không?

Tiếng Hồi không một chút giận hờn:

– Không, con thương thầy U lắm! Con có chết cũng chẳng sao, chỉ mong cho thầy U được sống bên nhau đến trăm tuổi.

Bà Đăng mở to đôi mắt, lo lắng nhìn không chớp trên khuôn mặt tái nhợt, và đầu tóc rã rượi giống như người trúng tà của Hồi. Bà hỏi:

– Con có đau yếu hay buồn giận chuyện gì không?

– Không, con không đau yếu và cũng chẳng buồn giận chuyện gì.

– Thế tại sao con lại thế này?

Hồi không trả lời câu hỏi, nàng úp mặt vào trong lòng bà Đăng:

– Con khổ qúa, con muốn xin U một điều. U có chịu giúp con không?

Bà Đăng lau giọt nước mắt trên mặt Hồi:

– Có chuyện gì làm cho con được, mà U không làm?

Nói xong, bà Đăng giật bắn người lên. Bà không tin nổi lỗ tai đã luống tuổi của bà khi Hồi bảo:

– Con thật sự không muốn lập gia đình, xin U sang trả lời với ông bà bên ấy giúp con.

Bà Đăng tưởng chừng như tiếng xét đánh ngang tai, bà ngồi bất động thay vì xốc nổi như chiều hôm trước. Lát sau, bà kín đáo quan sát rồi vỗ về tìm lời khuyên bảo Hồi:

– Con nói hay nhỉ, con gái lớn thì phải đi lấy chồng, ở nhà với cha mẹ mãi sao được. Tuy nhiên, nếu chỉ vì chuyện của thày con, con không muốn lập gia đình sớm thì để u sang cho họ biết.

– Không phải chỉ vì chuyện ấy, nhưng con đã dứt khoát không muốn lập gia đình. Xin U trả lời với bên ấy giúp con.

Sau khi kể lại toàn bộ câu chuyện cho ông bà Lục nghe, bà Đăng nói:

– Nhất thời, tôi phải lựa lời khuyên bảo cháu, vì cho rằng cháu có chuyện gì buồn, nên sôi nổi nghĩ quẩn chăng. Cũng may sang ngày hôm sau, cháu đã nguôi ngoai, cháu đã ăn uống và lại đi lao động bình thường. Nhưng suốt một tuần nay, ngày nào đi lao động về đến nhà, cháu cũng nhắc hỏi tôi là đã thưa chuyện với ông bà chưa? U không cho họ biết trước, để nhỡ họ làm đơn rồi là thêm rắc rối lớn. Khi ấy lại thêm hờn trách lẫn nhau, và mang tiếng cho mình. Nếu U không tiện trả lời, tối nay đi sinh hoạt con sẽ nhờ anh ấy thưa lại với ông bà ta. Hoặc là con sẽ sang để thưa câu chuyện cho ông bà ấy biết.

Ngưng lại một chút, bà Đăng phân trần:

– Đấy ông bà xem, đúng là tai ách giữa đường. Tôi khổ tâm hết sức, nhưng không biết phải làm thế nào cho đúng. Gía có bố cháu ở nhà, câu chuyện chắc dễ dàng hơn. Riêng tôi, coi như phận mẹ góa con côi, chẳng giải quyết được gì, nên phải sang thưa câu chuyện với ông bà. Xin ông bà cho… thư thả lại một thời gian, rồi sau hãy tính.

Ông Lục ngồi trầm ngâm bên cái điếu, lòng ông đầy những biến động trong lúc lỗ tai lùng bùng nghe bà Đăng thuật lại câu chuyện. Tuy thế, ông cố giữ bình tĩnh không để lộ ra ngoài. Khác hẳn với ông là bà Lục, sắc diện bà thay đổi theo từng lời nói của người đối diện. Khi nó co rúm lại, có lúc chảy dài ra. Ngay cái thế ngồi khi co lúc duỗi của bà đã bộc lộ hoàn toàn tâm tư rối loạn của bà. Nhiều lúc, tai bà nghe nhưng lòng bà lại tưởng đang nằm trong một cơn ác mộng.

Biện minh cho ý nghĩ chủ quan của bà là cách đây vài ba hôm, bà gặp Hồi trên đường đi lao động về. Hồi vẫn nhanh nhảu đon đả lên tiếng chào hỏi bà, bà chả tìm thấy một sự đổi thay nào trên nét mặt tươi vui ấy. Nhưng lý do gì, bà Đăng lại trịnh trọng báo cho vợ chồng bà bản tin kém hứng khởi này? Có thể vì một ẩn ý riêng nào khác mà bà Đăng muốn dấu chăng? Càng nghĩ bà càng lẩn quẩn, không tìm được câu trả lời. Lát sau, bà cúi xuống cầm lấy bình trà, rót thêm cho bà Đăng nửa chén nước, xuôi chiều góp chuyện:

– Mời bà uống bát nước, ăn trầu đi đã !

Mời xong, tự tay bà lấy một miếng trầu cho vào miệng. Bà nhai bõm bẽm:

– Tôi nghĩ thế này bà ạ. Nhất thời ta cứ chiều theo ý của cháu, và ông nhà tôi tạm ngưng việc đưa lá đơn lên ủy ban. Sau đó, ta tiếp tục theo dõi và động viên cháu. Nếu cháu nguôi ngoai cơn buồn, ta sẽ liệu sau.

Bà Đăng im lặng không trả lời, bà Lục quay mặt về hướng chồng:

– Tôi tính như thế, liệu có được không hả ông?

Ông Lục nhìn cái lá đơn cuộn tròn để trên bàn:

– Xét cho cùng thì chả còn cách nào hay hơn.

Bà Lục nhổ bã trầu vào ống phóng, nhanh nhảu như người làm đúc kết bản báo cáo:

– Vậy thì được rồi bà ạ. Bà chả nên hối thúc cháu làm gì, cứ để cho cháu thư thả suy nghĩ thêm một thời gian nữa, rồi ta sẽ đặt lại vấn đề. Khi ấy, nếu cháu thuận, ta thu sếp công việc cũng chẳng muộn gì. Đặt trường hợp, nếu cháu vẫn một mực giữ ý định ấy thì… Giời không chịu đất, đất phải chịu giời. Có phải thế không bà?

Bà đăng chống tay lên đầu gối đứng dậy:

– Vâng, nếu ông bà có ý kiến như thế, tôi xin tùy theo ý kiến của ông bà.

Nói xong, bà Đăng bước ra cửa, bà Lục bén gót tiễn khách ra sân. Bà dặn với theo:

– Thôi bà về nhá! Chuyện của cháu, ta cứ thong thả bà ạ. Chúng còn trẻ, ngày còn dài tháng còn rộng, chả nên vội vàng ép chúng lại thêm nhỡ việc.

– Bà nghỉ nhá.

Trở vào trong nhà, sau khi xếp mấy cái bát uống nước chồng lên nhau và vặn nhỏ cái tim đèn xuống, bà Lục tính vào giường nằm. Thấy ông Lục chưa đứng dậy, bà lại ngồi xuống bên cạnh ông. Cả hai cùng đăm chiêu nhìn lên bóng đen bất động in trên vách. Ngoài trời, bóng đêm xã hội chủ nghĩa, không thông cảm với nỗi niềm khổ đau của Xuân Trường. Nó tiếp tục chồng chất lên cổ người dân nỗi kinh hoàng. Một thứ kinh hoàng đã mọc rễ ngang vào đời họ từ khi có Hồ chí Minh và Viêt cộng. Họ không biết cuộc sống chung khắc  nghiệt này còn kéo dài bao lâu. Nhưng có diều chắc là, ngày nào còn miêu duệ của loài khỉ đột ngự trị ở Hà Nội, ngày ấy những người như ông bà Lục, bà Đăng, khó tìm được một niềm vui của kiếp người…

 

 

 

 

Chương mười sáu   *********************************************************

*******************************************************************************

 

Sau khi trải manh chiếu và để cây đèn dầu xuống trên vỉa hè, bà Lục đứng chống tay nhìn trời lẩm bẩm một mình:

– Rõ thật, ngày tháng mười chưa cười đã tối! Vừa ăn xong bữa cơm, trời đã thanh vắng như là nửa đêm.

Nói xong, bà gọi:

– Bố thằng Dụng đâu rồi, vào mà uống hớp nước kẻo nguội.

Từ ngoài đầu ngõ, ông Lục nghe rõ tiếng bà lanh lảnh gọi ông. Nhưng ông vẫn một mình lặng lẽ đếm bước, suy nghĩ đến một vài vấn đề chưa tìm được đáp số:

Thứ nhất: Vì lý do gì, Hồi không muốn lập gia đình, và nhất định không chịu làm con dâu của ông?

Thứ hai, cùng khoảng thời gian này, ngoài việc không tin tức của ông Đăng, nhức đầu về chuyện từ hôn của Hồi. Ông Lục thêm thắc mắc vì không thấy bóng chủ nhiệm Bảng lai vãng đến nhà thúc dục, hoặc cho người đến mời ông lên trụ sở ủy ban, bàn về việc con trâu và mấy sào ruộng như trước.

Nhớ lại, từ khi bà Đăng thông báo cho ông bản tin kém vui ấy đến nay đã được hơn một tháng. Rồi chính ông đã từng gặp bà Đăng, gặp Hồi đến mấy lần với mục đích tìm hiểu nguyên do đưa đến quyết định của Hồi. Kết qủa, ông không thể tìm được bất cứ một đầu mối nào để giải thích cho sự kiện Hồi không muốn lập gia đình. Nói cách khác, trong những lần gặp gỡ, Hồi đều cho ông cái cảm giác là nàng rất lành mạnh, bình thường, không có chuyện hờn giận và cũng không có vấn đề đột xuất để đưa đến quyết định từ hôn của nàng. Chính vì cái sự kiện tất cả đều có vẻ bình thường ấy đã làm ông thêm nhức đầu, khó nghĩ, nên khi nghe bà Lục gọi, ông không vội lên tiếng. Mãi một lúc sau, ông mới đủng đỉnh quay gót trở vào. Khi vừa trở gót, ông bỗng nom thấy một bóng người đi nhanh về hướng nhà ông. Ông có ý thong thả bước chân để xem bóng đen kia là ai. Khi bóng đen còn cách ông đến bốn năm bước, ông chưa nhận diện được người đi đường. Người đi đường đã hắng dọng hỏi ông:

– Ai nom như là ông Lục, có phải ông Lục đấy không?

– Rõ chán!

Ông Lục chép miệng thở mạnh một hơi, bụng bảo dạ: Vừa nhắc tào, tào đã đến. Ông đáp gọn:

– Phải, tôi đây! Chào ông chủ nhiệm.

Chủ nhiệm Bảng đứng trước mặt ông Lục với thái độ niềm nở khác thường:

– Ông chả nên xưng hô thế. Đã mất tự nhiên lại thêm xa cách ông ạ. Sự thật, tôi có là chủ nhiệm, chủ tịch thì với người ngoài thôi, còn với ông bà là người trong cùng một giai cấp… cách mạng với nhau, tôi không dám. Hơn nữa, xét về thành phần xã hội, ông là vai trên, ông cứ gọi cái tên của tôi cho nó thân tình.

Ông Lục ngỡ ngàng trả lời:

– Ông chủ nhiệm dạy qúa lời! Ông là chủ nhiệm của hợp tác xã, vào ra phải có người thưa, kẻ trình. Còn tôi là một nhân khẩu trong xã, có đâu dám vô phép.

Tuy biết ông Lục nói mát, lỗ mũi Bảng vẫn nở to hơn bình thường. Gã ngửa cổ lên nhìn trời, mỉm cười đắc ý. Ông Lục tiếp:

– Ông chủ nhiệm có việc riêng đi ngang qua đây, hay là muốn đến tìm tôi có chuyện gì chăng?

Vì có dự kiến từ trước, Bảng xoa mạnh đôi tay, đứng gần xát vào bên ông Lục. Giọng gã trịnh trọng:

– Tối nay, nhân lúc đẹp giời lại có chút công chuyện phải đi ngang qua đây. Tôi nhớ đến ông bà nên tiện đường ghé vào, trước là thăm hỏi sức khỏe của ông bà, sau là đại diện ủy ban đến báo cho ông bà một bản tin vui nhớn.

Ông Lục xửng xốt nhìn Bảng. Ông xửng xốt vì khắp vùng Xuân Thủy ai cũng biết, gặp mặt chủ nhiệm Bảng là cầm chắc gặp tai bay vạ gío. Nghĩa là, mỗi khi gặp Bảng và cán bộ nhà nước là nhân dân trong vùng có cảm giác như gặp mặt hung thần, ác qủy, có đâu lại nghe được tin vui. Thế mà lúc này, Bảng lại hiên ngang đứng trước mặt ông, bảo cho ông biết là gã mang đến cho gia đình ông một tin vui nhớn. Sự việc như thế ai mà dám tin? Ông hỏi Bảng:

– Có tin vui gì thế hả ông chủ nhiệm?

Bảng kéo cánh tay ông Lục:

– Thong thả ông ạ, vào trong nhà ta hút điếu thuốc, uống hớp nước chè nóng, rồi tôi sẽ thông báo cho ông bà cùng nghe.

Ông Lục không còn đường trốn chạy, đành ngậm qủa bồ hòn làm vui:

– Ông chủ nhiệm nói phải! Mời ông qúa bộ vào trong nhà ăn điếu thuốc, uống bát nước.

Trong khi đó, bà Lục sau câu gọi: Bố thằng Dụng đâu rồi, vào mà uống bát nước kẻo nguội là bà vào trong bếp, gạt đống than tro ra, lấy ngón tay ấn thử trên củ khoai mật. Khi tay bà vừa chạm vào độ chín mềm của củ khoai, mũi bà đã ngửi thấy hương vị đặc biệt của mùi khoai nướng bay lên. Bà nhanh tay, kéo củ khoai ra khỏi lớp than, đặt nó nằm gọn trên miếng mo cau, rồi chống tay đứng dậy. Bà đi trở lại hướng nhà trên, nơi bà đã trải sẵn manh chiếu, cái đèn, cái điếu và bình trà để ngồi uống trà ngắm trăng với ông. Bà rộn ràng đôi chân, bà quên ngoại cảnh, bà không để ý đến những diễn biến chung quanh. Theo đó, bà không hay biết đến sự có mặt đột xuất của chủ nhiệm Bảng. Vừa ra khỏi cửa bếp, bà vui miệng bảo ông:

– Củ khoai nướng ngon lắm bố thằng Dụng ạ.

Nói xong, bà giật mình đứng khựng lại. Trước mặt bà, trên manh chiếu cũ trước cửa, có đến hai bóng người ngồi thay vì một chồng bà. Tuy thế, bà không thể quay trở lại bếp, bà bước thêm vài bước:

– Ông chủ nhiệm lại nhà. Sao bố thằng Dụng không mời ông chủ nhiệm qúa bộ vào trong?

Bảng vui như chưa bao gìơ được vui, gã nhắc lại câu nói giống như đã nói với ông Lục ngoài đầu ngõ. Nói xong, Bảng cầm cái điếu và xáp thuốc của ông Lục lên:

– Ngồi ngoài hóng tý gío mát bà ạ! Mời bà ngồi xuống đây cho khỏi mỏi chân.

Bà Lục ứ hự một tiếng trong cổ, để miếng mo cau, trên đó có củ khoai nướng xuống trước mặt cho ông Lục canh chừng, rồi đi vào trong nhà lấy thêm cái bát ra rót nước mời khách. Khi trở ra, bà đau đớn nhìn củ khoai còn bốc khói trước mặt. Bà đau vì biết củ khoai này chính ra chỉ phải chia làm hai phần, phần lớn hơn bà sẽ dành cho ông. Riêng bà, bà chỉ cần nhìn thấy ông khen ngon là đủ vui. Nhưng lúc này, củ khoai chắc phải được chia ra làm… ba!

Thật ra, bà Lục không thuộc vào giai cấp những người keo kiệt, tiếc rẻ miếng ăn, dù miếng ăn ấy là miếng khoai nướng rất thơm ngon. Bà chỉ tiếc miếng khoai ấy phải đưa mời một người bà không thích. Trong trường hợp người khách là bà Đăng, hoặc cái Hồi, có lẽ bà đã sẵn lòng nhường luôn phần của bà cho họ. Vừa nhắc đến tên Hồi là bà thấy buồn. Bà nghiến răng bẻ củ khoai ra. Bà đưa cho ông một phần, và mời chủ nhiệm Bảng một miếng lấy thảo. Bảng không khách sáo, gã từ chối cho có lệ rồi đưa tay ra cầm lấy. Khi miếng khoai đã vào đến dạ dày, Bảng thấy an tâm và hứng khởi. Gã nhìn ông bà Lục bằng ánh mắt rất dịu, và mở đầu câu chuyện theo một cung cách hoàn toàn khác với thông lệ:

– Thằng Dụng chắc đi sinh hoạt rồi ông bà nhỉ?

– Phải, cháu đã đi từ sớm.

Bảng nói như thật:

– Cái thằng đến ngoan, gặp tôi ở đâu nó cũng nhanh mồm, nhanh miệng lên tiếng chào hỏi. Trong tổ sản xuất, ai cũng thích và khen nó giỏi. Ông bà đến là tốt phúc, nhờ ơn cách mạng đã đẻ được đứa con như nó.

Nghe tiếng khen, bà Lục cắn phải lưỡi:

– Khéo mà ông chủ nhiệm đã qúa nhời.

– Tôi nói thật lòng đấy! Ông bà nhìn xem ở trong vùng Xuân Thủy này, có mấy đứa được người được nết như nó? Đã thế, nó lại thuộc diện gia đình liệt sỹ có công nhớn với cách mạng. Cái phúc ấy, ai bì kịp?

Bà Lục quắc mắt lên nhìn rồi ứ hự một tiếng trong cổ. Mấy năm gần đây đúng như bà đã tự đánh gía về mình. Bà đã sinh ra và đeo bên mình một tật xấu rất khó chừa. Và ông Lục, cũng có nhận định về bà như sau:

– Tôi không thể nào hiểu được vì cái lý do gì, ngày xưa bà ăn nói gọn gàng, nhỏ nhẹ có đầu có đuôi, không bao giờ tỏ ra xốc nổi hoặc to tiếng với ai. Nhưng lúc này, cứ động một tý là bà làm toáng lên. Nhiều lúc bà nói chuyện với người ta, mà tôi tưởng là bà đang cãi nhau.

Nghe ông Lục phê bình, bà Lục không một chút giận hờn. Lý do, chính bà cũng có đánh gía về bà. Bà biết đó là một tật xấu. Một tật xấu tự nhiên mọc ngang vào đời bà. Tuy nhiên, bà không có ý định… chừa. Trái lại, có lúc nghe ông phàn nàn, bà trả lời:

– Cái tật của tôi là tật thời thế ông ạ. Chừng nào sạch búa liềm, cái tật của tôi không muốn chừa cũng hết.

Nói như thế, có nghĩa là cái tật xấu của bà Lục được mở ra theo một thời khóa biểu có sẵn. Bà chỉ nổi cơn lên khi thấy, hoặc nghe được những lời giả nhân, gỉa nghĩa từ cửa miệng các cán bộ đảng viên nhà nước nhảy ra mà thôi. Ngoài ra không có một trở chứng nào khác. Như thế, thật tội cho bà. Bởi lẽ, bà là một người vốn dĩ cả đời chỉ biết võ trang cho mình và gia đình một cái mớ luân lý căn bản làm người. Đó là sự đạo hạnh, đơn thuần, thật thà, chất phác. Bà và người dân Việt không biết quanh co, xảo trá. Thấy trắng bảo trắng. Thấy đen, bảo đen. Và không ai có thể bắt bà uốn cong cái lưỡi để nói những điều trái với cái tấm tình thuần hậu của bà được.

Nhưng thật không may cho bà, từ ngày Hồ nhân kéo rê đôi dép râu vào lịch sử Việt, và miêu duệ của nó kéo cái lá cờ máu có cái liềm và cái búa lên để làm thước đo công lý thì đời bà kể như tàn. Tàn vì lẽ sống và bản chất của bọn Hồ nhân hoàn toàn trái ngược với căn bản của người. Bà thật thà, Hồ xảo trá. Bà hiền lành, bác độc ác. Bà không thích của không đổ mồ hôi, nhưng Hồ nhân lại tài tình, giỏi đá cá lăn dưa. Kết qủa, vì có cái mã tấu trong tay nên Hồ thắng. Phần bà là người thua cuộc nên đành đeo vào người cái tật nhiều lời.

Bên cạnh cái tật xấu mới mọc ngang xương vào đời bà, bà Lục còn là người rất nặng thành kiến cá nhân. Người nào bà yêu thích, cho đến chết bà vẫn yêu. Kẻ nào bà liệt kê vào thành phần bất hảo thì dù có phải chết, bà cũng không đổi tánh nói ngược lại. Về chuyện này, thật rủi cho bác. Chả biết thằng… địch nó tuyên truyền giỏi như thế nào, để đưa bà Lục đến một kết luận khá bất lợi cho phía của Hồ.

Nhớ lại, từ lúc khởi đầu cuộc giao chiến, bà Lục không có ý định tin vào những lời tuyên truyền của cả hai phe. Bà đã quyết một lòng bụng cứ rốn, và giữ thế trung lập. Nhưng ngay sau khi thằng địch bỏ chạy vào nam, và người dân xứ bắc gồng gánh di cư đi tìm tự do, bà Lục đã trắng mắt ra. Tuy nhiên, phải chờ đến khi được mời làm chứng nhân trong những vụ đấu tố, giết người theo chính sách đấu tố phú nông địa hào của chúng ở trên đất bắc, bà Lục mới thật sự dập… mật.

Mật vỡ, sắc mặt bà biến xanh như tàu lá. Bà vội vã chạy về nhà đấm ngực ăn năn, quyết chừa thế trung lập thiên tả của bà. Nói chừa vẫn chưa đủ, bà đã đứng dậy. Tô son điểm phấn, chữa lại lỗi lầm lúc trước bằng cách xăn tay áo lên ra tuyên bố:

– Thứ nhất, kể từ đây bà và Hồ nhân sẽ đoạn tuyệt, không còn một liên hệ nào với nhau.

– Thứ hai, bà rửa tay xin… gỉa cái chức làm mẹ cách mạng, mẹ chiến sỹ mà Hồ và Vẹm đã phong cho bà.

– Thứ ba, bà tự quay trở về và đứng chung liên danh với hàng ngũ của hàng xóm, láng giềng là những người bạn, tuy cùng chân lấm tay bùn nhưng tình thân nghĩa thiết với bà.

Thảo xong bản tuyên cáo, bà Lục đã trịnh trọng công bố cho bố con ông Lục cùng nghe. Sau đó, bà tự trở thành một thành viên, thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản ghi trong bản tuyên cáo này.

Chuyện bà làm thì đúng, nhưng lại rủi cho Bảng. Ngay khi nghe Bảng chọc vào lỗ tai bằng luận điệu, cái phúc thằng Dụng được hưởng là do công ơn của… bác, mắt bà Lục trợn ngược hẳn lên:

– Ông chủ nhiệm lại còn nhắc đến cái diện liệt ấy à? Đấy mới chính là cái… phúc nhớn nhỉ?

Nghe hỏi, chủ nhiệm Bảng bình tĩnh giảng giải thêm:

– Phải, về cái khoản ấy, chả ai hơn được. Nó có phúc vì được nhà nước tận tình chăm lo đến đời sống cho nó.

Cơn giận uất đưa lên cùng lúc bà Lục cho miếng khoai vào miệng. Miếng khoai mắc nghẹn lại giữa cổ. Bà Lục vội đưa tay lên vuốt ngực. Bảng liếc mắt trông thấy, gã mỉm cười, mách nước:

– Bà uống thêm hớp nước rồi nuốt xuống cho khỏi nghẹn bà ạ. Khoai này nó đỗ lắm, ăn nói không ý tứ là thế nào cũng mắc nghẹn.

Bà Lục muốn trả đũa, nhưng không ra lời. Bảng tiếp:

– Thật ra, ông bà không nên vì giận để mất khôn, rồi sinh ra trách oan cho nhà nước. Như ông bà biết đấy, nhà nước và đảng ta không phải là con cháu của dã nhân như thằng địch nó tuyên truyền, nhưng là những thành phần ưu tú của đất nước kết tinh lại. Trên là bác, dưới là đảng. Cả hai lúc nào cũng sáng xuốt và tích cực quan tâm đến đời sống của nhân dân, đặc biệt là đối với những gia đình có công. Tuy nhiên, đất nước ta mới được giải phóng, mới được thu hồi về từ tay ngoại bang và phong kiến, nên còn rất nhiều công tác cần phải được ưu tiên giải quyết trước. Do đó phần ông bà, cứ thư thả chờ, rồi sẽ tới lân sau. Ngưng lại một chút, Bảng tiếp:

– Lý do của sự đợi chờ chắc không cần nói ra, ông bà cũng biết. Khi bỏ chạy, thằng địch đã để lại không biết bao nhiêu là tàn dư tệ hại, nên ta phải thu dọn cho sạch sẽ trước khi ra hát tuồng mới. Kế đến, trong bước đầu xây dựng để đưa cả nước lên xã hội chủ nghĩa, nhà nước không có kinh nghiệm nên còn gặp muôn vàn những khó khăn. Rồi do yêu cầu phải giải quyết những khó khăn, nhà nước chưa thể đáp ứng đúng mức trong việc phục vụ cho quần chúng nhân dân, đặc biệt cho những gia đình có công được. Do đó, chính bác đã làm gương, và kêu gọi mọi người hãy khắc phục thêm một thời gian nữa để kinh qua khó khăn. Khó khăn này, theo lời đảng dạy, chỉ một thời gian ngắn nữa là chấm hết. Khi ấy dù không muốn, ông bà cũng phải sung sướng hạnh phúc gấp trăm, gấp ngàn lần hôm nay. Từ lý luận vững chắc này, ông bà cứ nghe tôi, tin tưởng tuyệt đối vào nhời bác, nhời đảng. Chả mấy tý nữa, cả nước ta sẽ có nhà lầu xe hơi. Khi ấy, ô tô, chuồn chuồn sẽ theo nhau bay đầy về làng ta. Ông bà mặc sức ra mà ngắm, rồi muốn lấy bao nhiêu tùy thích.

Trong lúc Bảng say xưa giải thích các điểm chính trong sách lược an dân của nhà nước, ông bà Lục ngồi im như ngậm thóc. Lát sau, Bảng đột nhiên ngưng lại, rít một hơi thuốc lào, nói:

– Mà thôi, bỏ chuyện ấy đi ông bà ạ. Năm nay thằng cháu đã đến tuổi khôn nhớn rồi, không biết ông bà đã nghĩ đến việc tuyên bố cho nó để, trước là có con nối dõi, sau là được làm cháu ngoan bác Hồ hay chưa?

Hỏi xong, không chờ ông bà Lục gỉa nhời, Bảng tiếp:

– Nếu có dự kiến rồi, ta nên tranh thủ viết lá đơn lên ủy ban xin tổ chức tuyên bố cho chúng. Sau đó, làm đơn xin mua một số mặt hàng tiêu chuẩn cho buổi lễ ông bà ạ. Tôi nghĩ, ta nên tổ chức đơn giản cho khỏi tốn kém. Về phía thân nhân, tôi góp ý là ta nên mời chừng mươi người mỗi bên. Kế đến, ta mời thêm ủy ban và các ban ngành đến dự khán cho buổi lễ thêm phần long trọng. Về phần hạnh phúc của chúng thì ông bà chả phải lo. Khi lễ tuyên bố có hình hài bác chứng kiến, tôi tin chắc chúng sẽ được hưởng nhiều… phúc. Còn về khoảng thời gian, sau vụ Hè Thu này là tốt hơn cả.

Nghe Bảng nói một hơi những lời đề nghị như có dự tính từ trước, bà Lục càng ứa gan. Bà ứa gan vì cho rằng Bảng cố ý lên chân, hoặc muốn giả tiếng dạy khôn cho bà. Tuy nhiên, trước tình thế éo le hiện tại, bà đành im lặng chờ ý kiến của ông. Trong khi đó, Bảng lại tin rằng ông bà Lục đã thuận nghe theo lời chỉ đạo của gã. Gã không ngần ngại hiến kế:

– Trường hợp ông bà chưa có dự kiến nào tốt, thì để tôi chỉ điểm, xây dựng cho nó.

Bà Lục không thể bình chân như vại được nữa, bà lên tiếng:

– Việc ấy chúng tôi chả dám làm phiền đến ông chủ nhiệm. Tôi xin có lời cám ơn cái nhã ý của ông!

Bảng gạt phăng đi ý kiến của bà Lục:

– Bà chả nên nói thế. Đã mất tự nhiên lại thêm khách sáo xa lạ, rồi lại trách cứ cán bộ không lưu tâm đến những gia đình có công. Tôi với nó tuy không phải là máu mủ, họ hàng, nhưng cũng không hẳn là người dưng nước lã. Trước đây, anh của nó là người bạn chiến đấu sinh tử của tôi trong chiến dịch Điện Biên. Không may, khi cách mạng chưa thành tên, bác chưa thành tuổi, đồng chí ấy đã thác. Lúc thác, dù không có lời chính thức gởi gấm nó lại cho tôi. Nhưng đã là đồng chí với nhau, tôi tự coi nó như là đứa em ruột của tôi, tôi phải có bổn phận chăm lo cho nó. Kế đến, về diện xã hội. Tôi hiện là người đại diện cho đảng để chăm lo đời sống và hạnh phúc cho các gia đình thương binh liệt sỹ ở Xuân Thủy. Theo đó, có lý nào tôi dửng dưng, không đóng góp ý với ông bà để lo cho nó? Nói thế là tôi đã nói nhời nói thật, ông nghĩ có phải hay không?

Nghe hỏi, ông Lục gật đầu trả lời như đếm:

– Phải, ông chủ nhiệm nói phải. Nhời nào của bác đảng cũng phải cả! Trước tiên, tôi có lời cám ơn ông chủ nhiệm đã để ý lo lắng cho cháu. Kế đến, việc của cháu thế nào cũng phải nhờ ông chủ nhiệm trợ giúp một tay mới thành tựu được. Vì chẳng dấu gì ông. Chúng tôi đã có sẵn dự kiến tốt và đang tính thu xếp cho các cháu. Nhưng còn ngại một điểm, chúng tôi không phải là xã viên của hợp tác xã, e lá đơn không có người chứng thuận.

Bảng khoa tay trước mặt:

– Thật, không ai khéo lo xa, rồi đâm ra lẩn thẩn như ông. Việc tổ chức xây dựng cho các cháu là chuyện lớn, nó có liên hệ trực tiếp đến vận mạng của đảng, của cách mạng sau này. Nó không thể đem ra làm bằng cân đo với sự kiện là xã viên hay không của ông bà được. Nói như thế có nghĩa là ông bà không nên lo đến cái khoản có là xã viên hay không, nhưng phải lo cho tương lai của đất nước. Bản thân thằng Dụng là một đội viên trong đội ngũ sản xuất của nhà nước với thành tích tốt. Lại được cách mạng đào tạo trong đoàn, trong hội. Nếu ông bà không đứng ra lo cho nó thì ủy ban, tổ chức sẽ lo.

– Thật thế hả ông chủ nhiệm?

Nghe hỏi, Bảng giật mình vì lỡ lời. Còn nhớ trước đây, chính Bảng đã đến căn nhà này, đã chỉ tay vào ông bà Lục bảo rằng:

– Nếu ông Lục không nộp con trâu, không gia nhập hợp tác xã, thằng Dụng sẽ không được hưởng những quyền lợi nhà nước đã quy định cho các gia đình thương binh liệt sỹ. Nó sẽ phải đi thi hành nghĩa vụ quân sự thay vì được miễn. Rồi chuyện nó có muốn cưới vợ thì ông bà Lục cứ tự động mà làm lấy, chẳng có ma nào trong ủy ban dám chứng giấy thuận cho nó.

Lời răn đe ấy ông bà Lục chưa quên. Họ chỉ thắc mắc, không biết vì lý do gì Bảng đã thay gío, đổi chiều trong câu chuyện. Bảng vội lấp liếm:

– Đó là cơ xở lý luận của nhà nước. Tuy nhiên, sự giải thích thì tùy theo tình hình thực tiễn tại mỗi địa phương, và ủy ban nhân dân có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên hệ. Riêng trường hợp của ông bà, còn nhiều chỗ chưa đả thông theo lý luận chủ quan của nhà nước. Nhưng trong lần cuối tôi đến đây đã có thảo luận thực tiễn với ông bà. Sau đó, có viết báo cáo dài cả nghìn trang giấy, trình cho ủy ban. Ủy ban cho điều nghiên kỹ lưỡng, rồi đưa ra quyết định là:

-Thứ nhất, vì số ruộng hợp tác qúa nhiều, trâu cày lại ít, nên không đủ đáp ứng cho nhu cầu làm mùa. Ủy ban đề nghị tôi đến… mượn tạm con trâu của ông bà một thời gian. Chờ sau vụ Hè Thu, ủy ban sẽ trả lại cả vốn lẫn lời.

– Thứ hai, vài sào ruộng nước của ông bà. Ông bà sẽ tùy ý lựa chọn phương cách quản lý. Đem gia nhập vào hợp tác xã hay tự bảo quản riêng cũng được.

-Thứ ba, ủy ban nhất trí cứu xét cho thằng Dụng được ở nhà để gia đình ta có lao động chính. Trường hơp gia đình này không thể tổ chức xây dựng cho con, thì vì tương lai của tổ quốc xã hội chủ nghĩa, hội thương binh tử sỹ và chi bộ sẽ trực tiếp đứng ra tổ chức khi có lời yêu cầu.

Bảng uống thêm hớp nước, nói như kể công:

– Đấy ông bà xem, ủy ban nghị quyết như thế là có tình có lý lắm. Tôi đã từng bảo ông bà trước đây, nhà nước luôn chăm sóc đến những gia đình có công, không phải là phường ăn cháo đá bát. Ông bà đã không tin lại còn đi nghe theo tin tức của bọn phản động, để gây ra căng thẳng với ủy ban. Nhưng thôi, bỏ chuyện cũ ấy đi ông bà ạ. Ta nhân cơ hội có cái tin vui này, trước là lo xây dựng cho các cháu. Sau là chặn đứng âm mưu của kẻ xấu, lợi dụng gia đình ta để chống đối nhà nước. Phải thế không ông?

Nghe xong lời Bảng dẫn giải, ông bà Lục thẫn thờ nhìn nhau. Họ biết, theo bản tin này, họ mất toi con Mễ theo kế hoạch… mượn tạm đầu heo nấu cháo của nhà nước. Bởi vì, trước kia, Hồ chí… Phèo, lãnh tụ của Vẹm đã không ngần ngại làm quen, rồi mượn địa chỉ của những nhà cách mạng chân chính Việt Nam. Tiếng là để liên lạc và cùng chung lưng góp sức chống Pháp. Nhưng thật ra, Hồ nhân đã có sẵn mưu đồ bán những vị này cho Pháp… thịt để lấy công, lấy tiền.

Kế đến, ngày quân dân Hà Thành tổng đình công bãi thị chống bọn thực dân pháp, đòi lại độc lập. Hồ… chí Phèo  cũng không thể bỏ được cái tật đá cá, lăn dưa. Gã đã mượn tạm khí thế ngùn ngụt của nhân dân, xúi dục năm ba thằng Vẹm trà trộn vào hàng ngũ quân dân Hà Thành, lén dựng cờ búa liềm lên. Đến khi Pháp vỡ mật vì cuộc tổng đình công, bãi thị của quân nhân, công chức, sinh viên học sinh Hà Thành. Chúng phải trả chủ quyền, độc lập đất nước lại cho người dân Việt Nam thì bọn Hồ nhân lại lơ láo, tuyên bố cuộc tổng nổi dậy ấy do bác và Việt Minh lãnh đạo mà cướp công.

Đến ngày chia đôi đất nước, đồng bào nhìn rõ mặt Vẹm. Nhiều người đã phải bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để vào nam tìm tự do. Hồ cụt hứng, không còn phương cách rêu rao láo lếu dối gạt đồng bào, lại đứng trước nguy cơ tức nước vỡ bờ của đồng bào miền bắc. Hồ lại vò đầu bóp trán, tạo ra một kế độc. Kế mượn đỡ cái… đầu của những người nhà giàu theo chiêu bài triệt hạ phú nông địa hào. Trước là thị uy nhân dân, sau là cướp của chia nhau.

Từ đó, tuy nhất thời bạo lực trấn áp được cuồng nộ. Nhưng hơn ai hết, Hồ nhân biết cảnh miền bắc giống như cái bong bóng căng hơi, lúc nào cũng chờ cơ hội để vỡ tung ra hơn là nằm im chịu trận. Hồ liền tung ra diệu kế. Mượn nốt cái đầu của những người được coi là nguy hiểm cho chế độ qua tội danh, làm gián điệp và xây dựng cơ sở cho thằng địch. Kết qủa, những người có thân nhân, con cái vào nam như ông Đăng bị trúng đòn nặng.

Gìơ lại đến kế mượn… trâu! Ông Lục thở dài, bấm bụng:

– Thế là cạn tàu ráo máng rồi đấy. Ông có chạy đi đàng trời cũng không thoát khỏi bàn tay của nhà nước.

Tuy biết thế, ông Lục vẫn cười. Cười vì nhờ ơn bác ơn đảng, ông còn giữ được vài sào ruộng và đứa con làm vốn. Cái vốn tuy không lớn và chẳng biết sẽ giữ lại được bao lâu, nhưng thôi, được ngày nào thì hay ngày ấy. Và biết đâu nhờ chuyện trao đổi này, gặp lúc cái Hồi suy nghĩ lại, lá đơn xin tuyên bố của con ông chắc không bị trở ngại. Việc này có lẽ vui thật. Bởi lẽ, nếu cứ ỳ ra cũng không thắng được chúng và cái việc mất trâu, mất đất cũng chỉ là năm bữa nửa tháng.Tự nghĩ thế, ông Lục đành  phải mềm mỏng với Bảng:

– Nếu được đúng như nhời ông chủ nhiệm vừa nói thì qủa là một bản tin vui nhớn. Tôi xin có nhời cám ơn ông chủ nhiệm và ủy ban đã chiếu cố đến gia đình tôi. Kế đến, nay mai chắc tôi cũng phải lên ủy ban để xin lo liệu cho cháu. Khi ấy, lại phiền ông chủ nhiệm nói cho vài tiếng. Còn con… trâu, như ông đã biết, nó chính là khúc ruột thứ hai của tôi, tôi không muốn xa rời nó. Tuy nhiên, nếu ủy ban đã nghị quyết làm giấy mượn, tôi nào dám phản đối. Hôm nào ủy ban cần, xin ông chủ nhiệm cho biết.

Bảng bàng hoàng khi nghe ông Lục tính rành rẽ từng chi tiết một. Gã không ngờ là có thể đạt được kết qủa tốt trong câu chuyện với ông bà Lục vào tối hôm nay. Bởi lẽ, mỗi lần đến gặp ông, nói chuyện về việc con trâu và hợp tác xã là một lần làm Bảng bực mình. Bực mình vì câu chuyện nếu không nổ lớn, lời qua tiếng lại với bà Lục thì nó lại im lìm như Bảng tự nói chuyện với đầu gối. Vì lãogìa này chết đến nơi rồi nhưng cứ như chó gìa giữ xương! chẳng coi Bảng và cán bộ ra cái gì.

Nói đâu xa, ngay trong chiều nay cũng không có ngoại lệ. Lúc sửa soạn lên đường đến nhà ông Lục. Thọ đến, cả hai đều vã mồ hôi lo tính kế. Kế không ra, Bảng chỉ mong cho bà Lục đi vắng, hoặc ít ra, bà ấy bị ốm liệt giường không thể ra nhà ngoài tiếp khách, Bảng mới khả dĩ tranh thủ giải thích lẽ thiệt hơn với ông Lục được. Gặp trường hợp này, Thọ lệnh là Bảng sẽ vắn tắt câu chuyện, xúi được ông Lục làm đơn xin tuyên bố cho Hồi và Dụng xong là ra về ngay. Riêng chuyện con trâu và sào ruộng của ông Lục, Bảng phải lờ đi, kẻo lỡ  chuyện.

Ngờ đâu, sự kiện đã diễn biến ra ngoài dự kiến của Bảng. Gã tin rằng việc ông Đăng bị đưa đi tập trung, và những buổi tối học tập gần đây đã làm ông Lục thấm đòn. Theo đó, Bảng bình tĩnh đưa mắt dò xét trên khuôn mặt cặp vợ chồng gìa. Càng nhìn, gã càng tin bản tin đồn ông Lục muốn hỏi cưới Hồi cho thằng Dụng là có thật. Nếu đúng là có thật thì vợ chồng ông Lục phen này có chấp cánh bay lên trời cũng không thể nào tránh được cái bẫy do Bảng và Thọ giăng sẵn. Ông ta đã mất toi con trâu, lại còn đưa lưng ra gánh lấy cái của nợ đã làm Thọ và Bảng mất ăn mất ngủ cả tháng nay.

Câu chuyện mất ăn mất ngủ của Bảng và Thọ qủa là không đơn giản. Nó bắt nguồn ngay từ đêm lãnh đạo Vũ Đạo… đóng dấu giải phóng cho Hồi. Bởi lẽ, chỉ hai ngày hôm sau, Hồi bình tĩnh đến văn phòng ủy ban gặp Thọ và Bảng. Trong cuộc găp gỡ, Hồi đã nghiêm túc đưa ra hai yêu cầu then chốt cho Thọ và Bảng giải quyết:

– Điểm một, nếu muốn Hồi bỏ qua câu chuyện một đêm kia, Thọ phải cho biết nơi tạm giam ông Đăng, sau đó ký giấy thuận cho mẹ con nàng đi thăm nuôi ông.

– Điểm hai, nếu Thọ, Bảng chống lại lời yêu cầu này. Hồi sẽ cho nổ câu chuyện một đêm kia ra ngoài, rồi muốn đến đâu thì đến.

Trước tình thế khẩn trương, Thọ liều viết giấy cho Hồi lên huyện để xin thăm nuôi ông Đăng. Sáng hôm sau, Hồi trở lại tìm Thọ với một khuôn mặt bất bình trông thấy:

– Anh đã lừa gạt tôi. Công an và huyện đội Xuân Trường đều cho biết, không giam giữ bất cứ một người nào từ Xuân Thủy gởi lên với cái tên giống như trong lá đơn của tôi xin thăm nuôi.

Nghe xong lời giận dữ của Hồi, Thọ bình tĩnh bảo Hồi:

– Thì đúng như tôi đã bảo với chị ngày hôm qua. Ông nhà mới được gởi đi tập trung, tư tưởng học tập chưa ổn định, chưa hội đủ tiêu chuẩn để thăm nuôi, nên buộc trên huyện phải trả lời với chị như thế. Tuy nhiên, chị cứ yên tâm, tôi hứa sẽ đích thân lên gặp đồng chí bí thư để yêu cầu về trường hợp này.

Hồi giống như người mất trộm rồi mới làm hàng rào. Nàng không tin lời nói của Thọ:

– Tôi không cần biết là có đủ tiêu chuẩn hay không. Tôi không muốn nghe chuyện ốc đi bằng mồm. Tôi hỏi thẳng anh, anh đã đưa bố tôi đi đâu? Anh phải dẫn tôi lên đó để gặp bố tôi. Nếu không, tôi sẽ làm đơn lên tòa án nhân dân, khiếu nại và trình bày về việc các anh đã tổ chức hại bản thân tôi.

Bảng rồi Thọ nhìn nhau như ngậm thóc. Có thể nói đây là lần đầu tiên Thọ và Bảng bị rơi vào trường hợp bị động này. Bởi lẽ, từ xưa đến nay, chưa một người nào được các đồng chí lãnh đạo…  giải phóng mà dám có phản ứng mạnh như Hồi. Vì chưa có trường hợp cụ thể trước đó, nên Thọ Bảng không biết xoay trở thế nào. Cuối cùng cả hai đành xuống nước với Hồi. Việc làm này dĩ nhiên cả hai đều không muốn. Nhưng đứng trước sự kiện, huyện ủy gặm… cỏ rồi bỏ chạy, chi bộ xã đi đổ rác, Thọ không tìm được phương án nào hay hơn. Hắn liều lĩnh nhắc lại lời hứa:

– Tôi hứa với chị là trong vòng một tháng, tôi sẽ giải quyết toàn bộ những yêu cầu của chị.

Dù không tin lời Thọ, Hồi vẫn phải chấp thuận lời đề nghị này. Khi cái hạn một tháng trôi qua, Thọ Bảng lại kinh hoàng nghe Hồi bảo:

– Cái ấy thì tùy các anh tính với nhau. Riêng tôi, tôi không thể chờ được nữa. Nếu các anh cố tình bịp bợm, lừa gạt tôi. Tôi sẽ vác cái… bụng của tôi lên gặp bí thư và tòa án. Khi ấy, các anh sẽ tự gỉa nhời lấy.

Nói xong Hồi bỏ ra về. Bảng, Thọ nhìn nhau, lo tháo mồ hôi, tìm phương án giải quyết. Sau khi đã mở hết sử sách của đảng ra tra cứu, Thọ và Bảng thấy không có một phương thức nào hay hơn mật kế và tấm giương của bác và đồng chí bộ trưởng công an. Nó vừa nhanh vừa gọn lại không để di họa về sau. Thọ bảo:

– Như thế là hết cách rồi. Đã là  cán bộ gương mẫu thì phải thương dân thương nước. Nhưng trường hợp này thì đành phải hy sinh mẹ con nó để bảo vệ lấy đảng thôi.

Bảng nắm chặt lấy bàn tay Thọ:

– Tôi cũng không còn ý kiến nào sáng hơn! Mọi lệnh là tùy đồng chí.

Giữa lúc kế hoạch sắp sửa mang ra thi hành, Bảng nghe lóm được câu chuỵện ông Lục muốn hỏi cưới Hồi cho Dụng, nhưng ngại ủy ban không thuận, nên chưa nộp đơn. Bảng liền đi tìm Thọ. Đến nơi, hai cán bộ cao cấp của Xuân Thủy lại thêm một lần kề sát mái đầu bên nhau hội ý. Cuối cùng, cả hai đều nhất trí mở đường sinh lộ cho mẹ con Hồi để tích đức cho đảng và con cháu về sau bằng phương án chờ lá đơn. Kết qủa, càng chờ càng nóng ruột mà vợ chồng ông Lục và bà Đăng không sập bẫy. Biết không thể ngồi chờ thêm được nữa, Thọ xếp đặt kế hoạch cho Bảng đến nhà ông Lục làm sứ giả với ba phương án:

– Thứ nhất, giả như không biết chuyện, rồi lấy tình nghĩa cách mạng và trách nhiệm của người đang chăm lo đến đời sống của các gia đình thương binh liệt sỹ ở Xuân Thủy ra động viện ông bà Lục nên lo tổ chức xây dựng cho thằng Dụng. Trường hợp, ông bà Lục bảo là không thể lo cho nó. Ủy ban thương binh sẽ đứng ra tổ chức xây dựng cho nó.

Bào chữa cho lời xúi dục này, Thọ lý luận rằng: Hồi là xã viên tiên tiến và Dụng là con của liệt sỹ, nên rất môn đăng hộ đối, đảng không phản đối. Nếu ông Lục ỡm ờ không tích cực, Bảng phải cắt nghĩa, giảng giải cho ông Lục nắm được trách nhiệm của cha mẹ, phải lo cho con cái cũng như tương lai của xã hội chủ nghĩa. Trường hợp ông Lục than thiếu thốn, không thể lo cho thằng Dụng được. Bảng sẽ cho ông ta biết, đảng và ủy ban sẽ đứng ra lo cho con cháu của các gia đình có công.

– Thứ hai, nếu sau khi dò xét, biết rõ ông Lục đã làm đơn xin tuyên bố cho Hồi và Dụng như tin đồn, nhưng chưa nộp. Bảng phải đả thông cho ông bà Lục biết rằng: Ông bà Lục dìm lá đơn ở nhà như thế là… sai, là có lỗi với nhà nước. Làm thế có khác nào ông bà Lục tiếp tay cho địch giết cán bộ của nhà nước.

– Thứ ba, tùy theo tình hình thực tế trong đánh gía. Nếu ông ta cương quyết giữ lại con trâu, vài sào ruộng, Bảng phải cho ông ta biết hai việc ấy hoàn toàn không có liên hệ đến việc xin tổ chức xây dựng cho con. Trường hợp ông ta không cứng, hãy bắt con trâu bằng cái kế cho ủy ban… mượn, còn vài sào ruộng thì đừng nhắc đến.

Phương án lúc ra đi khá rõ ràng, Bảng vẫn không dám nghĩ đến việc thành công. Đến lúc này, Bảng lại ôm bụng mà cười. Cười vì ông bà Lục chỉ giỏi cứng cái miệng, nhưng thật ra là người rất non… hột, nên vợ chồng ông Lục đã bị xập bẫy mà không biết.

Bảo vợ chồng ông Lục sập bẫy là vì: Trước tiên , hợp tác xã của Bảng sẽ được thêm một con trâu, và cơ sở tuyên truyền của nhà nước có thêm cơ hội khua chiêng đánh trống lên xí gạt dân chúng rằng. Nhà nước rất công bằng trong việc quản trị đời sống của nhân dân. Tội ai làm người ấy chịu. Tội cha không bắt đến đời con cháu. Bằng chứng điển hình, ông Đăng thuộc thành phần xấu, bị nhà nước đưa đi tập trung cải tạo, nhưng con gái của ông vẫn được phép kết hôn với con cái của gia đình liệt sỹ.

Kế đến, chuyện Hồi được huyện lệnh … giải phóng đến mang bầu sẽ không thể đổ bể ra ngoài nữa. Ngay sau khi ông Lục khiêng lá đơn xin tuyên bố lên văn phòng ủy ban, cái bụng của Hồi có… ễnh lên như lời nó đe dọa hôm nào, cũng không cần phải lo lắng nữa. Lý do, trai gái đã sinh hoạt và có bầu với nhau trước khi tuyên bố, đã không bị nhà oước trách phạt là may. Có đâu cả gan vu oan cho lãnh đạo đảng đến thêm tay thêm chân? Nghĩ đến đó, Bảng khoan khoái thở hơi khói ra ngoài:

– Như thế là câu chuyện đã được đúc kết, ông bà chả còn phải lo lắng gì nữa nhá?

Nói xong, Bảng toan đứng dậy, ông Lục vội níu kéo gã:

– Chả mấy khi được ông chủ nhiệm đến chơi nhà, xin ông thong thả bước chân đã.

Bảng giật mình, hỏi lại:

– Còn chuyện gì ông bà chưa đả thông chăng?

Ông Lục nắm hai bàn tay trước ngực:

– Chả dấu gì ông chủ nhiệm, nhân tiện có ông đến chơi, phiền ông xem dùm cho cháu cái lá đơn.

Bảng chưa một phản ứng, ông Lục đã quay vào trong buồng lấy lá đơn ra đưa cho Bảng. Bảng lúng túng ngồi xổm trên mặt ghế, trong lúc bà Lục kinh ngạc và thất vọng nhìn ông. Từ nãy, bà đã nghe ông nói lắm điều hớ hênh, lúc này còn thật thà móc ruột ra cho người ta xem, đến chán.

– Chả nói ra ông đã rõ, phận chúng tôi là người nhà quê chữ cắn làm hai không biết, nên xin ông cái ý kiến về lá đơn này.

Bảng nóng mặt, tưởng lầm ông Lục muốn dùng cái lá đơn này để trêu cợt cái tài biết đọc biết viết của Bảng. Gã trợn ngược đôi mắt lên. Nhưng ngay khi nhìn thấy nét mặt rất thành khẩn của gia chủ. Bảng dịu lại, ân cần đưa tay ra đỡ lấy lá đơn:

– Đơn từ gì vậy ông?

– Lá đơn chúng tôi xin ủy ban làm tuyên bố cho cháu.

Bảng dựng người lên:

– Nó lấy ai vậy ông?

– Chả dám dấu ông chủ nhiệm. Cháu muốn xin tuyên bố với cháu Hồi bên ông bà Đăng.

Chút nữa là Bảng nhẩy cẫng người lên, gã mừng đến run cả tay chân. Mắt gã láo liêng nhìn lên mặt ông bà Lục, trong lúc tay trải rộng lá đơn ra trước mặt, rồi ghé xát vào bên bóng đèn. Lát sau, Bảng ngửa mặt lên với nét đăm chiêu:

– Cái Hồi con ông Đăng à?

– Phải!

– Cái chỗ ấy…

Tiếng ông Lục vẻ lo âu:

– Ý ông chủ nhiệm…

Bảng tránh câu trả lời thẳng:

–  Xét về cá nhân, chị ta là người được cả người lẫn nết, ai cũng qúy mến. Nhưng tôi chỉ ngại cái khoản lý lịch gia đình.

Hơn ai hết, ông Lục là người hiểu rõ cái lý do này. Ông vội lên tiếng:

– Chúng tôi không dám đòi hỏi gì ở ủy ban và bên hội thương binh, chỉ xin ông chủ nhiệm nói giúp với ủy ban cho chúng tôi vài tiếng. Nhà nước ta xưa nay vẫn chủ trương tội cha không bắt đến đời con cháu. Hơn thế, ta chỉ đánh người chạy đi, ai nỡ đánh người trở về bao gìơ. Có phải thế không ông chủ nhiệm?

Bảng ỡm ờ:

– Có thế, nhưng chuyện này căng lắm đấy. Tuy nhiên, lá đơn viết rất có tình có lý. Ông cứ đem nộp xem ủy ban gỉa nhời thế nào, rồi tôi sẽ liệu cách báo cáo với ủy ban sau.

Được nhời của Bảng, ông Lục tươi nét mặt:

– Hay là…

Chỉ thoáng qua, bà Lục đã đọc được hết bụng dạ của ông. Bà kịp thời ngăn chặn câu dở dang của ông hay là… nhân tiện có ông chủ nhiệm ở đây, tôi xin gởi ông cái lá đơn này và nhờ ông lo giúp cháu. Do đó, bà nói chen vào:

– Hay là… sáng mai ông sang bên tổ xin thị thực trước, rồi hãy làm phiền ông chủ nhiệm sau.

Bảng thấy rõ ràng cá đã cắn câu, gã trả cuộn giấy cho ông Lục, đứng dậy:

– Phải đấy, sáng mai ông tranh thủ qua tổ, khu xóm cho nó đúng thủ tục hành chánh rồi sau đó ta sẽ chuyển lên ủy ban. Khi đã lên đến ủy ban, ông bà cứ yên tâm và sửa soạn sẵn sàng để lo cho các cháu kẻo trễ.

Ông Lục đỡ lấy tờ đơn:

– Ông chủ nhiệm tính như thế cũng phải.

Bảng cười, hai tay xoa vào nhau:

– Tối nay đúng là ngày đẹp giời và có nhiều việc đáng mừng. Nhưng chuyện mừng nhất là việc ông bà chọn được dâu hiền, tôi có lời mừng cho ông bà và cháu trước, rồi sẽ đến dự… tiệc sau. Ông bà nhớ nhá, hôm ấy tôi phải uống say đấy.

Nói xong chủ nhiệm Bảng cưởi hể hả bước ra sân, ông Lục nối gót theo sau:

– Vâng! thế nào cũng phải mời ông chủ nhiệm đến mừng cho các cháu.

– Nhất trí, nhất trí!

Nói xong, Bảng phóng nhanh ra đầu ngõ. Ra đến đầu ngõ rồi mà Bảng vẫn tưởng nằm mơ. Bỏi lẽ, chả bao giờ con ngõ nhỏ trước cửa nhà ông Lục cho Bảng niềm hứng khởi như hôm nay. Trong khi đó, sau khi trở vào trong nhà, ông bà Lục còn ngồi lại bên nhau. Tin Bảng, họ dứt hoát không tin. Họ chỉ tin vào cái số, và tin trời đất còn thương đến gia đình họ. Bất chợt, hai ông bà Lục nhìn nhau, nói chung một lượt:

– Tôi phải sang gặp bà ấy ngay…

 

 

Chương mười bảy   *****************************************************

**********************************************************************

 

Trong khi đó, vào một chiều tại nhà bà Đăng. Sau nhiều trăn trở, Hồi tỏ ra dứt khoát, muốn cho bà Đăng biết rõ đầu đuôi câu chuyện trong việc từ hôn của mình. Hồi nói:

– Thật tình là con không muốn đi gánh vác, U thương con, U cho con ở nhà với U thì hơn. U xem đây, mái tóc U bạc trắng cả rồi, thày con lại đi vắng, ai sẽ lo cho U trong những ngày đau yếu?

Bà Đăng rưng rưng xúc động khi được nghe lại âm thanh nhẹ nhàng, thiết tha của Hồi. Đây là lần đầu tiên hai mẹ con bà gần gũi nhau, kể từ sau cái đêm bà nhỡ tay vả vào mặt Hồi mấy cái. Sau lần ấy, bà đinh ninh Hồi sẽ giận bà, nhưng đến hôm nay, bà biết mình nhầm. Nhầm vì Hồi vẫn thương yêu và kính trọng bà như xưa. Hơn thế, Hồi luôn lo lắng đến cuộc sống của riêng bà. Bà có ý hối hận bảo Hồi:

– Ai không biết có mẹ có con bao bọc lấy nhau thì hơn. Nhưng nhìn lại hoàn cảnh gia đình ta, con thấy U đã gìa không còn sống được bao lâu, riêng thày con lại đi… biệt tăm. Nói ra thì bảo gở mồm gở miệng, nhưng U có cái linh cảm là thày con có đi mà không có về. Phần con, đã mười tám đôi mươi, có lý nào ở vậy cho đến khi hết thời lỡ vận? Nhân lúc U còn khỏe mạnh, và hoa chưa tàn nhụy chưa rữa, lại có nơi có chốn là người hiền lành tử tế muốn lập thân với con. Nếu con thuận đi gánh vác chuyện trăm năm, U có chết cũng an lòng. Và đó cũng chính là điều con trả ơn cho bố mẹ.

Hồi ngậm ngùi, muốn rơi nước mắt vì lời khuyên nhủ chí tình của bà Đăng. Nhưng nghĩ đến việc đi lập gia đình, Hồi lại bối rối. Bởi vì:

Ông Đăng bị bắt và chưa biết sống chết ra sao. Phận làm con, nàng không muốn xa bà Đăng, ít nhất là trong lúc này. Lý do, nhà nàng trước kia vốn neo đơn, lúc này đã mất ông Đăng, bà Đăng không thể thiếu Hồi. Nói như thế không có nghĩa là khi đi lập gia đình, Hồi sẽ cắt đứt hết mọi liên hệ với bố mẹ ruột, và không thể trợ lý giúp bà Đăng một phần trong những nỗi lo âu của bà. Tuy nhiên, khi đi gánh vác là Hồi phải chấp nhận sự ràng buộc và gánh lấy cả bổn phận và trách nhiệm với giang sơn nhà chồng. Hồi không thể tùy thích, tùy lo để sớm tối có mẹ có con như trước.

Kế đến, Hồi chưa biết yêu là gì. Rồi ngay lúc nàng chưa hiểu nó có ngon như trái táo để nàng ghé môi vào cắn thử hay không thì nàng đã phải ghi vào trong tâm trí một hình ảnh đáng sợ hãi. Đó là hình ảnh của một buổi chiều đầy bạo lực, Bảng và Thọ đã toa rập với nhau, đẩy Hồi lên giường, lao vào trong vòng tay của huyện lệnh lái heo Vũ Đạo. Từ đó, cảm thụ tính về cuộc sống không còn ý nghĩa đối với Hồi. Nàng chưa tự hủy mình là vì còn bà Đăng và hy vọng gặp được ông Đăng mà thôi. Vì những nguyên do chính đáng ấy, Hồi nói:

– Con vẫn biết lời U dạy bảo là phải, nhưng mà…

Bà Đăng cắt ngang ý kiến Hồi:

– Còn nhưng với mà gì nữa! Con gái lớn đến tuổi thì đi lấy chồng, có ai nằm không ở nhà bố mẹ cho đến hết đời đâu?

Nói thế là bà Đăng chủ quan cho rằng, không có một cô gái nào trước khi rời nhà cha mẹ, không nại ra vài ba lý do để xin ở lại nhà với bố mẹ như một câu chuyện làm qùa. Trường hợp Hồi, bà không cho là một ngoại lệ. Tuy nhiên, bà hiểu được phần nào tâm trạng chơi vơi của Hồi vào lúc này. Hồi không muốn thấy cảnh bà neo đơn vào ra thui thủi một mình. Nói cho ngay, đây là một ý định tốt, bà Đăng không phản đối. Chỉ tiếc nó không phù hợp với suy nghĩ thực tế của bà. Nghĩa là, bà không muốn thấy sự kiện hoa hết phấn, gái lỡ thời kia đến với con gái của bà. Bà muốn cho con bà có duyên có phận với đời, hơn là chấp nhận hy sinh cho mẹ cha một cách không cần thiết.

Nói cho ngay, bà Đăng có ý định như thế cũng là phải. Bởi vì nước mắt thường chảy xuôi. Có cha mẹ nào không thương và không lo lắng cho con, đặc biệt là trong trường hợp như bà. Chỉ tiếc, bà không hay biết những sự kiện đột suất xảy đến cho Hồi. Theo đó, bà chỉ có thể cố vấn cho Hồi theo những thói thường tình, không thể có những chỉ dẫn cho một trường hợp ngoại lệ được. Vì không có những chỉ dẫn đặc biệt cho một trường hợp ngoại lệ, mẹ con bà Đăng lại rơi vào trong cảnh gấu ó với nhau, khiến cho cảnh nhà thêm nặng nề khó thở.

Về việc này, chẳng ai dám trách bà Đăng thiếu khôn ngoan, cũng không ai nỡ trách Hồi đã dại dột, im hơi lặng tiếng, không nói kể lại cho bà Đăng nghe biết sự thật của vấn đề. Lý do, không một cô gái nào dám nói ra sự kiện… mất của mình cho người khác nghe, dù người ấy là cha mẹ hoặc người tình đến sau của nàng. Nàng không nói, không có nghĩa là gian dối, nhưng nó đơn thuần được định nghĩa bằng một quy luật cơ bản bất thành văn. Người con gái phải tuyệt đối bảo vệ lấy sự bí mật cho mình. Bảo vệ trong cả hai trường hợp bị mất. Mất vì tự ý cho đi, hay là vì bị… giải phóng giống như trường hợp của Hồi.

Bào chữa cho sự im lặng này, dĩ nhiên có nhiều lý do, trong đó có thể kể đến một lý do quan trọng nhất: Trăm cô như một, không ai muốn vạch áo cho người xem thắt lưng. Không ai muốn chính mình trở thành đề tài cho người ngoài bàn chuyện phiếm về mình (cán bộ hộ lý vẫn không ngoại lệ.). Và quan trọng hơn cả là phải tuyệt đối kín đáo để còn đi lấy… chồng.

Hồi không thể đi ra ngoài cái thông lệ đó. Hơn thế, Hồi biết rõ tính của bà Đăng. Bà không có đủ bình tĩnh để nghe và đón nhận một hậu qủa như tai kiếp lớn đến với con bà. Từ đó, một là bà không kịp suy, tung bản tin này ra ngoài với mục đích cho làng xóm biết cái bản chất dã nhân của tầng lớp cán bộ cộng sản. Hai là bà sẽ ồn ào, lên xã lên huyện để hỏi cho ra lý lẽ tại sao, bà không nhờ mà lãnh đạo dám… giải phóng con bà? Kết qủa của cả hai trường hợp trên, người chịu thua thiệt, đắng cay vẫn là Hồi. Việc bà Đăng có lòng tốt, muốn cho dân làng biết rõ cái bản chất dã nhân của Việt cộng để mà xa lánh. Xét cho cùng chỉ là một việc làm hết sức vô bổ, nếu như không muốn nói là vô ích. Bởi lẽ, dân làng đã biết rõ chúng từ khuya.

Kế đến, bà có lên huyện lên tỉnh để khiếu nại, để hỏi cái lý do tại sao lãnh đạo lại ra tay giải phóng con bà? Kết qủa, tai họa sẽ tái quy lại cho mẹ con bà. Bởi vì theo lý luận cơ bản của nhà nước, cán bộ là những người đồng chí tốt như bác, họ có khi nào ức hiếp nhân dân? Chỉ có những kẻ phản động, chống phá nhà nước mới tạo ra những bản tin vu khống ấy cho cán bộ mà thôi. Đó là quy luât của cuộc chơi, kẻ làm dân trong thời xã hội chủ nghĩa lại không thông biết về luật lệ của cái mã tấu hay sao?

Bên cạnh quy luật không thể tiết lộ trên, Hồi còn một lý do khác để im lặng. Nàng sợ đã có chửa với bí thư Vũ Đạo. Cho đến hôm nay, Hồi không hiểu vì đâu cái ý tưởng quái gở kia lại đến xâm nhập vào khoảng đời đang tươi trẻ của nàng. Nó đến khá tự nhiên, nhẹ nhàng như hình với bóng, chiếm đoạt toàn bộ tâm trí của nàng từ khi ăn cho đến lúc ngủ, trong lúc ở nhà cũng như khi lao động. Nó làm nàng hoảng hốt từng giây từng phút, và nàng không biết tìm phương cách nào để sua đuổi nó đi ngoài việc nhận thêm lo sợ vì sự kiện mãi chưa có… tháng!

Có chửa. Hồi không có lấy một chút vốn liếng kinh nghiệm nào trong trường hợp này, tệ hơn thế, nàng lại không biết hỏi ai. May cho Hồi, trong lúc lao động, có người bạn mới lập gia đình hỏi người đi trước về những kinh nghiệm liên quan đến chuyện có thai nghén, sinh nở. Người chị em kinh nghiệm đầy mình kia đã giảng giải như sau:

– Trước tiên là việc không có… tháng. Tuy nhiên, phải chờ thêm một kỳ nữa mới dám chắc, vì đôi khi không có tháng đầu là do sự khủng hoảng, hoặc sáo trộn về đường tâm lý.

Khi nghe lóm đến đoạn là do khủng hoảng, hoặc rối loạn tâm lý gây ra, Hồi đã có ý mừng và hy vọng sẽ nằm trong diện này. Từ đó, Hồi mong và đếm ngón tay từng ngày cho qua tháng thứ hai. Khi tháng qua, Hồi lộ rõ nét lo âu, và không thể bình chân ngồi yên được nữa. Nàng nhớ đến câu chuyện thèm ăn rở.

Lúc mười ba mười bốn, Hồi đã nghe chúng bạn nói đến việc người này người kia ăn rở. Khi ấy, Hồi không biết ăn rở là cái gì nên đứa bạn che miệng cười, chê Hồi ngây thơ. Sau đó, cô ta cắt nghĩa cho Hồi, Hồi tròn vo đôi mắt nhìn bạn. Lúc lớn hơn, Hồi biết đó là một chuỵện có thật và rất bình thường. Nhưng không ngờ, lúc này Hồi bàng hoàng nhìn lại chính mình. Hình như Hồi đang có triệu chứng thèm ăn những của ăn như thế. Hồi ngó trước nhìn sau rồi cúi xuống nhìn cái bụng của Hồi. Lúc đầu, Hồi bật cười vì sự yếu bóng vía của mình, sau lại hoa mắt vì thấy cái bụng nhô lên cao. Nàng hoảng hốt cắn chặt lấy đôi môi, nước mắt tự dưng tràn ứa ra ngoài. Nàng lúng túng không biết phải làm gì để đối phó với một sự thật cay đắng ghê gớm này. Nói cho bà Đăng nghe chăng? Hồi tự lắc đầu, nước mắt rớt tràn xuống vạt áo trước bụng nàng.

Từ sự kiện không dám nói ra và không hề hay biết về những đột biến xảy ra cho Hồi, đã đẩy mẹ con bà Đăng vào những cuộc xô xát cãi vã, gây ra những vết nứt trầm trọng vô lý. Bởi vì, một bên nhất định cho rằng mình có đủ lý để buộc Hồi đi lấy chồng. Một bên khác, vốn đã không có ý định lập gia đình từ trứớc, nay lại không thể gian dối, lừa gạt người chồng tương lai của nàng. Kết qủa, nàng cương quyết trả lời:

– Con đã có ý như thế, nhưng U không bằng lòng thì tùy U đấy.

Khi nghe Hồi nói thế, bà Đăng, thay vì tin con không muốn lập gia đình thật, bà lại mỉm cười nghĩ bụng. Có đứa con gái nào không ỡm ờ làm duyên như thế trước khi đi lấy chồng. Bà tự nghĩ và không hỏi lại cái ý nghĩa của câu trả lời kia là gì. Kịp lúc ấy, phía ông bà Lục nhận được tin vui qua Bảng. Hai bên gặp nhau như mở cờ:

– Có lẽ cháu nó chỉ buồn về chuyện của bố cháu thôi ông bà ạ.

Ông Lục vẻ mặt đầy hứng khởi:

– Tôi cũng nghĩ thế, ngoài ra chẳng có một lý do nào khác.

Bà Lục nói chen vào:

– Thế cháu nó bảo sao hả bà:

Bà Đăng nhìn bà Lục, rồi cả hai cùng cười như hoa tết:

– Thì… có khác gì câu tôi với bà trả lời cho các cụ khi xưa. Con không muốn đi lập gia đình nhưng tùy U đấy!.

Bà Lục nghe câu trả lời thuận tai liền đưa cơi trầu ra trước mặt bà Đăng:

–  Rõ thật, sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đấy. Có thế thôi mà nó làm người ta sốt cả ruột gan lên mấy tháng nay.

Nói xong lời ưng ý, bà Lục quay sang phía ông Lục:

– Ông còn chờ gì nữa, không đem nộp ngay cái lá đơn đi, rồi còn về lo liệu những công việc nhà, kẻo trễ.

Nghe vợ dục, ông Lục ăn vội điếu thuốc rồi đứng lên, bước vào trong buồng, lấy lá đơn cầm gọn trong tay:

–         Phải đấy! Bà ngồi chơi nhá. Tôi chạy lên ủy ban một tý sẽ về ngay.

Nói xong, bóng ông vụt ra khỏi cửa và lòng ông rộn lên những niềm vui. Từ trên cao, nắng đổ dài hình bóng của ông xuống trên con đường quen thuộc. Nhìn cái gì ông cũng thấy thật dễ thương. Nhất là cái bóng, nó cứ nhún nha nhún nhẩy theo bước chân làm ông không thể không bật cười một mình. Nhìn bóng, ông tự nhủ, nếu ước mơ này không vuột khỏi tầm tay của ông như lời Bảng hứa, con Mễ, một khúc ruột ngoài của ông, tự nó không còn là một thắc mắc…

Toan tính là thế và câu chuyện về việc cưới xin của Hồi và Dụng những tưởng rồi sẽ phẳng lặng như nước chảy qua cầu. Không ngờ, sóng dữ đã cuồn cuộn dâng lên.

Khởi đầu, khi thấy ông bà Lục và bà Đăng cứ đi tới đi lui, gặp gỡ nhau để bàn định về việc cưới xin, Hồi đâm lo. Sau đó, thêm lúng túng và có những phản ứng xem ra trái chiều nhau. Có lúc bị động, Hồi đã muốn nhắm mắt cho con buồm thuận xuôi theo chiều gío để nàng trút bỏ cái gánh qúa nặng trên người xuống. Việc làm này dĩ nhiên là không nghiêm túc, nhưng trước mắt có hai tác dụng lớn. Một là tránh cảnh mẹ con nàng cãi vã nhau trở lại. Hai là nhờ Dụng để cái bụng mỗi ngày một nhô lên cao kia có… chủ. Lúc khác, Hồi lại cương quyết, sẵn sàng chấp nhận phũ phàng với tất cả lòng cương nghị sẵn có của mình hơn là sự chạy trốn.

Kết qủa, tâm hồn trong sáng của Hồi không cho phép Hồi gian dối. Nó không cho phép nàng lôi thêm những người khác vào trong vũng lầy đau thương của nàng. Nàng dứt khoát chỗi dậy, thà phải chấp nhận sóng gió cho đời mình, hơn là làm cho lòng nàng bị hoen ố. Từ suy nghĩ đó, Hồi thêm cương quyết với bà Đăng. Theo đó, câu chuyện cơm không lành, canh không ngọt giữa hai mẹ con Hồi lại có dịp bùng nổ.

Và chiều nay, một trong những buổi chiều cuối Thu, lại tái diễn cảnh cơm không lành canh không ngọt giữa hai mẹ con bà Đăng.

Khi trời vừa bước sang màu vàng úa, bà Đăng ngửa mặt nhìn lên. Cái cảnh vàng tàn, nhạt nhòa kèm theo những hơi thu lạnh lẽo không đem đến cho bà một niềm vui, sự phấn khởi nào. Trái lại, nó ê chề, u uẩn theo ánh mắt kém tự tin của bà. Nó sầu khổ như sợi nắng chiều hắt xiên ngang qua khung cửa, làm vương rơi màu nắng nhạt trên cái bàn kê bên bức vách, rồi ngã xõng soài, in thành vệt vàng ạch trên cái chõng tre, là nơi, bà Đăng và Hồi đang ngồi lặng lẽ. Cả hai cùng giữ thinh lặng, cố nuốt cho trôi chém cơm cuối ngày.

Bỗng có tiếng thở dài, bà Đăng trả đôi đũa và cái bát về trên cái mâm. Hồi mừng rỡ đứng lên. Nàng mong thoát đi trước cái nhìn ngập sầ khổ hơn là  cay đắng của bà Đăng. Nhưng khi vừa đứng lên, nàng đã phải khựng lại vì giọng nói khá lạnh lùng của bà:

–  Cô thu dọn đem xuống bếp, rồi lên đây cho tôi hỏi thêm câu chuyện.

Nghe thế, Hồi ngỡ ngàng nhìn bà. Nàng bưng cái mâm chén bát xuống bếp với muôn nghìn lo lắng.  Chẳng bao lâu sau, Hồi rón rén đến ngồi ở một đầu cái chõng. Còn ở một đầu khác là bà Đăng, bà vẫn lặng lẽ, ngồi ôm chặt lấy cái đầu gối nhô cao ngang mặt. Dù không cần đảo mắt qua, bà dư biết là phía bên kia đầu cái chõng đã cò người đến ngối đó theo lệnh của bà, nhưng bà vẫn chưa lên tiếng.

Đối diện và cách bà vài bước, cái đèn dầu đặt trên gía đóng lưng chừng giữa cột đã tỏa ra một thứ ánh sáng vàng nhạt. Đó là thứ ánh sáng không đủ tạo cho bà một cái nhìn soi sáng. Tuy nhiên, nó có đủ sức nóng để những con thiêu thân, lỡ lao vào trong cái bóng đèn, bay qua bay lại trên ngọn lửa để chết.

Cảnh lặng thinh quá nặng nề. Ngoại trừ vài tiếng lẹt đẹt phát ra từ thân xác những con thiêu thân lao vào ngọn lửa để chết gây ra, không còn một tiếng động nào khác. Lát sau, bà Đăng ngườc nhìn bóng hình của chính mình in lên vách và cố nén tiếng thỏ dài. Trong cái nhìn ấy, bà như thấy dòng đời bỗng dưng chạy ngược xuôi về trong trí nhớ của bà. Hình như, qua cái đôi mắt mệt mỏi sau nhiều tháng năm, bà thấy chính bóng hình của bà rung rung in lên vách. Bà sợ hãi, bỏ bức vách rồi quay nhìn về phía đầu bên kia của cái chõng. Những tưởng bà sẽ dừng lại và đối đầu với những toán tính của bà từ trước. Kết qủa, khi ánh mắt vừa lướt đến điểm hẹn, bà vội đẩy nó đi nơi khác. Bởi lẽ, bà không dám nhìn lâu và không dám tin cái hình ảnh vừa đập vào mắt bà kia chính là Hồi, một niềm vui, một lẽ sống duy nhất của bà.

Sở dĩ bà phải tháo chạy, không dám nhìn lâu hơn hoặc không dám tin hình ảnh bà vừa đảo mắt qua là Hồi. Trước mắt bà, Hồi không còn là một Hồi linh hoạt tươi vui duyên dáng của những ngày trước, nhưng là một hình nhân đầu bù tóc rối. Nàng ngồi như gục đầu xuống ngực, một thế ngồi bó buộc những lọn tóc phải đổ xuống làm che gần kín khuôn mặt xanh như tàu lá của nàng. Và tệ hơn thế, từ phía bên trong, sau những dòng tóc che khuất kia, nước mắt của Hồi không ngừng nhỏ giọt từ hai gò má xuống trên ngực áo:

– Con lạy U, U thương con, U cho con được ở nhà với U ngày nào thì hay ngày ấy. vì…

Hồi nấc lên một cái, ngừng tiếng. Phía bên kia, bà Đăng vẫn lặng thinh. Nếu nhìn thoáng qua cảnh bà Đăng lạnh lùng, ngồi kéo chân lên mặt chõng trong lúc Hồi như phủ phục người xuống, có người cho rằng, bà Đăng là hình ảnh của một người đàn bà hung bạo đối với con. Đến khi nhìn kỹ lại sẽ thấy bà Đăng thê thảm hơn cái dáng điệu của bà rất nhiều. Trước hết, đôi tay gầy của bà ôm không vững cái đầu gối, Có lúc chúng vuột khỏi vòng khép của đôi tay, bà lại vội vàng đan tay ôm chặt lấy nó. Nhìn đến khuôn mặt thì thấy thêm nhiều những nếp nhăn và nó có góc cạnh sâu sắc hơn. Rồi trên khuôn mặt đầy nét như giận hờn ấy là đôi mắt lúc mở lúc khép hờ. Sau cùng là đôi môi luôn mấp máy mà không thành lời. Tất cả những sự kiện ấy kết hợp lại đã tố giác toàn bộ những bối rối, lo âu không tài nào tháo gỡ được ở trong lòng bà. Bởi vì:

Nếu đồng ý theo lời van xin của Hồi, bà sẽ phải ăn nói và gỉa nhời với ông bà Lục ra sao? Cái lá đơn, do sự thiếu suy tính của bà, hơn là do sự vội vàng của ông bà Lục đã đưa lên ủy ban. Kết qủa, đơn được ký thuận, và ông Lục đã hiến con trâu cho nhà nước cả tháng nay. Rồi ngày giờ của lễ tuyên bố đã được đôi bên ấn định.  Nay con bà tính bỏ ngang, bà khó tìm ra phương cách để nói lại câu huyện với ông bà Lục. Tuy thế, nó vẫn là cái lo nhỏ, còn có thể chạy chữa được. Nhưng, giời ơi, giọt lệ bỗng tràn xuống, bà Đăng nghiến chặt lấy hai hàm răng: Nó mà có chửa thật thì thà rằng tôi chết đi còn hơn!

Sự thật, không bao gìơ bà Đăng có ý nghi ngờ về sự trong trắng của Hồi. Nhưng gần đây, một vài sự kiện đã xảy ra trước mặt bà. Bà đâm lo và càng ngày càng tin rằng đó là nguyên do khiến Hồi thoái thác, không thể lấy Dụng.

Cây khế chua ở đầu hè có mấy qủa khế lớn, bà chưa kịp hái để kho nồi cá, cũng chưa hái mang ra chợ chui đổi lấy bó rau, củ hành, nó đã tự nhiên không cánh mà bay. Dĩ nhiên, bà Đăng không có thói quen ra đếm những trái khế như đếm tiền. Nhưng bà có lý khi phải để ý đến cây khế và những trái khế ở đầu hè.

Có sống trong vùng nông thôn ở xứ bắc vào thời cây mã tấu làm hiệu lệnh, người ta mới có thể hiểu được gía trị của cây khế. Tuy nó không mang đến cho gia chủ một nguồn lợi to tát như con trâu, con bò, vườn cau, cây mít. Nhưng thực tế, nó lại là một loại cây trân qúy. Bởi lẽ, trâu bò, ruộng sâu ao cá, vườn cau, hàng mít đã được gồm thu vào trong túi tham của nhà nước, do hợp tác xã quản lý. Riêng cây khế, tự nó không đáng gía nên còn được phép nằm trong tay người có công vun trồng, chăm bón.

Khi chăm xóc, dù không thuộc diện có ăn học như các đẳng cấp lãnh đạo đảng, bà Đăng vẫn có thể đếm chính xác những trái khế lớn trên cành. Nói cách khác, vị trí của từng trái khế đã in sâu trong đôi mắt bà. Nhưng không hiểu vì lý do gì, mấy lúc gần đây, những trái khế hạng nhất kia cứ thay nhau biến đi. Chúng biến đi không một lời từ gĩa và cũng không để lại một dấu vết trên mặt đất. Thấy mất trộm, bà Đăng quyết định rào dậu. Trước tiên, bà kéo một số rào tre gai để chung quanh gốc cây khế. Sau đó, tự bà để đôi mắt vào cây khế thường xuyên hơn. Cả hai kế hoạch này bà đã làm một cách cẩn thận và chu đáo. Kết qủa, ở nhà chỉ có hai mẹ con và ban ngày không một ai lai vãng đến. Khi đêm về, cũng không nghe một tiếng động nhỏ bên gốc cây, ấy thế, khế xanh của bà vẫn cứ rủ nhau đi. Bà đâm bực mình.

Chẳng bao lâu sau ngày hạ quyết tâm bắt trộm. Bà Đăng lại bủn rủn tay chân khi nhìn thấy Hồi, con gái ngoan của bà chính là thủ phạm đưa những trái khế chua lìa cành. Một lần, hai lần… bà chả bận tâm lên tiếng. Có đứa con gái nào không thích ăn và cho bạn bè vài ba trái khế chua với muối ớt. Hồi đi lao động tập thể thì cũng chẳng có ngoại lệ vui chúng vui bạn mà hái đi năm ba trái khế. Nhưng ngày qua ngày, bà không dám tin vào cái lý luận thường tình ấy. Bà để ý đến con gái của bà. Khi để ý, bà bị nổ đom đóm mắt, giật bắn người lên khi thấy Hồi ăn khế một cách ngon lành, sau đó, ôm ngực nôn ọe ra ngay dưới gốc cây. Bà thất thần xắc tưởng Hồi trúng gío, vội chạy ra xem. Khi đến nơi, bà biết mình nhầm. Nhầm vì Hồi không có một dấu hiệu nhỏ của căn bệnh. Trái lại, đôi mắt kinh nghiệm của bà có dịp mở lớn lên nhìn Hồi. Nhìn xong, bà cắn răng đưa đôi mắt xuống phía thắt lưng Hồi:

– Con có yếu đau gì không?

– Không U ạ, chắc tại con ăn miếng khế chua qúa.

Bà Đăng run đôi chân bước quay vào. Từ đó đã khởi đầu cho nỗi lo mới canh cánh bên lòng bà. Bà tự nhủ, bà cố gĩư bình tĩnh để âm thầm quan xát lại tướng đi đứng, cũng như để ý xem Hồi có quan hệ với những ai. Càng để ý, bà càng thấy lạ . Lạ vì Hồi không có một quan hệ trai gái riêng tư nào. Do đó, để chấm dứt sự kiện nghi… oan cho Hồi, bà Đăng đã quyết định làm một cuộc thí nghiệm lớn.

Một hôm bà kho nồi cá không hành, không khế, không xả ớt. Dĩ nhiên, nồi cá kho trong trường hợp này khá tanh, nhưng nó chỉ có thể làm mất hương vị thơm ngon của cá, hơn là gây ra biến chứng cho người bình thường. Riêng Hồi lại có phản ứng. Miếng cá kho chưa qua khỏi cổ, nàng đã vội đứng dậy ôm lấy ngực, rồi nôn thổ thốc ra ngoài ngay trước mắt bà Đăng. Bà Đăng tái mặt làm rớt đôi đũa xuống chiếu, trong khi miệng bà mở rộng xuýt kêu lên thành tiếng:

– Thôi thế này là chết thật rồi…

Bà kịp giữ lại tiếng nói, nhưng đôi mắt nhìn đuổi theo sau lưng Hồi, nàng bảo:

– U kho cá gì mà tanh thế.

Đứng trước một sự thật gần như hiển nhiên, bà Đăng lại tự lừa dối chính bà bằng một ý tưởng trái ngược với cái kinh nghiệm vốn có của bà. Ý nghĩ ấy không làm bà yên ổn. Suy đi tính lại, bà lập lại thử nghiệm một lần nữa. Cái kết qủa không thể chối cãi, bà chóng mặt, vã mồ hôi trán, nghiến răng đập tay xuống gối:

– Thà nó giết tôi đi còn hơn là… ễnh lên như thế này. Ới, giời ơi là giời!

Than xong, bà Đăng cuống cuồng đi ra đi vào. Khi trước, với một tiền đề Hồi không chịu lấy chồng, bà đã lúng túng không biết giải quyết cơn khủng hoảng ra sao. Lúc này, thêm một vấn nạn lớn mang đầy tính chất gây họa nữa, bà Đăng giống như người bị trôi trong giòng nước lũ. Bà chới với, quay mòng mòng ngồi đứng không yên. Lúc nào bà cũng thấy cái bụng của Hồi nổi cao lên trước mặt bà. Nó làm bà chóng mặt, trông gà hóa cuốc. Bước ra đường bà tưởng chừng như thấy toàn người xấu đang dơ tay múa chân xỉa xói vào mặt bà. Khi về nhà, cứ trông thấy mặt Hồi là bà muốn chết uất ngay.

Có những đêm bà vật mình trên gối, nước mắt tràn ra chảy vòng quanh tai, bà tức tưởi hỏi trời tại sao đã sinh ra bà để bà phải gánh chịu qúa nhiều tai ách giữa đường? Phần tuổi thơ không nệm gấm, không cung son để lưu niệm với đời. Đến khi vừa lớn lên, chữ yêu chưa biết định nghĩa đã phải theo kế sách, cha mẹ gật đầu thay cho con để về nhà chồng. Từ khi lấy ông Đăng, những tưởng cuộc sống sẽ ở trên mây, ai ngờ cảnh đồng quê chân lấm tay bùn đến bây gìơ chưa chấm hết. Tuy thế, lúc trước bà còn có được mảnh vườn, con trâu ao cá. Chữ lầu son gác tía không dám nghĩ đến, nhưng cũng tạm đủ ăn đủ tiêu. Do đó, bà nẩy sinh ra giấc mộng nhớn. Giấc mộng cho con đi ăn học để vào cửa quan ra cửa quyền, và riêng bà có cái quạt lụa, cái áo the vào ra phe phẩy. Kết qủa, vì cái sự kiện đi học ấy, chúng đã co chân chạy vào nam hưởng bát vàng, để riêng vợ chồng bà và con út bơ vơ ở lại với bác với đảng.

Khi chúng ra đi, bà hy vọng cuộc chia ly đứt ruột đứt gan kia sẽ có ngày ăn da non, lành vết thương. Kết qủa, bà đã nhầm. Nhầm vì vết thương kia đã không có dấu hiệu liền miệng. Trái lại, nó một ngày một rách toạc ra theo bước chân ông Đăng được dẫn vào đường lao lý. Từ ngày vắng ông, chả có đêm nào dòng nước mắt đau khổ của bà không rơi ướt đẫm gối. Nếu không có Hồi, niềm hy vọng cuối cùng của bà, bà chả còn thiết chi cuộc sống lẻ loi. Nhưng lúc này, bà thở dốc nhìn Hồi, rồi gạt dòng nước mắt uất nghẹn nghĩ dại. Nếu trời cho bà chết trước khi cái bụng của Hồi nở to hơn, hay trước khi bản tin ấy bị tung ra ngoài, bà thấy hạnh phúc hơn.

Từ những bi quan ấy, sau một lúc yên lặng, tiếng bà Đăng bỗng lạnh lùng, hỏi lại câu hỏi cũ:

– Việc hỏi cưới của cô người ta đã năm lần bảy lượt đến đây thúc dục. Cô muốn gỉa nhời ra sao đây?

Lần này, bà Đăng tự cho mình có đủ lý do để gọi Hồi bằng… cô thay vì dùng chữ con như những lần trước. Trước hết, bà muốn dứt khoát giải quyết vấn đề rắc rối này lần cuối cùng. Thứ hai, nó là một sự kiện khá cay đắng, rồi biến thành một mệnh lệnh để lành làm gáo vỡ làm môi, buộc Hồi phải có thái độ, hơn là gỉa nhõng nhẽo nói không với ba.

Phần Hồi, khi nghe bà Đăng dùng tiếng cô để hỏi nàng. Nàng biết, câu chuyện cơm không lành canh không ngọt giữa hai mẹ con nàng đã đến hồi kết thúc, không thể kéo dài thêm được nữa. Nàng thu hết can đảm, trả lời:

– Con lạy U, U thương con! U cho con được ở nhà với U ngày nào thì hay ngày ấy. Riêng việc lấy người ta con quyết không thể vâng lời U được…

Thay vì nghe lời van xin của Hồi, Bà Đăng lại rít lên:

– Đơn từ người ta làm và đã được chấp thuận cả tháng nay. Bây gìơ cô… dạy tôi phải trả lời ra sao đây?

Hồi nói trong lúc quyệt nước mắt:

– Việc ấy nào phải tại con. Con đã thưa với U ngay từ đầu là con không muốn lấy chồng, rồi sau này chính con đã van lạy U nhiều lần, nhưng tạiU…

Bà Đăng chỉ đủ bình tĩnh nghe đến đó. Đến khi nghe “ Nào phải tại con”,nó  có khác gì thùng dầu đổ thêm vào lửa. Bà Đăng đùng đùng nổi cơn điên. Bà đứng phắt người dậy, xoáy mắt nhìn Hồi. Bà không thể ngờ, đến nông nỗi này, Hồi lại dám to gan đổ lỗi cho bà. Bà hoàn toàn mất chủ động, bước đến đổ dồn cơn thịnh nộ lên người Hồi:

– Tại… tại cái mả bố nhà cô đấy. Tôi cho cô đi ăn học để cô về đây gỉa nhời với cha mẹ cô như thế à? Có phải cô cho rằng tôi ngu dốt, còn cô đi theo cái lũ đoàn đội của chúng, rồi về đây hiên ngang chống lại bố mẹ cô chăng? Tôi nói một cô chống một, tôi nói hai cô chống hai là nghĩa gì? Tôi bảo thẳng cho cô biết, cô muốn theo cái lũ người không ra người, ngợm không ra ngợm ấy để chống cha chống mẹ thì đừng có vác mặt về cái nhà này. Nhà này bạc phước, không dám rước những quân vô loại ấy vào. Ngược lại, nếu cô còn muốn có cha có mẹ, cô phải nghe nhời tôi. Ý tôi đã quyết, ngày gìơ tôi đã chọn, cô không muốn lấy cũng phải lấy.

Vào lúc ấy, bà Đăng tuy giận giữ nhưng chưa xuống tay với Hồi. Bà chưa xuống tay vì theo kinh nghiệm của lần trước, bà nóng nảy mở rộng chiến tranh, kết qủa cũng không giải quyết được gì. Trái lại, nó sẽ đưa bà vào con đường bế tắc. Ngoài ra, hoàn cảnh của bà vào lúc này giống như người sắp chết đuối trên biển, cái kế ép Hồi lấy Dụng là đám lục bình duy nhất đang trôi trước mặt. Bà phải cẩn thận xoay trở để ôm lấy nó trước khi nó trôi theo cơn sóng.

Kế bắt Hồi lấy Dụng không phải là kế tốt, và bà Đăng cũng không phải là người gian ác. Bà thừa biết, nếu như ép được Hồi lấy Dụng hôm nay để che mắt người ngoài thì cái hậu qủa của ngày mai sẽ còn thảm khốc hơn thế nữa. Khi ấy, không riêng một mình Hồi phải nhận lấy tiếng thị phi, tiếng nguyền rủa mà chính bà cũng không tài nào trách được những lời đay nghiến của hàng xóm láng giềng và của cả bên thông gia nữa. Nhưng đứng trước viễn ảnh bản tin về Hồi chỉ vài hôm nữa là cả làng cả tổng đều biết làm bà Đăng cuống cuồng, không tìm ra phương sách nào hay hơn là việc nhắm mắt đẩy Hồi theo phương án của bà. Bà liều lĩnh tính toán, được ngày nào thì hay ngày ấy.

Trong khi đó, Hồi, con gái bà lại cương quyết không làm điều thiếu công tâm. Nàng tự nhủ, đời nàng đã là đời bỏ đi, nàng không nên làm khổ lây cho người khác, nàng nói:

– Con đã thành thật thưa với U nhiều lần rồi. Có chết con cũng không thể lấy người ta được.

Bà Đăng đứng bật dậy, rít lên:

– À thì ra mày giỏi nhỉ, mày dám chống cả con mẹ gìa này à? Mày đã đi theo ai, đi theo… thằng nào? Mày muốn…

Nói đến đây bà Đăng mất tự chủ, lồng lộn lên như một mụ điên. Bà chồm người lên, túm lấy tóc Hồi. Bà tát không biết mỏi tay trên đầu trên mặt Hồi:

– Mày muốn chết à, này tao cho mày chết! Tao cho mày chết…

Tiếng bà càng vút lên cao, cánh tay bà đập xuống càng mạnh. Hồi không một kháng cự, nàng ngã chúi xuống đất:

– Con van U… con lạy U…

Bà Đăng chưa tỉnh cơn mê. Bà túm lấy mớ tóc của Hồi, lật ngửa ra phía sau, vả thêm mấy cái nữa rồi đứng chống tay lên ngang hông thở dốc:

– Lành làm gáo vỡ làm môi! Mày muốn chết tao cho mày chết. Nhưng muốn chết ở đâu thì chết, đừng có vác cái… mặt mo về nhà này mà chết. Mày đã nghe rõ chưa?

Thét xong, tay bà vơ lấy cơi trầu của bà Lục mới đem sang ném xuống đất:

– Muốn chết thì chết đi… còn ngồi ở đấy làm gì?

Tiếng thét hoà lẫn trong âm thanh bể nát của cơi trầu không làm cho bà Đăng nguôi giận, bà rít thêm vài tiếng nghe không rõ rồi vùng vằng bỏ đi vào trong buồng. Hồi gượng dậy, đau khổ nhìn với theo bóng bà Đăng khuất dần sau cánh cửa.

Sự thật, nỗi đau khổ của Hồi trong lúc này không bắt nguồn từ sự oán hận của trận đòn. Cũng không bắt nguồn từ cái đau của thể xác, nhưng nó khơi dòng vì sự rạn nứt từ hai trái tim của hai mẹ con nàng. Nàng lo sợ, từ đây giọt máu tình cảm không còn nhiều cơ hội chảy thông sang cho nhau. Trái lại, những tĩnh mạch tình thương kia sẽ bị dập nát, không phương hàn gắn. Như thế thì tội nghiệp cho mẹ nàng.

Vừa nghĩ tới đó, một cơn nhói đau quặn lên ở trong bụng, Hồi vội vàng vòng tay ra ôm chặt lấy. Á! Tiêng kêu than nhỏ, tạo thành một cảm giác đớn đau dài. Nàng biết, giọt máu của Vũ Mười trong một chiều cuồng dâm thô bạo đã tạo thành một hình nhân Việt cộng đang sống trong bụng nàng. Nàng phải làm gì khi chính giọt máu oan nghiệt đó đang là nguyên cớ chính yếu nghiền nát những tĩnh mạch yêu thương trong gia đình nàng. Đào thải nó ra ngoài hay gĩư nó lại?

Giết… nó, Hồi có phải là người độc ác và sẽ vướng vào cái tội sát nhân hay không? Người ta vẫn bảo, hổ dữ không nỡ ăn thịt con, nhưng nàng lại toan tính giết chết đứa… con mới thành hình nhân trong lòng nàng hay sao? Nghĩ đến đó, dòng nước mắt của Hồi lại đổ tràn xuống trên vạt áo. Nàng cắn chặt lấy đôi môi rung động, nàng lắc đầu tự biết không thể hành động giống Mười, giống Bảng. Nghĩa là nàng không thể tàn nhẫn, dù sự tàn nhẫn ấy là một sự kiện bất đắc dĩ.

Trường hợp Hồi tiếp tục đeo và nuôi dưỡng nó, hậu qủa sẽ ra sao? Hồi không sợ hậu qủa, nàng không ngại dư luận, nàng chỉ thương và tội nghiệp cho bà Đăng. Bà sẽ ra đi không một lời từ biệt. Và nếu bà Đăng bị… giải phóng trong trường hợp này, Hồi có phạm tội đại bất hiếu với cha, với mẹ nàng hay không? Càng hỏi, Hồi càng rối. Nàng không tìm thấy một chút ánh sáng ở cuối con đường hầm.

Rồi giữa lúc Hồi chơi vơi trong ngọn sóng cuồng , bà Đăng lại trở ra. Bà đến ngồi co rút một chân trên mặt cái chõng vào đúng vị trí bà đã ngồi trước khi dông tố nổi lên. Bà mở rộng tầm mắt ra trước mặt. Bà thấy, ngoài ánh đèn leo lét là những hình ảnh ngập tang thương. Trên nền nhà tung tóe nơi miếng cau, nơi lá trầu, chỗ mảnh bình vôi. Và ngay dưới chân cái chõng, Hồi vẫn phục người trên mặt đất. Tự nhiên, bà Đăng bật khóc. Tiếng khóc xé gan ruột pha lẫn sự hối tiếc. Hối tiếc vì lầm lẫn. Hối tiếc vì đã nóng giận, ra tay đánh đập Hồi như đánh một kẻ thù dưới tay. Thấy bà nức nở, Hồi gượng ngồi dậy, bảo bà:

– ConlạyU… U tha lỗi cho con, nhưng con không thể lấy người ta được…

Chẳng biết nghĩ gì, tiếng bà Đăng lại rít qua hai kẽ răng:

– Đã bôi tro trát trấu vào mặt bố mẹ cô, cô chưa hài lòng hay sao mà còn nhắc đến lỗi với phải?

Hồi biến sắc:

– Con lạy U… xin U thương con, tại vì…

Hồi kịp ngưng lại trước cái đoạn kết lý do buộc nàng phải từ chối cuộc hôn nhân của nàng. Trong khi ấy, bà Đăng lại mở to đôi mắt ra nhìn Hồi với ý nghĩ:

– Nó muốn đổ lỗi cho bà đây?

Bà liền đứng phắt dậy, nhìn nàng đăm đăm:

– Phải, mọi wiệc đều lỗi tại tôi, còn cô thì trong… sạch lắm!

Hồi giật bắn người lên, rồi thất thần trông lên ánh mắt bà Đăng. Bốn ánh mắt chợt giao nhau, Hồi tin là bà đăng đã biết được cái biến chứng trong người nàng. Tiếng nàng ấp úng:

– Không… con không…

Bà Đăng đứng dừng lại trước mặt Hồi. Bà nói toạc ra những nỗi uẩn ức trong lòng bà:

– Còn không với có gì nữa. Cô định lấy vải thưa che mắt thánh à? Cô tưởng tôi ngu và thiên hạ mù hết rồi hay sao mà dấu. Đã đến nước này rồi thì tôi cũng nói thẳng cho cô biết một điều. Cô muốn làm gì thì tùy cô, nhưng tôi xin cô, tôi lạy cô đừng có vác cái của… nợ ấy về nhà này, tôi không dám chứa đâu. Tôi không dám chứa đâu.

Tiếng bà Đăng rít lên ở những đoạn cuối, tưởng bà sẽ đanh thép làm sao. Ai ngờ, cố gắng lắm cũng chỉ nói được mấy câu như thế rồi bất thần, gục đầu vào cái cột dưới chân đèn nức nở. Tiếng khóc làm toàn thân bà run rẩy và đôi chân từ từ khụỵ xuống. Bà mặc nhiên ngồi phục trong tư thế ấy khá lâu. Một lúc sau, bà chống tay đứng dậy, cứng rắn:

– Nếu cô đã muốn như vậy thì tôi cũng chẳng dám nài ép cô nữa. Từ đây trở đi, cô muốn làm gì thì làm. Nhưng, tôi xin cô, tôi lạy cô. Lạy cô tha cho tôi, van cô đừng để cho nó ễnh lên ở trong cái nhà này. Tôi lạy cô, tôi xin cô… nhà tôi bạc phước lắm, không dám chứa nó đâu. Cô đã nghe rõ chưa?

Nói đến đây, bà Đăng nấc hự lên một tiếng. Bà không dám nhìn lại phía sau lưng, nhưng bước vội vào trong buồng. Phần Hồi, ngay khi vừa nghe rõ cái âm thanh tang thương, thống thiết ấy, nàng hốt hoảng nhổm người lên, nhìn đuổi theo bóng bà Đăng vừa khuất sau khung cửa:

– U ơi… U!

Hình như bà Đăng đã giật mình, dừng chân. Bà quay nhìn Hồi trong đôi mắt nhòa lệ. Những con mắt thống khổ bất ngờ giao nhau. Hồi thấy tội cho bà và một nửa xót xa cho mình. Bất chợt, Hồi có ý định nói ra cái sự thật cho bà Đăng nghe, nhưng không hiểu tại sao, tiếng nàng lại im bặt sau tiếng gọi đầy hốt hoảng kia. Đến khi không thấy bà Đăng trở ra nữa, Hồi từ từ đứng dậy. Nàng đi ra cửa, kiểm xoát lại cái then gài. Sau đó, với tay lấy cây đèn dặt trên gía, đem theo vào trong buồng.

Vào đến trong buồng, tự nhiên Hồi thấy cần phải cẩn thận để ý lắng nghe xem từng tiếng động nhỏ chung quanh. Riêng đôi mắt, nàng không quên chú mục vào những lỗ hổng đáng nghi ngờ trên bức vách. Khi đoán chắc bà Đăng đã vào giường nằm, thay vì đứng đâu đó bên kia bức vách để theo dõi mình. Hồi vặn thật nhỏ cái tim đèn xuống rồi vén cao vạt áo lên trước ngực. Hồi nhìn dọc nhìn ngang, đàng trước rồi phía sau. Lúc đầu Hồi vẫn cho rằng, người ngoài chưa thể nào nhìn thấy được sự đổi thay trên thân thể nàng. Nhưng càng nhìn, Hồi càng thấy nó nổi to lên một cách khác thường. Hồi mất bình tĩnh, nàng đưa tay lên xoa nắn và ấn nhẹ trên bụng, trên ngực. Nàng thất vọng vì cái kế lấy vuông vải, gấp lại làm khăn nịt ngang bụng để tạm che mắt người ngoài trong những tháng đầu. Hồi chán nản, ngồi phịch xuống trên mép giường. Giọt nước mắt nóng lại rớt trên phần da thịt đang cưu mang một sự sống riêng.

Một lúc sau, Hồi mỏi mệt gục đầu xuống trên gối. Nàng đã suy tính lại toàn bộ những việc cần phải làm, trong đó có cả việc liều lĩnh chấp nhận lấy Dụng theo ý bà Đăng trước khi qúa trễ. Hoặc tìm cách nói cho bà Đăng biết nguyên do cái thai trong bụng để nhờ bà tìm phương hoá giải. Kết qủa, nàng lẩn thẩn gần xuốt đêm, không tìm ra được một lối thoát vẹn toàn, ngoại trừ dòng nước mắt không vơi cạn. Ngoài kia, xương đêm vẫn lạnh, gió đêm thêm buốt da thịt, riêng lũ côn trùng cũng thôi lời than vãn. Trong nhà, Hồi đứng dậy soi bóng mình trên vách, hình như nàng không tìm ra lý lẽ sống, tồn tại. Nàng tự nhủ:

– Bóng hình dù có mang một cuộc đời và hai sự sống in lên vách kia, có lẽ cũng chỉ là một ảo ảnh, hay là một giấc phù du. Nếu đúng như thế, cái bác đảng với đường dao thô bạo cũng không thể tồn tại theo năm tháng. Theo đó, đời nàng, đời xã hội chủ nghĩa đều phù du như bóng hình trôi nổi, hôm nay còn, ngày mai mất. Khi còn, không một ý nghĩa. Lúc mất, cũng vùi vào nơi bụi cát.

Chợt có tiếng gà gáy sang canh từ xa đưa lại, và ngọn đèn như làm uốn khúc hình bóng của nàng in trên vách vì hơi thở mạnh. Hồi bước dần ra phía cửa sổ. Nàng nhẹ nhàng nâng cao cái phên cửa lên. Trước mặt nàng chỉ có một màu đen thẳm và hơi lạnh trong bóng đêm tràn vào mặt nàng. Hồi rùng mình, hạ cái phên làm cánh cửa xuống, bước quay vào. Thêm một tiếng gà gáy nữa. Hồi ngước mắt lên cao. Mặt trời chưa lên để xua đi tăm tối, nhưng tiếng gà đã báo hiệu cho một ngày sắp đến. Ngày sắp đến sẽ mang lại cho nàng, cho người dân Xuân Thủy những gì? Một cuộc sống hay một cuộc tang thương?

– Có lẽ, vẫn chẳng có gì ngoài cây mã tấu anh dũng trong tay người đảng viên. Nếu thế, làm gì có mặt trời lên? Không mặt trời, Xuân Thủy tìm đâu ra lẽ sống? Hồi tìm đâu ra hạnh phúc và vạt áo rách nào có thể lau khô dòng lệ của bà Đăng? Và con đường nào sẽ cho ông bà Lục bước châm thênh thang trong lúc tuổi xế bóng?  Nghĩ chán, Hồi mạnh dạn đứng dậy, cắt đứt những suy nghĩ không đầu không đoạn kết. Nàng quyết phải làm xong một việc cần phải làm trước khi nắng lên…

 

 

 

 

Chương 18   *****************************************************

*****************************************************************

 

Trở lại câu chuyện ở nhà ông Lục cách đây hơn một tháng. Sau khi Bảng ra về, ông bà Lục ngồi tính tới tính lui, rút cục không có một con đường nào khác ngoài việc ăn… mừng. Mừng vì nhờ vào sự hòa giải ấy, ông bà Lục chỉ mất một con trâu, bù lại, ủy ban sẽ thuận cho ông tổ chức tuyên bố đám cưới cho con. Theo đó, một mặt bà Lục nhận trách nhiệm thông báo bản tin cho bà Đăng cùng vui. Mặt khác, ông Lục sẽ đích thân cầm lá đơn xin tuyên bố cho con lên văn phòng ủy ban gặp Thọ. Khi đến nơi lại không gặp Thọ hoặc Bảng, ông phải nhờ người thư ký quen mặt chuyển đơn và chuyển lời của ông cho Thọ:

– Anh nhớ trình ngay với ông chủ tịch hộ tôi nhá, vài hôm nữa tôi sẽ trở lại để lĩnh ý.

– Vâng, ông cứ yên tâm.

Khi Thọ đến văn phòng, gã liền báo cáo sự việc cho Thọ. Lúc cầm lá đơn của ông Lục trong tay mà Thọ vẫn tưởng nằm trong giấc chiêm bao. Vài hôm sau, vừa trông thấy bóng ông Lục thấp thoáng ngoài khung cửa, bí thư Thọ đã vội vàng đứng dậy, bước hẳn ra ngoài mời ông Lục vào trong văn phòng ủy ban. Lúc ông Lục còn đang ngỡ ngàng vì thái độ khác thường của Thọ, Thọ đã kéo ghế mời ông ngồi và hỏi thăm rối rít về những sinh hoạt trong gia đình của ông. Chuyện này chưa dứt lại đến chuyện kia. Cuối cùng, Thọ mở ngăn kéo lấy lá đơn với dấu mộc đỏ chóe đưa ra trước mặt ông Lục:

– Thật tình mấy hôm nay ngồi đây mà tôi chỉ sợ nhỡ nhàng công việc của các cháu. Nói ra thì bảo là nói đãi bôi, nhưng nếu có thêm giờ, tôi đã chạy lại bên ông bà để ông khỏi phải vất vả đi lên đi xuống, nhân tiện hỏi thăm và động viên cháu mấy lời trước khi tổ chức xây dựng cho cháu.

Ông Lục ngẩn người ra ghế, Thọ tiếp:

– Mà công việc lo cho các cháu ông tính toán đến đâu rồi. Ông bà có cần uỷ ban, hay bên hội thương binh liệt sỹ tiếp tay phần vụ nào không? Ông bà có gặp khâu trở ngại nào nữa không? Nếu có hoặc cần gì, ông cứ mạnh dạn cho ủy ban biết, đừng ngại.

Ông Lục mừng rỡ nói chẳng nên lời:

– Thật là qúy hóa qúa, xin cám ơn ông chủ tịch. Nhưng cho đến bây giờ, tôi chưa gặp trở ngại gì.

– Vậy là tốt rồi, ông bà cứ yên tâm mà tổ chức chu đáo cho các cháu. Đây là lá đơn đã được thuận như ông bà xin. Còn đây là giấy giới thiệu của ủy ban, ông đem sang cửa hàng thương nghiệp mà mua các thứ cần dùng cho các cháu trong ngày lễ tuyên bố. Ông nhớ nhá, theo giấy giới thiệu này, ông được mua thêm 7 ký gạo, 2 cân muối, một cân rưỡi đường và bốn chai nước mắm. Kế đến, vì ông thuộc diện gia đình liệt sỹ của nhà nước. Ông được phép giết gà, vịt mỗi thứ một con, và được cấp phiếu mua thêm ba cân thịt lợn. Ông liên lạc hỏi xem ngày nào họ có đủ thịt thì ta mua để tổ chức cho các cháu. Riêng cá nhân hai đương sự làm lễ tuyên bố, được nhà nước bán cho 4 mét vải bông và 4 mét vải đen hoặc xám để may quần áo… cưới. Tuy nhiên, ông cũng biết đấy, trong hiện tình cả nước còn nhiều khó khăn, số khách tham dự lễ tuyên bố được quy định không qúa hai…. trăm người. Riêng vụ giấy mời nếu ông muốn thì tôi bảo bên ủy ban lo ngay để ông gởi mời cho kịp thời gian. Tuy nhiên, giấy mời thì lại không thân tình mấy ông ạ. Ta cứ đến mời bằng miệng theo thông lệ mà lại hay. Ông nhất trí như thế chứ?

Ông Lục luôn gật gật cái đầu trong lúc Thọ nói luôn mồm. Rồi sau khi giải thích cặn kẽ cho ông Lục các khoản ghi trong tờ đơn, Thọ vui như chưa bao gìơ được vui. Gã tiễn chân ông ra khỏi trụ sở ủy ban bằng nụ cười giống bác:

– Thôi ông về và lo thu xếp chu đáo cho các cháu nhá. Cho tôi gởi lời thăm và chúc mừng bà nhà trước, riêng ngày lễ tôi sẽ đến mở lời mừng cho các cháu.

Ông Lục thật thà không một thắc mắc, cũng không buồn để ý đến nụ cười vừa chế diễu vừa đểu cáng của Thọ. Ông không thể biết, gã giải quyết như thế là vẹn tình cho cả đôi bên và giải luôn cái lo trong gan phổi của gã. Phần ông Lục, về đến nhà, ông hăng hái trải rộng tờ giấy ra trước mặt khoe công với bà:

– Đây, bà nhìn xem, lá đơn đã được nhà nước chấp thuận với hai ba cái mộc đỏ chói. Hơn thế, ủy ban còn cấp cho tôi giấy giới thiệu sang cửa hàng nhà nước để mua đủ các mặt hàng cần thiết cho lễ tuyên bố như muối, đường và nước mắm. Có cả vải để chúng may quần áo cưới nữa bà ạ. Riêng cái khoản họ cho phép giết gà hay vịt thì có, nhưng không thấy nói đến địa điểm mua ở đâu. Tôi nghĩ chắc họ chỉ viết cho nó có lệ thôi.

Bà Lục làm ra vẻ thành thạo:

– Cái ấy đã hẳn nhiên. Một khi gọi là giấy tờ thì họ phải làm cho có đủ mọi mặt, và phải làm ra vẻ xã hội chủ nghĩa chả thiếu một thứ nào, nhưng thật ra là chẳng có gì. Nếu mình không biết tính trước liệu sau, không nuôi được vài con gà chui, khách có đến thì dự đám cưới… ngó, còn cỗ bàn thì xin kiếu.

Ông Lục biết bà đang có ý kể công, ông nói tránh:

– Càng nghĩ tôi càng bật cười bà ạ. Không biết là họ muốn tổ chức xã hội theo cái kiểu gì mà chỉ thấy toàn những lệnh cấm.

Nghe ông vòng vo, bà Lục thẳng thắn cho ông biết đây không phải là gìơ để tâm sự, bình luận về cái xã hội chủ nghĩa của cây mã tấu, bà bảo:

– Hơi đâu ông lo nghĩ đến mấy cái chuyện ấm a ấm ớ của nhà nước vào lúc này. Ông nên để tâm trí, để thì gìơ vào việc lo lắng thu xếp cho chúng thì hơn.

Nói xong, bà Lục xăn tay áo lên nom giống như ông… tướng chỉ huy mặt trận Điện Biên:

– Mai thì ông cho thằng Dụng nó cầm tờ giấy lên cửa hàng thương nghiệp để mà mua các mặt hàng họ đã ký cho. Sau đó, ông bảo nó mang mấy mét vải đi theo ông sang bên ấy. Trước là bàn lại với bà ta về cái ngày gìơ đón dâu cho nó dứt khoát. Kế đến, gởi hết vải vóc cho bên ấy để… con nó muốn may mặc gì tùy thích. Lại nữa, ông nhớ cho bà ấy biết phía bên đó mời chừng mươi người khách, để họ muốn mời ai thì mời bằng miệng trước đi, chứ còn vụ giấy mời của ủy ban do nhà in của Liên Xô đóng bản kẽm và in thì có lẽ là để đến đới con cháu của chúng hãy làm. Bên mình cũng thế, ông muốn mời những ai thì tính cho kỹ, kẻo lại rơi vào cảnh ma chê cưới trách. Ngưng lại một chút, bà thở mạnh một hơi và nhìn ra đầu ngõ:

– Lại còn cái ủy ban và hội liệt sỹ mới là chướng. Không mời thì không được, mà mời là mất toi một mâm cỗ.

Sau tiếng thở dài, bà Lục còn kể thêm một lô công tác cần phải làm. Ông Lục nghe muốn đầy ắp lỗ tai, không còn nhớ chuyện nào trước việc nào sau. Rồi trong lúc bà Lục rất tích cực, chuyện gì bà cũng sôi nổi muốn làm cho xong ngay, ông lại khác. Ông cứ thủng thẳng theo chủ nghĩa chả đi đâu mà vội mà vàng, tiền công nợ chưa trả được chẳng ai vào trả thế cho ông. Ông bảo:

– Được rồi, bà cứ để những công việc ấy cho tôi. Phần bà nhớ lo thu xếp tính toán cỗ bàn rượu chè cho nó cẩn thận vào, kẻo nhỡ nhàng.

Bà Lục nguýt chồng:

– Tưởng gì chứ việc cỗ bàn cơm nước chả cần đến ông phải nhắc. Tôi chỉ nhờ cô nó sang giúp một tay là đâu vào đấy.

Nói xong, bà Lục lấy miếng trầu cho vào miệng. Bà nhai bõm bẽm và có cảm giác miếng trầu cay sớm thơm mùi đám cưới, bà mỉm cười. Thoáng mắt, nắng chiều theo khung cửa đã dọi ngang nhà. Ông Lục đứng lên đúng lúc tai nghe tiếng chân, rồi tiếng kêu nghé ngọ của con Mễ ngoài đầu ngõ. Ông bảo:

– Thế mà trời sắp tối rồi đấy.

Thấy ông đứng dậy, bà Lục cũng chống tay đứng lên đi xuống bếp lo bữa cơm chiều. Phần ông Lục, ra đến giữa sân, ông đưa tay cầm lấy sợi giây rợ cột mũi con trâu trên tay Dụng:

– Đưa đây cho bố, con đi tắm rửa rồi vào mà ăn cơm.

Ông Lục dắt con trâu về phía chuồng. Trước khi dắt nó vào hẳn bên trong, ông đứng lại nhìn nó từ đầu đến cuối chân rồi                                      vuốt tay  trên đầu cổ nó như để xác định lại xem, sau một ngày vắng bóng ông chăm xóc, nó no đói gầy béo ra sao. Quan xát xong, ông bập miệng vài tiếng quen thuộc, con Mễ bước vào trong                               chuồng. Ông buộc sợi giây rợ vào cái cột, sau đó, ra vườn sau ôm vào trong chuồng cho nó thêm ít cỏ và rơm khô. Ông đứng nhìn nó ăn một lát rồi quay vào.

Cơm nước xong, ông bà Lục lại ra ngồi trên manh chiếu rách trải trên vỉa hè ngay trước cửa ra vào. Bà Lục vẫn chuyện vãn cầm canh như buổi sáng, riêng ông thì lặng lẽ hơn. Mãi một lúc sau, ông Lục mới chính thức thông báo bản tin quan trọng mà ông đã dấu bà xuốt từ lúc trở về:

– Ngày mai thì họ sẽ đến… bắt con Mễ theo như cái giấy mượn, tôi đã ký với ủy ban sáng nay đấy                               .

Bà Lục không ngạc nhiên về chuyện con Mễ phải xa bà, vì chính ông và bà đã đồng ý áp dụng kế sách để của đi thay người. Nhưng khi nghe ông thông báo về ngày gìơ con Mễ từ gĩa bà, bà không tránh được sự giao động, tiếc nuối. Tuy nhiên, bà không dám bộc lộ cảm tưởng của bà trong lúc này. Bà nói tránh đi:

– Vẫn biết là của đau con xót, nhưng như thế cũng xong ông ạ. Trước là ông không phải đội nắng, đội mưa đi chăn dắt nó nữa, sau là không bị chúng đến đây làm phiền mãi.

Tự nhiên ông Lục nhìn bà bằng ánh mắt không hài lòng. Ông tính bảo bà phát biểu như thế là không hiểu ông! Sự vất vả nắng mưa kia có nghĩa gì khi nhờ nó ông có được niềm vui, nhưng lại thôi. Lát sau, ông lặng lẽ đứng dậy, bước thêm mấy bước ra phía cuối sân. Ông đứng nhìn trời đêm, nhìn con Mễ một lúc rồi quay vào trong nhà, chấm dứt sớm câu chuyện buổi tối với bà.

Hôm sau, trời vừa tảng sáng, chủ nhiệm Bảng hí hửng dẫn theo hai xã viên đến nhà ông Lục để bắt con trâu. Vừa đi, Bảng vừa vung tay múa chân, gã làm như đời chủ nhiệm của gã chưa có một ngày nào vui, đáng ghi nhớ như ngày đi bắt trâu của ông Lục. Chuyện ấy cũng dễ hiểu. Bởi vì, nhờ tài trí của Bảng, một người từng cho mình là người khôn ngoan, luôn luôn chống đối Bảng như vợ chồng ông Lục, phải ngậm lấy qủa bồ hòn. Đã mất mẹ nó con trâu, lại còn đưa lưng ra gánh luôn của… nợ cho bí thư Đạo..

Khi đến nơi, thay vì thông báo cho gia chủ biết, Bảng tự động đi thẳng về phía cái chuồng trâu. Gã hắng dặng vài tiếng rồi một tay mở cửa, một tay tháo sợi giây nhợ ra khỏi cái cột và lôi con Mễ đi. Lúc ấy, ông bà Lục đã thức giấc, họ đang ngồi uống bát nước chè nóng ở trong bếp. Thấy Bảng đến, cả hai ông bà vờ đi, không một ai lên tiếng.

Phần con Mễ, vừa ra khỏi chuồng, nó ghì dây đứng lại. Nó quyết đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước những lời đe dọa, hò hét hoặc lôi kéo của chủ nhiệm Bảng và hai xã viên. Bảng giận dữ cho rằng con Mễ cũng lỳ lợm chống đối Bảng không thua gì ông Lục. Do đó, ngọn roi tre trong tay Bảng, như những đòn thù, tung lên cao, rồi vụt không mỏi mệt xuống trên đầu trên lưng con Mễ.

Dưới mỗi lằn roi mạnh bạo trong tay Bảng, con Mễ oằn mình kêu lên những tiếng nghé ngọ nghe ai oán. Tuy thế, nó không tỏ dấu hiệu muốn chấp hành hoặc nhường bước theo lệnh của Bảng. Chủ nhiệm Bảng lẽ nào chịu thua trí một con trâu. Gã ra lệnh cho một người đẩy phía sau đuôi, một người kéo ghì dây mũi phía đầu, còn Bảng ra roi. Kết qủa, con Mễ mỗi lúc một tiến… thụt lùi theo tiếng hò hét của cách mạng. Nhưng bất ngờ, nó lồng lên mấy bước và quay đầu trở lại phía chuồng trong lúc người xã viên kéo giây phía trước mất đà ngã chúi xuống đất. Gã thất thanh kêu lên:

– Đất mẹ nó cái giây mũi rồi!

Nghe tiếng kêu, Bảng hốt hoảng nhảy giật lùi lại phía sau. Riêng con Mễ bước từng bước chậm chạm trong tư thế đầu chúi xuống, và đưa thẳng cặp sừng cứng như thép về phía Bảng. Chủ nhiệm Bảng run chân, lo tháo mồ hôi hột. Gã tiếp tục bước từng bước thụt lùi trong lúc đôi mắt luôn đảo ngược ra phía sau để tìm lối thoát. Cái roi tre, cái mũ cối trong tay Bảng tự dưng rơi phịch xuống đất.

Phần ông bà Lục, tuy gỉa làm ngơ như không hay biết gì đến việc Bảng dẫn người đến bắt con Mễ. Nhưng thật ra, không một động tác nào của Bảng và của con Mễ đi ra ngoài tầm nhìn của ông bà Lục. Lúc Bảng bước vào chuồng cởi sợi giây, dắt con Mễ ra khỏi chuồng, ông Lục toan lên tiếng cảnh giác Bảng, nhưng lại thôi. Không ngờ, sau khi ra khỏi chuồng, con Mễ vì không nghe lệnh người xa lạ, nên lưng nó hằn lên những ngọn roi như đòn thù từ tay Bảng. Ông Lục lòng đau như dao cắt, nhưng quyết không ra khỏi nhà.

Đến khi nghe tiếng kêu thất thanh của người xã viên, ông Lục giật bắn người lên, rồi thay vì bình chân như trước, ông vội vàng chạy ra, thét lên:

– Ngừng tay, không được đánh nó nữa.

Đúng lúc ấy, Bảng vấp giây, ngã chổng bốn vó lên trời ngay trước cặp sừng con Mễ. Thấy nguy, ông Lục chạy ào đến đứng chặn trước đầu con Mễ. Ông lên tiếng gọi nó:

– Hò họ… họ… họ…

Nghe tiếng gọi quen và nhận ra chủ của mình, con Mễ bớt hung hăng, nó đứng lại. Thật nhanh, ông Lục dưa tay ra nắm lấy khúc rợ cột từ mũi lên phía trên đầu, bọc ngang qua hai cái sừng của con Mễ:

– Hò họ… họ… họ… ngoan nào.

Miệng nói gọi, tay ông mâm mê xoa vỗ nhè nhẹ trên đầu con Mễ. Chừng như thấu hiểu nỗi lòng ông Lục, con Mễ bớt hung hăng. Cùng lúc ấy, khi biết chắc mình đã thoát nạn, đồng chí Bảng lồm cồm bò dậy, lớn tiếng nạt ông Lục từ phía sau lưng:

– Có phải ông đã âm mưu gài cái giây ở đây để giết cán bộ nhà nước hay không?

Thay vì trả lời, ông Lục, một tay với lấy nắm rơm đưa ra trước mặt con mễ, một tay đón lấy sợi giây bà Lục đem đến. Cả hai ông bà đều xoa vỗ những vết thương bắn máu trên lưng nó trong lúc ông cột lại sợi giây mới. Cột xong ông nói:

– Hay là ông chủ nhiệm về trước, lát nữa tôi sẽ dắt nó lên sau.

Bảng cương quyết khác người:

– Không được! Nó không được phép chống lệnh của nhà nước.

Cực chẳng đã, ông Lục trao sợi giây lại cho Bảng, rồi bảo con Mễ:

– Thôi, con đi với họ đi. Ta thương con lắm, nhưng đã có lệnh của bác, ta không thể giữ con ở nhà được. Con đi đi, khi nào ngang qua nhà, ta sẽ cho con bó cỏ. Nhìn sang Bảng, ông tiếp:

– Con Mễ không quen dùng roi, ông chủ nhiệm nên cẩn thận.

Bảng nhìn ông bằng ánh mắt toé lửa, ông bà Lục vuốt ve con Mễ vài lần nữa rồi dục nó đi theo Bảng.

Lạ lùng làm sao, con Mễ như hiểu được tiếng nói chia ly cùng khổ của ông Lục. Nó cúi đầu gật nhẹ vài cái, sau đó vươn cổ, kêu lên hai tiếng nghé ngọ để từ gĩa căn nhà êm ấm của nó, rồi chậm chạp bước đi. Ông Lục theo chân nó ra đến tận đầu ngõ. Khi bóng con Mễ mất hút ở cuối con đường làng, ông Lục thất thểu quay vào. Cùng lúc ấy, bà ra đón ông ở trước cửa bếp, nhưng cả hai không nói một lời nào.

Lúc trời chiều ngả về tây, cảnh nhà ông Lục tự nhiên vắng tanh. Ông Lục một mình thơ thẩn, đi ra đi vào, nhìn trời ngắm đất. Khi ngồi vào mâm cơm, ông miễn cưỡng và cho xong một chén rồi đứng dậy. Ông đến ngồi co ro, bó gối trên cái ghế hút thuốc lào, nghe Thạch Sùng tắc lưỡi thay vì ra trước sân, dạo quanh một vòng, nói dăm ba tiếng bâng quơ với con Mễ, rồi sau đó mới quay vào trong nhà hoặc ngồi xuống vỉa hè trước cửa, chuyện vãn với bà theo một thói quen. Thấy ông lặng lẽ, phía bên kia ngọn đèn dầu leo lét, hình ảnh một bà Lục cũng không khá hơn.

Đột nhiên, giữa lúc hơi thở nặng nề căng thẳng, ông Lục toan đứng dậy vào trong giường nằm thì cả hai, chẳng ai bảo ai đều bật người nhổm dậy, nghiêng hẳn mái đầu bạc sang một bên nghe ngóng. Nét đăm chiêu trên đôi khuôn mặt gìa như giãn hẳn ra theo tiếng động gieo bước bên ngoài. Tiếng động càng lúc càng thêm nặng nề và gần gũi hơn. Ông Lục đứng dậy:

– Nghe như tiếng con Mễ nó trở về bà ạ.

Bà Lục chưa kịp bảo:

– Ông chỉ nằm mơ.

Đã nghe tiếng kêu nghé ngọ vang lên từ trước cửa. Ông bà Lục chân không dép guốc, vội vàng mở toang cánh cửa, lao người ra ngoài. Dưới ánh trăng sao nhạt mờ, ông Lục nom rõ con Mễ đang đứng sừng sững trước sân. Không chậm trễ, ông đến ôm chầm lấy nó. Ông ôm nó giống như người cha mở vòng tay đón con từ vòng lao lý tù ngục cộng sản trở về. Cùng lúc đó, bà Lục cầm cái đèn dầu ra đến nơi. Bà giơ cao, ghé xát vào mình con trâu như để xác minh đây là sự thật hơn là cơn mê. Có tiếng bà Lục kêu lên thảng thốt:

– Ông nhìn kìa, sao máu me nó chảy ra nhếch nhác thế?

Theo ánh đèn, ông Lục lần tay kiểm tra sợi giây mũi và cổ. Ông thấy cả hai sợi giây này đều bị cắn đứt. Ông biết nó đã bức phá vì lạ chuồng. Ông vuốt ve nỗi đau và dắt nó vào chuồng. Ông tìm sợi dây khác nối lại sợi giây đã đứt. Nối xong, ông trở ra vườn sau, ôm vào cho nó vài bó cỏ. Con Mễ cúi xuống gặm mớ cỏ khô trên tay ông một cách ngon lành. Thấy vậy, bà Lục bảo ông:

– Nó có nghĩa như người ông ạ.

– Đã hẳn!

Nói xong, ông bà Lục đứng nhìn nó một lúc nữa rồi mới quay trở vào. Ông tìm được giấc ngủ ngon, tuy muộn màng.

Sáng hôm sau, chủ nhiệm Bảng lại đến với hai người xã viên và hai công an. Không cần tìm hiểu lý do, chủ nhiệm Bảng nặng lời lên án ông Lục đã lợi dụng đêm tối đến bắt trộm trâu của hợp tác xã. Bảng chỉ tay vào mặt ông khi bước vào chuồng lôi con Mễ ra:

– Lần sau còn tái phạm, ông hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về việc thất thoát tài sản của hợp tác xã.

Lửa giận bốc lên đầu, nhưng ông Lục không nói lại một tiếng nào. Bà cũng thế, cả hai đều muốn nhịn cho qua ngày cưới của Dụng rồi mới tính. Từ đó, coi như ông Lục mất hẳn con Mễ, và cái hình hài vốn đã trơ xương của ông có thêm cơ hội hao mòn vì thương nhớ khúc ruột đã bị chia lìa kia…

Rồi có những ngày, bà Lục nhìn chồng và tưởng ông ấy ra điên đến nơi. Sáng nào cũng vậy, sau chén cơm nguội lót lòng, ông Lục gói nắm cơm hoặc củ khoai vào trong cái mo cau. Kế đến lấy cái điếu, xáp thuốc, chai nước, rồi bỏ tất cả những lương thực cần thiết cho một ngày ăn đường ấy vào trong cái gỉo làm bằng cói xách ra khỏi nhà như người đi lao động xa. Nhưng nào ông ta có đi lao động. Ông đi ra chuồng trâu, với tay lấy cái nón rách treo trên cột đội lên đầu. Sau đó, một tay thong thả rút lấy cây roi tre gài xát trên mái chuồng, một tay lần cởi sợi giây ra khỏi cái cột. Cởi xong, ông kéo lê sợi giây phía sau lưng, thong thả bước đi. Ông đi, đi mãi cho đến khi nắng hoàng hôn tắt hẳn trên đê, mới thấy ông dắt… trâu vào chuồng.

Lúc đầu bà Lục thấy ông diễn lại vở tuồng cũ, bà bật cười bảo ông:

– Ông đến hay nhỉ? Trâu chả có, ông không ở nhà nghỉ ngơi cho nó khỏe, lại kéo sợi giây đi đâu?

Ông Lục ậm ừ trả lời:

– Thì đi ra đồng cho nó khuây khỏa.

Bà Lục tưởng thật quay vào. Phần ông, ra khỏi con ngõ, ông tiếp tục kéo sợi giây đi lại trên tất cả những con đường cũ. Lúc đi, ông không bỏ xót bất cứ một thói quen nào ông đã làm cho con Mễ khi xưa. Ra đến khóm tre cuối cánh đồng, nơi ông tự nhận như căn nhà thứ hai. Ông bác cái võng lên gốc tre, tìm giấc ngủ. Chiều đến, khi nắng vàng bắt đầu nhạt nhòa trên cánh đồng cạn, ông Lục thong thả kéo sợi giây dọc theo chân đê trở về. Nếu có người quen biết trên đường chào hỏi ông, ông không ngần ngại nhắc lại câu trả lời cũ:

– Tôi dắt con Mễ ra đồng cho nó kiếm miếng cỏ.

Một lần nghe ông trả lời thế, bà phó Ba đứng chết như trời trồng bên đường nhìn theo bóng dáng hao gầy của ông với sợi giây đi ngang trước mặt. Tự nhiên bà nhớ đến sợi giây đã giúp cho nhiều người tự giải phóng cho mình vào thời đấu và hậu đấu tố. Bà chép miệng, rồi kéo vạt áo lên lau nước mắt. Bà thương cho số phận của cả đôi bên. Bà tự nhủ, hôm nào rảnh sẽ đến thăm ông bà Lục. Lại có người, khi nghe câu trả lời, họ ngoảnh nhìn ông Lục với nụ cười đầy tính thỏa mãn trên môi.

Phần ông Lục, ông không màng chi đến chuyện đời đổi thay. Ông bỏ ra ngoài tai mọi lời đàm tiếu.  Ông chỉ biết, ngày mưa cũng như ngày nắng, ông quyết không bỏ nghề. Vì yêu nghề, ông đích thân lên ủy ban, rồi lên ban lãnh đạo hợp tác xã Xuân Thủy, tự nguyện xin làm người chăn nuôi con Mễ không công cho nhà nước. Kết qủa, nhà nước không đáp ứng nguyện vọng tình cảm cá nhân cho ông. Ông buồn, ông bỏ ra về. Ông lại tiếp tục kéo sợi giây theo cuộc đời sắp tàn để tìm quên.

Tính đến nay, con Mễ đã xa ông gần một tháng, nhưng chưa có ngày nào ông Lục quên, không làm công việc vô bổ ấy. Có nhiều ngày, bà Lục muốn nổi cơn điên. Bà đã giậm chân múa tay, đánh còng còng như phải bỏng trước sân khi ông Lục kéo sợi giây ra khỏi nhà. Múa chân chán, bà lại đưa hai bàn tay gầy đét lên che mặt, lau nước mắt. Càng lau, nước mắt càng tuôn chảy. Bà mím môi, cay đắng gào hỏi trời cái lý do đã tạo nên nông nỗi. Tiếc thay, trời qúa cao không thể nghe, cũng không thể gỉa nhời cho bà. Khi trời không trả lời, bà giận, bà chửi bác. Bà chửi mỏi mồm, bác vẫn không lăn ra chết cho bà dễ thở. Cuối cùng, bà chịu thua ông. Bà khóc lóc, xuống nước năn nỉ ông, nhưng ông cho đó là loại nước mắt tiểu tư sản không cần phải để ý, không cần phải nghe theo.

Nói thế là có thể phạm tội vu… oan cho ông Lục đã xử nhạt với bà. Thật ra, ông Lục không phải là người tình bạc bẽo với vợ con. Nhưng trong lúc này, ông không thể nghe lời khuyên giải của bà là vì những lý do riêng:

– Thứ nhất, có đi như thế lòng ông mới nguôi ngoai được một phần nào những nỗi buồn đang xâu xé chuỗi ngày xế bóng của ông.

– Thứ hai, ông phải gỉa điên gỉa dại kéo sợi giây đi hết đầu làng đến cuối xóm, để tìm hiểu về một sự kiện mà ông cho là bí mật và có liên hệ đến ông Đăng.

Cách đây khoảng một tháng, ông thấy ông Đăng về thăm nhà và đến thăm ông. Trong câu chuyện, ông Đăng rất buồn rồi lập đi lập lại lời từ gĩa, cũng như gởi gắm vợ con lại cho ông. Lúc đầu ông ngại không dám nhận lời, bởi vì người xưa từng nói: Thứ nhất ông bạn thân, thứ nhì ông hàng xóm tốt bụng. Nhưng khi thấy ông Đăng thành khẩn, ông đành gật đầu nhận lời ủy thác cho người bạn xưa vui lòng.

Sau khi tiễn ông Đăng ra khỏi nhà, ông Lục bùi ngùi trở lại bên cái điếu. Giữa lúc ấy, ông nghe như có tiếng bà Lục gọi, ông giật mình ú ớ trả lời. Lúc hút xong điếu thuốc, ông không thấy bà, chỉ thấy một khóm tre trơ trụi giữa đồng trống. Biết vừa nằm mơ, ông dụi mắt ngồi dậy. Sau khi uống hớp nước, ăn điếu thuốc, ông Lục không thể nào xóa tan được những hình ảnh ông vừa gặp trong cơn mơ. Lúc đầu, ông tự dối mình bằng ý nghĩ, mộng mị là câu chuyện của đàn bà con gái ngồi lê đôi mách, hơn là một sự kiện có thể xảy ra.

Nhưng ngày qua ngày, giấc mơ thêm in đậm nét trong lòng ông. Ông bắt đầu nghi ngờ đó là sự kiện người chết trở về báo mộng cho ông. Từ đó, ông để tâm tìm hiểu tất cả những sự kiện có liên hệ tới ông Đăng, cũng như những người cùng diện với ông ta. Do yêu cầu tìm hiểu, ông Lục thường lui tới nhà bà Đăng. Việc lui tới này đã tạo ra cho bà Đăng sự ngộ nhận và hiểu nhầm là ông Lục sang thúc dục, bàn về chuyện cưới xin của Hồi trong lúc mẹ con bà đang gặp cảnh giằng co, không quyết, nên có lần bà Đăng đã phải lánh mặt. Tuy bị hiểu nhầm về mục đích của những lần viếng thăm, ông Lục vẫn ngậm tăm, bỏ thẻ, không giải thích, không nói ra mục đích của việc đi lại cho bất cứ ai, kể cả bà Lục nghe, ngoại trừ một lần ông nhỡ miệng:

– Tôi nghĩ khéo mà ông ấy chết rồi cũng nên bà ạ.

Bà Lục sửng sốt nhìn ông:

– Ông chỉ nói gở!

– Chả gở đâu, vì nếu không thì đã có tin. Hơn nữa…

Thấy ông ngập ngừng, bà Lục nhướng cao đôi mắt lên chờ đợi, ông lại im bặt. Một lát sau chẳng hiểu nghĩ gì, bà Lục cũng nói:

– Chuyện ấy, tôi cũng hơi nghi, nhưng không dám nói ra vì sợ làm bà ấy buồn.

Tự nhiên, ông Lục nhìn bà bằng ánh mắt nửa buồn phiền nửa trách cứ. Ông buồn vì tin rằng ông Đăng sẽ không bao gìơ trở lại. Và trách vì bà Lục đã nông nổi, kém suy tính khi yêu cầu ông sang mời vợ chồng ông Đăng đến ăn giỗ. Đã lỡ làng như thế, bà còn nóng nảy lên tiếng mắng Bảng trước mặt ông Đăng. Nghĩ lại, ông thật kém trí khôn. Nhưng lúc này có hối cũng bất cập. Ông đành dấu tiếng thở dài, kể lại giấc mơ cho bà Lục nghe. Lúc nghe, trống ngực bà Lục đập thình thịch và chân tóc dựng ngược hẳn lên.

Trong khi đó tại nhà bà Đăng, sau khi thao thức gần suốt đêm, Hồi đã quyết định viết kể lại toàn bộ mọi sự kiện liên quan đến với nàng trong suốt mấy tháng vừa qua. Trong thơ, Hồi đã nói rõ đến ngày tháng bị Bảng lừa vào trong căn buồng kín ở nhà kho hợp tác xã để bí thư Vũ Mật   dùng bạo lực hiếp nàng đến mang thai. Nàng thật tình xin lỗi bà Đăng, ông bà Lục và cả Dụng nữa trong việc bó buộc nàng phải từ hôn. Viết xong, Hồi không thèm tự tử, nhưng đặt gọn lá thư xuống dưới gối đầu rồi cố dỗ lấy một giấc ngủ muộn.

Khi mặt trời vừa lên, Hồi thức giấc, nàng đã làm tất cả mọi công việc từ nấu cơm, đến dọn nhà cửa như những ngày thường. Sau đó, Hồi ăn cơm, bới cơm vào cái mo cau, thay bộ quần áo đi lao động và ra khỏi nhà:

– Thưa U con đi lao động đây.

Từ trong buồng riêng, bà Đăng nhìn với theo bóng Hồi bước qua khung cửa nhưng cơn giận từ đêm qua vẫn chưa nguôi, bà không trả lời. Ra khỏi nhà, Hồi đổi hướng. Nàng đi ngược về phía trụ sở ủy ban nhân dân thay vì đi ra cánh đồng hợp tác. Giữa đường gặp Cách, Hồi dặn Cách báo với tổ sản xuất là nàng nghỉ nửa ngày công để đi nộp cái đơn thăm nuôi. Nói xong, cả hai cùng chia tay. Lúc đến nơi, Hồi chưa thấy một bóng người xuất hiện, nên ghé ngồi xuống bên bậc thềm để chờ. Mãi khi nắng lên cao, bí thư Thọ lạch cạch đạp xe đến. Hồi không để cho Thọ có thì gìơ lẩn tránh. Nàng bước đến trước mặt Thọ và bằng một thái độ dứt khoát, Hồi bảo:

– Nếu hôm nay, anh không trực tiếp giải quyết mọi yêu cầu của tôi, cũng không đưa tôi lên gặp bí thư Mật                                                            để giải quyết vấn đề… cá nhân giữa tôi và đồng chí ấy như anh đã nói, những lá đơn này sẽ đến mặt trận tổ quốc và tòa án nhân dân.

Thọ xanh mặt khi nhìn thấy cuộn giấy nằm gọn trong tay Hồi, gã biết, gìơ phút này là gìơ phút nghiêm trọng, buộc gã phải cẩn trọng tính toán, không thể vì một chuyện nhỏ nhen để làm hỏng công việc của bác của đảng. Từ suy nghĩ ấy, gã bình tĩnh tạo cho gã một ánh mắt cương quyết và một lời nói dứt khoát:

– Cô không nên giận mà mất khôn, nhời tôi đã hứa thì hôm nay tôi sẽ thi hành. Mời cô qúa bộ vào trong văn phòng uống cốc nước buổi sáng đã.

Nói xong, Thọ dựa cái xe đạp vào bậc thềm rồi bước vào văn phòng, Hồi nối gót theo sau. Cùng lúc ấy, viên thư ký ủy ban lò dò đi vào văn phòng, Thọ liền ra lệnh cho anh ta đi tìm Bảng về ủy ban. Người nhân viên này đi chưa bao lâu thì Bảng tay cầm cái nón cối, quần ống thấp ống cao vẻ khẩn trương bước vào. Nom tháy Bảng, Thọ mừng như bố chết sống lại, gã đứng bật người dậy:

– May qúa, chủ nhiệm Bảng đến kia rồi. Cô ngồi chờ một tý, tôi ra hội kiến với đồng chí ấy rồi đưa cô lên huyện nhá.

Không chờ Hồi gật đầu, Thọ vụt rời ghế. Theo bóng Thọ, Hồi quay lại, nàng thấy Bảng đã bước lên bậc tam cấp, Thọ kéo tay Bảng trở lại sân, mắt trước mắt sau:

– Chuyện này căng lắm, phải giải quyết ngay, không thể kéo dài hơn được nữa.

Bảng liếc mắt vào trong:

– Đồng chí đã liên hệ với huyện chưa? Trên ấy lãnh đạo có ý kiến gì không?

–  Cái bụng nó đã… ễnh lên rồi còn ý với kiến gì nữa. Hôm qua đồng chí ấy chỉ thị cho tôi biết là không muốn can dự vào vụ này. Ta tùy nghi chọn lựa phương án, trên ấy sẽ thu xếp sau.

– Đồng chí có dự kiến gì không?

Thọ rất thành khẩn:

– Như tôi đã bảo với đồng chí từ lâu, tôi không biết sử lý ra sao. Những tưởng rằng sau khi phía ông Lục làm đơn xin tuyên bố, đảng theo lá đớn ấy mà tạo hạnh phúc cho nhân dân,. Ai ngờ,  nó cứng cổ nhất định không chịu lấy chồng, đã thế còn đòi đơn với từ lên viện kiểm sát… Thôi thì trăm sự cậy nhờ tay đồng chí vậy.

Bảng nhìn Hồi qua khung cửa:

– Cơm không ăn thì ăn… cám!

Thọ thản nhiên trả lời:

– Đành phải hy sinh thôi. Ai không biết cán bộ là những người thương dân thương nước hơn thương chính mình, nhưng ta đã hết cách rồi. Muốn cho mẹ con nó được hưởng hạnh phúc mà họ không chịu hưởng thì ta cũng đành chịu thôi. Về phương án thì tùy nghi đồng chí lựa chọn sao cho nó gọn nhẹ, nhưng phải thu hồi lại mấy cái lá đơn trong tay nó mang về đây cho tôi.

Bảng nắm chặt hai bàn tay lại. Thọ tiếp:

-Nằm trong trường hợp này bác chỉ để lại có một sách. Ở trung ương thì có bộ trưỏng Hòan thi hành, ở đây thì trăm sự thành bại của đảng  đều cậy vào đồng chí đấy:

– Nhất trí, đồng chí cứ ở nhà, chờ tin báo của tôi.

– Nhớ cẩn thận vào. Đổ bể là đồng chí tự rước hoạ vào người đấy.

Nói xong, Thọ hân hoan trở lại báo cho Hồi:

– Chính ra tôi sẽ trực tiếp đi với chị, nhưng vì công việc của ủy ban qúa bận rộn, tôi phải nhờ chủ nhiệm Bảng thay tôi đưa chị đi. Khi lên đến trên huyện, đề nghị chị cứ thẳng thắn trình bày mọi sự kiện cho đồng chí ấy nghe. Tôi tin rằng với sự trợ giúp của chủ nhiệm Bảng, đồng chí ấy sẽ giải quyết cụ thể cả hai yêu cầu cho chị. Thôi chị đi nhá, tôi chờ tin hồi báo của chị. Chúc chị nhiều may mắn và sớm gặp ông nhà.

Nói xong, Thọ đứng dậy tiễn Hồi ra khỏi văn phòng ủy ban.

Con đường từ Xuân Thủy lên Xuân Trường không xa, nhưng đối với đời sống của người dân quê trên đất bắc quanh năm xuốt tháng bên lũy tre và cánh đồng thì con đường kia dẫu có đôi ba lần đi lại, nó vẫn xa lạ. Cách riêng với Hồi vào lúc này, nó lại qúa dài. Dài vì những nôn nao của nàng. Khi nắng vừa giáp đỉnh đầu, Bảng chở Hồi đi ngang khu đầm nước lớn có những rặng tre gìa bao bọc. Đây là khu vực gần như bỏ hoang. Trước kia, khu vực này cũng không người canh tác, chỉ có lũ trẻ mục đồng đi lại, hoặc lúc rảnh rỗi dẫn trâu bò ra đây đầm nước, nô đùa. Lúc sau này, trâu bò của tư nhân đã vào hợp tác hết, khu vực này hầu như không có người lai vãng đến. Bảng từ từ thắng chiếc xe đạp lại, gã bảo:

– Vào đây ngồi nghỉ nhọc uống hớp nước đã.

Nhìn vai áo Bảng ướt đẫm mồ hôi, Hồi thấy nàng không cần phải phản đối cái ý kiến hợp tình hợp lý của Bảng:

– Vâng, xin tùy ông chủ nhiệm.

Sau khi Hồi bước xuống đất, Bảng dựa cái xe đạp khuất hẳn vào bên trong lùm tre, thản nhiên ngồi bệt xuống đất lấy chai nước và cái điếu ra để trước mặt. Gã thong thả vê bi thuốc cho vào cái nõ, trong lúc chính Hồi cũng cảm thấy cần có vài phút để lo chuyện riêng, Hồi nói:

– Ông chủ nhiệm làm ơn đợi tôi một tý nhá.

Bảng thở phun khói thuốc ra trước mặt:

– Cô có đi thì đi nhanh nhanh lên, kẻo trễ.

Vừa nói Bảng vừa có ý quan sát hướng đi của Hồi. Khi thấy Hồi đi khuất vào phía trong lùm tre rậm, Bảng đứng dậy đi thêm mấy bước rồi vạch quần ra. Phần Hồi, sau khi đi khuất vào trong bụi tre, Hồi có ý nhìn trước nhìn sau để xác định lại cái vị trí kín đáo cần thiết cho mình. Không ngờ lại nom thấy chủ nhiệm Bảng đang cho “bác hồ”tưới gốc tre, Hồi đỏ mặt quay đi, và bước sâu thêm vào phía trong. Đến khi tìm được cho mình một vị trí khá kín đáo, Hồi toan ngồi xuống thì mũi nàng ngửi thấy một mùi hôi rất nồng nặc. Hồi lợm giọng buồn nôn, một tay nàng vịn chặt vào thân tre, một tay đưa lên vuốt ngực.

Lát sau, cơn buồn nôn tạm ngưng, Hồi tranh thủ thời gian làm vệ sinh. Vừa dợm ngồi xuống, mắt nàng bắt gặp một vật giống như tấm thẻ chứng minh nhân dân ở ngay dưới chân. Hồi tưởng là tấm thẻ của nàng bị rớt khi lên cơn buồn nôn, nàng cúi xuống nhặt lên. Hồi bàng hoàng nhận ra hình ảnh và tên tuổi của người trong tờ chứng minh nhân dân.

Giữa lúc Hồi bối rối nhìn xem, và tìm hiểu cái nguyên do tại sao tờ chứng minh nhân dân của ông Đăng lại hiện diện trong khung cảnh thâm u này, Hồi không hay biết việc chủ nhiệm Bảng đã theo bén gót chân, và đứng sẵn ngay phía sau lưng nàng. Đến khi nghe có tiếng động, Hồi giật mình quay lại. Nàng chỉ kịp nhìn thấy đôi cánh tay chai cứng của Bảng vươn dài ra, chộp cứng lấy cổ nàng.

Lúc này, Bảng giống như một con cọp ôm mồi. Sau khi xiết chặt cổ Hồi trong đôi tay cứng, gã dùng toàn bộ sức mạnh của mình để vật, và đè dí Hồi xuống chân gốc tre. Chưa vừa ý, Bảng chồm hẳn lên trên người Hồi. Hồi nghẹt thở, vũng vẫy trong tuyệt vọng.

Chủ nhiệm Bảng đắc thắng. Gã dùng một bàn tay xiết cổ Hồi, bàn tay còn lại, nắm lấy vạt áo và giật tung hàng nút áo trước ngực Hồi ra. Gã tham lam cúi xuống. Bấy nhiêu da thịt lộ thiên, chưa làm Bảng hài lòng. Gã liền luồn cánh tay xuống phía dưới, toan tụt nốt phần còn lại trên thân thể Hồi. Lợi dụng lúc một cánh tay Bảng ghì kéo cái cạp quần của Hồi xuống, Hồi nhổm người dậy, ghé răng cắn mạnh trên cánh tay Bảng. Vì không phòng bị, Bảng giật mình buông tay ra. Không bỏ lỡ cơ hội, Hồi hất người Bảng sang một bên, vùng dậy, la cầu cứu.

“Xoạt” thay cho lời nói, tiếng kêu rít gío của cái mã tấu, một bảo vật linh thiêng của đảng dắt sẵn trên lưng, được Bảng rút ra cầm gọn trong tay làm Hồi lạnh người. Bảng gầm gừ vài tiếng trong cổ rồi hăng hái tiến lên. Trong khi đó, phần vì sợ hãi phần vì hốt hoảng. Hồi chồm người dậy chạy được vài ba bước là ngã chúi xuống đất. Hồi toan vùng dậy chạy tiếp, cái bàn chân có dính dép râu đã đứng chặn ngang trước mặt. Hồi xanh mặt ngước nhìn lên, đôi tay run rẩy chống phía sau lưng cố tìm cách đẩy lết người lùi dần ra phía đường. Biết rõ ý định của Hồi, Bảng tiến thêm một bước nữa, cái mã tấu của Vẹm dí sát vào cổ nàng. Hồi chết lặng, đôi mắt trừng mở, hai hàm răng run lập cập đánh vào nhau. Cùng lúc ấy, Hồi nhìn nụ cười nhếch trên môi Bảng, nàng chợt hiểu lý do tại sao lại có tấm thẻ chứng minh nhân dân của ông Đăng nằm trong bụi tre hoang vu này.

Trước lúc ra đi và sau khi viết giấy để lại nhà, Hồi đã quyết một lần liều thác với Mười với Bảng. Đến lúc này, Hồi lại muốn đánh đổi mọi thứ để giữ lại mạng sống để trở về báo tin cho bà Đăng. Tự nghĩ thế, Hồi trầm tĩnh hỏi Bảng trong lúc lấy tay khép lại vạt áo ngực:

– Ông chủ nhiệm muốn… muốn gì?

Bảng ngửa mặt lên cười:

– Muốn gì à? Tự cô biết rồi đấy. Bác chưa được hưởng của… lạ, quyết không bỏ cuộc. Nếu cô muốn sống thì tự động cởi  quần ra, để lát nữa có cái mặc mà về. Còn nếu chống cự, đừng trách chủ nhiệm này động thủ không lưu tình.

– Nếu tôi… tôi cởi cho ông… ông có tha tôi không?

– Cô có tội gì đâu mà tôi tha với lại không. Thật tình tôi chỉ muốn cô.

Hồi dứt khoát tìm thời cơ dụ Bảng:

– Việc ủng hộ ông chủ nhiệm tôi không… tiếc, nhưng tôi còn phải lấy chồng, xin ông giữ kín hộ tôi nhá.

Bảng nói như bác:

– Ăn vụng thì phải chùi mép. Tôi nói tin ấy ra ngoài để làm tổn thương cái uy tín của tôi à?

– Liệu ông chủ nhiệm có… nuốt nhời không đấy?

Dĩ nhiên Hồi không tin Bảng, nhưng đứng trước tình thế này, bó buộc Hồi phải có một thái độ dứt khoát để tự cứu chính mình. Không do dự nữa, Hồi qùy trên hai đầu gối, để trần cái ngực ra trước mặt Bảng. Bảng ngây người nuốt vội hớp nước bọt, rồi mở bừng con mắt dán chặt vào đôi bồng đào no tròn, rắn chắc đang độ căng cứng của Hồi. Hồi đoán biết có sự giao động mãnh liệt trong Bảng. Nàng không ngần ngại ngồi nhổm người lên, tụt nốt mảnh quần xuống ngang đầu gối:

– Ông chủ nhiệm… hưởng rồi đừng quên lời hứa nhá?

–  Đã là một nhà cách mạng, ai lại đi nuốt nhời.

Khi vùng cỏ non đã phơi bày ra trước mặt Bảng , cái mã tấu là linh hồn của đảng trong tay Bảng rơi phịch xuống đất. Gã phanh ngực áo, cởi nút quần ra, rồi chồm lên, đè nghiến Hồi xuống đất.

Bằng một phản ứng nhanh nhẹn đã dự kiến trước, Hồi né người sang một bên, nhổm dậy vồ lấy cái mã tấu trên mặt đất. Động tác của Hồi rất nhanh. Kết qủa, cái mã tấu lại nằm gọn trong tay Bảng. Hồi lộ rõ ánh mắt đau đớn lẫn thất vọng. Nàng cúi xuống, kéo cái quần lên và khép vội lại tà áo. Tiếng Bảng rống lên như con bò trước mặt nàng:

– Đéo mẹ con khốn nạn này. Mày lại dám lừa đảng viên nhà nước à?

Cùng với tiếng nói mang đặc tính đảng vẹm là cái tát không thương tiếc trên mặt Hồi, nàng ngã chúi xuống đất, Bảng tiếp:

– Mày đã tính lừa chủ nhiệm Bảng này, tính lừa bạn tốt của bác thì mày phải chết theo thằng bố mày.

Sự thật đã được Bảng nói toạc ra trước mặt Hồi, nàng không còn nghi ngờ gì về lý do tấm thẻ chứng minh nhân dân của ông Đăng nằm trong bụi tre. Ý tưởng bảo vệ mạng sống mỗi lúc một thêm mãnh liệt trong Hồi, nhưng nàng không biết phải bảo vệ mình bằng phương cách nào. Nàng bối rối nhìn con thú đứng trước mặt, rồi nhìn xuống người nàng. Hồi tiếc vì đã hơi vội vàng trong phản ứng. Nếu bình tĩnh, chờ đợi thêm một chút nữa, biết đâu cái kết qủa đã đổi khác. Lúc này, việc dụ Bảng không thể thực hiện lại được nữa. Hồi liều lĩnh tìm lối thoát bằng cách đưa lá đơn ra trước mặt Bảng:

– Ông có giỏi thì giết tôi đi, giết đi. Tôi không sợ chết đâu. Tôi nói thẳng cho ông biết, trước lúc đi tôi đã dự phòng cho trường hợp này. Tôi đã viết thư, viết đơn để lại cho người nhà. Mẹ tôi không biết chữ nhưng sẽ mang sang nhà ông Lục nhờ ông ấy mang lên huyện và tòa án…

Bảng bối rối trước bản tin cực kỳ nghiêm trọng này. Gã thật không dự phòng trước được sự khôn ngoan của Hồi. Tuy nhiên, Bảng không còn thời gian để suy tính, chọn lựa phương án khác. Gã hùng hổ đạp mạnh một bàn chân với đôi dép râu vào giữa bụng Hồi. Hồi thét lên, hai tay ôm chặt lấy bụng trong lúc người ngã gập xuống đất. Thấy con mồi lại đổ kềnh xuống trên thảm lá, Bảng nhanh nhẹn buông con dao ra, nhảy chồm lên người Hồi. Lần này, Bảng không giật vạt áo, cũng không có ý định tụt mảnh vải che nửa phần người Hồi xuống, nhưng đưa hai bàn tay ra xiết chặt lấy cổ Hồi. Chỉ mấy phút sau, Hồi lả người nằm vật đầu sang một bên.

Rồi một tay Bảng đè dí cổ Hồi xuống đất, một tay khác luồn  vào ngang thắt lưng, lôi ra một sợi giây nhợ khá dài.Bằng một động tác rất thuần thục, đồng chí Bảng vòng sợi dây qua cổ Hồi xiết mạnh. Xiết xong, Bảng lật úp Hồi xuống. Gã kết một đầu sợi dây lại như cái thòng lọng và trịnh trọng đeo vòng hoa mới kết vào cổ Hồi. Đeo xong, một tay Bảng nắm chặt lấy đầu sợi giây, một tay lại kéo tụt cái quần của Hồi xuống. Gã ngần ngừ, đôi mắt thèm thuồng như đôi mắt “bác”, gương của bác, chẳng lẽ không theo. Gã mạnh tay hơn, Mấy phút sau, Bảng thở dốc, đứng dậy. Gã kéo xốc Hồi đứng lên theo. Gã với tay ghì một cành tre cứng ở phía trên đầu xuống. Khi một đầu khác của sợi giây đã được cột chặt vào thân tre rủ, Bảng yên trí buông tay ra. Cành tre uốn mình kẽo kẹt trở lại vị trí cũ. Nó kéo,  treo Hồi tòng teng lên trên mặt đất. Bảng đứng lau mồ hôi trán, rồi nhanh nhẹn thu hồi lại toàn bộ những giấy tờ của Hồi mang theo. Gã không quên đẩy một cái gốc tre lớn, gỉa làm như cái ghế đặt ngay dười chân Hồi. Xong việc, Bảng mắng gọn  một câu trước khi bỏ đi:

– Lúc này có cứu xuống cũng chỉ đem… chôn! Chống ai chả chống, lại đi chống nhà nước.

Ra đến chỗ dựa chiếc xe đạp, Bảng bình thản ngồi xuống vê bi thuốc lào cho vào cái nõ. Gã rít một hơi dài khoan khoái như chưa bao gìơ có một hơi thuốc… phê như thế. Gánh nặng đã trút xuống, Bảng vươn tay đứng dậy. Trước khi dắt chiếc xe ra khỏi lùm tre trở về báo cáo công tác, nhận thăng thưởng. Bảng không quên trở vào trong bụi tre xác minh sự việc lần nữa. Khi nhìn khuôn mặt trắng hồng và tấm thân nõn nà đã rũ liệt và biến đổi sang màu đen xạm với cái lưỡi lè hẳn ra khỏi miệng, Bảng xoa hai bàn tay vào nhau, cười nấc lên trong khoái trá.

Khi dắt cái xe ra khỏi lùm cây, đường vắng không một bóng người. Chỉ thấy nắng chiều vàng trên cánh Đồng Cạn như rực lên một  màu đò gay gắt. Bảng nhìn trước nhìn sau rồi vắt chân lên chiếc xe. Từng vòng bánh xe ngon trớn, dần rộn lên theo niềm vui trong lòng Bảng. Ở đó không còn một chút hình ảnh man rơ lẫn đau thương của người thiếu nữ quằn qoại rên xiết, rồi dẫy chết dưới vòng dây Bảng xiết mạnh quanh cổ nàng. Thay vào đó là những âm vang khen thưởng của đảng dành cho Bảng, cho Thọ. Hơn thế, con đường hoạn lộ của Bãng,Thọ, Vũ Đạo nhờ đó mà rực rỡ hơn nữa, Bổi vì, trên Đồng Cạn chỉ có loài cỏ dại này mọc lên và tồn sinh. Nó tồn sinh như ngôn ngữ của loài vô đạo:

–  Vượt mức sáng tạo. Không một ai bắt gặp nạn nhân trong trường hợp này mà không đưa

đến kết luận. Cô này có bầu rồi tự tử. Chả ai dám nghi ngờ có bàn tay của đảng ta dúng vào….

Bảo Giang .

Mùa thu năm 2000

Bình luận về bài viết này